Michael Hirschorn – Buổi cáo chung: Khả năng tồn tại của báo in và ngành báo chí ở Mỹ
19/03/2009 | 3:38 sáng | Chức năng bình luận bị tắt ở Michael Hirschorn – Buổi cáo chung: Khả năng tồn tại của báo in và ngành báo chí ở Mỹ
Category: Khủng hoảng báo chí, Thế giới
Thẻ: Báo in > New York Times
Phạm Văn lược dịch
Hầu như mọi lời tiên đoán về cái chết của các phương tiện truyền thông cũ đều ấn định một khoảng thời gian dài và thuận tiện cho ngày cuối cùng của báo in – ngày ấy tin tức loan đi hoàn toàn qua điện toán, và các máy in báo ngừng quay giữa một bộ sưu tập đèn chụp ảnh, các buổi họp báo, và những kỷ niệm não lòng. Phần lớn các tiên đoán này đều cho rằng có một giai đoạn chuyển biến dần dần, gần giống như các đồi cát di chuyển, như thay đổi cách cư xử, như chuyển đổi các mô hình, rồi tương lai kỹ thuật số từ từ hiện hình. Người ta nghĩ rằng các cơ sở hiện có – New York Times, Washington Post, Wall Street Journal – sẽ là những nhóm thực hiện việc chuyển hoá ấy, họ phải trải qua thử thách nhưng họ vẫn là các nguồn tin sớm nhất, có ưu thế nhất.
Nhưng nếu các phương tiện truyền thông cũ chết nhanh hơn thì sao? Nếu một trận bão thổi đến và xoá sạch các đồi cát thì sao? Nhất là, nếu tờ New York Times đóng cửa thì sao – chẳng hạn vào tháng Năm này?
Tất nhiên là có thể xảy ra. Báo cáo thu nhập của Công ty New York Times hồi tháng Mười 2008 cho thấy phải có các biện pháp quyết liệt trong 5 tháng tới, nếu không tờ báo sẽ không trả được món nợ khoảng 400 triệu đô la. Với khoản nợ hơn một tỉ đô la đã có trong sổ sách, dự trữ tiền mặt tính đến tháng Mười 2008 chỉ còn 46 triệu đô la, và không có cách chắc chắn nào để xoay xở kiếm thêm vốn (gần đây khả năng trả nợ của công ty bị đánh tụt xuống hạng junk status, tức hạng thấp nhất), tương lai của tờ báo xem ra không khá.
Khi nhắc đến tình hình khó khăn sẽ gặp trong tháng Năm 2009, Công ty Times tuyên bố thẳng hồi tháng Mười: “Để phân tích việc sử dụng tiền mặt của chúng tôi, chúng tôi đang đánh giá các dàn xếp về tài chính trong tương lai. Căn cứ trên những trao đổi giữa chúng tôi với các chủ nợ, chúng tôi hy vọng chúng tôi sẽ có thể xử lý món nợ và các nghĩa vụ tín dụng của mình khi đến hạn.” Ngay lập tức, Henry Blodget, chủ trang mạng Silicon Alley Insider, đưa ra lời phân tích sắc bén nhất về những cố gắng của Công ty Times, ông viết: “‘Chúng tôi hy vọng chúng tôi có thể xử lý được’? Nghĩa là: Có khả năng chúng tôi không thể xử lý được.”
Khủng hoảng tín dụng của tờ New York Times xảy ra vào lúc số phát hành giảm liên tục và càng lúc càng nhanh, lợi tức quảng cáo bị giảm mạnh, và tình hình kinh tế tệ hại nhất trong gần 80 năm. Cho đến tháng 12/2008, giá cổ phần của tờ báo đã xuống thấp đến mức trên lý thuyết có thể mua cả công ty với giá một tỉ đô la. Cựu biên tập viên điều hành (executive editor) Abe Rosenthal của tờ New York Times thường nói ông không thể tưởng tượng được một thế giới không có tờ Times. Có lẽ chúng ta nên bắt đầu tưởng tượng.
Dù vậy, khả năng tờ New York Times đóng cửa hoàn toàn vào tháng Năm 2009 tương đối ít. Nó có thể kéo dài cuộc sống của nó bằng nhiều cách. Công ty Times đã cắt bớt tiền lời cổ phần, vốn là nguồn lợi tức chính cho chủ nhân của tờ báo là gia đình Sulzberger, nhưng họ cũng là lý do đã làm kiệt quệ công ty đúng vào lúc cần đầu tư đáng kể vào các phương tiện truyền thông mới. Công ty có thể bán phần của mình trong toà nhà rực rỡ do Renzo Piano thiết kế – tốn của công ty khoảng 600 triệu đô la để xây và hoàn tất năm 2007, nhiều năm sau khi chuyện kinh doanh chính của tờ Times rõ ràng gặp mối đe doạ của kỹ thuật số. (Công ty đã dùng giá trị của toà nhà để vay tiền). Công ty có thể bán tờ The Boston Globe – hay đóng cửa nó hoàn toàn, vì chính công ty đã thừa nhận rằng trong thời điểm này khó bán các cơ sở truyền thông. Công ty có thể bán cổ phần của mình trong đội banh Boston Red Sox, dẹp hay bán vài cơ sở nhỏ hơn, hay trút gánh trang mạng About.com, vụ mua bán một cơ sở trên mạng hoàn toàn thầm lặng, vụ này hầu như là nguồn duy nhất có thu nhập tăng trong danh mục đầu tư của Công ty Times. Với những bước này, hay sau những bước này, tiếp theo sẽ là cắt giảm mạnh số nhân viên, bất kể biên tập viên điều hành Bill Keller hứa hẹn gì khác.
Có thể David Geffen, Michael Bloomberg, hay Carlos Slim sẽ mua tờ New York Times để làm một món trưng bày và giúp công ty khỏi trải qua cảnh khổ cắt giảm nhân viên này. Ngay cả Rupert Murdoch, sau khi trả giá quá cao cho tờ Wall Street Journal, hình như cũng ngấm nghé đem thêm tờ New York Times vào danh mục đầu tư của ông ta. Nhưng kinh nghiệm của Sam Zell, ông ta nhúng chân vào cơn ác mộng vang dội của Công ty Tribune hiện đã phá sản, chắc chắn sẽ làm dịu bớt nhiệt huyết của tất cả mọi người, trừ những tay tài phiệt kiêu căng nhất. (Và trong khi kinh tế thế giới đang đổ nhào chung quanh họ, các tay tài phiệt không còn tài phiệt như trước nữa). Mặt khác, Google hay Microsoft hay ngay cả CBS cũng có thể mua tờ Times với giá rẻ, chẻ nó ra thành nhiều phần, rồi biến nó thành máy viết tin để đánh bóng thêm bộ mặt trang mạng sẵn có của họ.
Bất kể việc gì xảy ra trong vài tháng tới, tờ New York Times sẽ phải thay đổi đáng kể và trầm trọng. Chẳng bao lâu – sớm hơn hầu hết chúng ta nghĩ – báo in sẽ không còn hiện hữu, và tờ New York Times dưới dạng chúng ta biết ngày nay cũng mất theo. Và có thể sẽ có nhiều công ty như vậy. Hồi tháng 12/2008, Fitch Ratings, một nhóm chuyên ghi nhận tình hình tài chính của các công ty truyền thông, đã tiên đoán rất nhiều tờ báo sẽ chết: “Fitch tin rằng sẽ có thêm nhiều tờ báo và nhiều nhóm báo vỡ nợ, đóng cửa và thanh lý trong năm 2009, và vài thành phố có thể sẽ không có báo in hàng ngày trong năm 2010.”
Sự sụp đổ của nhật báo in sẽ mang nhiều ý nghĩa. Đối với những người lớn tuổi còn muốn ra cửa mỗi sáng Chủ nhật để nhặt một ấn bản New York Times, sự phá sản này mang ý nghĩa chấm dứt một loại hình thái văn minh vốn là dấu ấn trong cuộc sống trưởng thành của chúng ta. Sự phá sản này cũng mang ý nghĩa chấm dứt một loại đời sống đô thị hầu như phóng khoáng của hàng ngàn người viết, nhà báo, và trí thức thuộc tầng lớp trung lưu sắc sảo, cho đến nay họ đã sống một cuộc sống tinh thần có phần quyến rũ. Và sự phá sản này sẽ hủy hoại nghiêm trọng khả năng làm lực lượng bảo vệ dân chủ của báo chí. Những người chủ trương thuần internet có thể cho rằng mạng điện tử sẽ phát sinh một tầng lớp mới không chuyên nghiệp gồm các nhà báo-công dân để lấp chỗ trống, nhưng ít nhất cho đến nay vẫn chưa ai trên mạng thay thế được các tổ chức đã có kinh nghiệm lâu đời trong việc thu lượm và loan báo tin tức – chưa nói đến khả năng, chẳng hạn, gửi phóng viên bay từ Mumbai qua Islamabad để giải mã các mối phức tạp trong cuộc xung đột Ấn-Pakistan.
Bước chuyển tiếp có vẻ thích hợp nhất cho tờ New York Times và các báo khác là đổi sang chỉ phát hành trên mạng (có lẽ ấn bản Chủ nhật có lời vẫn được in). Phần lớn độc giả của tờ Times đã đọc nó trên mạng. Trang mạng nytimes.com khoe là có 20 triệu người đọc trong tháng Mười 2008, và là trang mạng tin tức đứng thứ năm trên internet về mặt tổng số người vào đọc. (Số người đọc trong tháng Mười được tăng thêm nhờ cuộc bầu cử, nhưng vẫn…) Trong khi đó, báo in chỉ bán được cho một triệu độc giả mỗi ngày và đang giảm dần, và ấn bản Chủ nhật là 1,4 triệu (cũng giảm), nhưng qua trực giác người ta biết mạng điện tử đã đưa tờ Times đến đông độc giả hơn gấp nhiều lần.
Tất nhiên vấn đề hắc búa là một triệu độc giả trả tiền mua báo in để được cầm tờ báo và họ mang đến hàng trăm ngàn đô la cho một trang quảng cáo, họ mang thu nhập lại cho tờ báo nhiều hơn 20 triệu độc giả trên mạng, số độc giả này không trả tiền và không mang lại lợi nhuận. Ước tính bình thường cho thấy sản phẩm trên mạng điện tử chỉ có thể trả lương cho 20% số nhân viên hiện tại; giảm bớt nhân viên như vậy sẽ làm hại rất lớn (trong ngắn hạn) đối với khả năng thu lượm tin tức của tờ New York Times.
Nếu chúng ta nghe vài tiếng kêu hú mà không thấy cái xác đang quằn quại của ngành báo chí kiểu cũ và có chất lượng cao, đó là vì công chúng nói chung đã quen đánh giá thấp các ký giả và ngành báo chí. Mạng internet đã đóng góp rất lớn vào việc khuyến khích việc đọc tin một cách lười nhác, trong khi đó hầu như xóa bỏ sự khác biệt đầy ý nghĩa giữa các tờ báo. Câu chuyện từ Bắc Kinh hiện ra trên trang Google của tôi có thể đến từ nơi khác. Khi các khả năng làm tin dàn trải ra và dùng chung tin của nhau, bản tin đó cũng có thể xuất hiện bất kỳ nơi nào: một bản tin của Los Angeles Times sẽ xuất hiện trên Washington Post, hay ngược lại.
Nhưng đường lối kinh doanh của New York Times từ thời Abe Rosenthal làm biên tập hồi thập niên 1970, khi tạp chí New York lần đầu tiên đe doạ thế mạnh của tờ nhật báo đối với giới trung lưu bình dân lớp trên – và được vô số tờ báo khác khắp nước bắt chước – cách kinh doanh ấy đã ngấm ngầm làm hại giá trị vốn đã được công nhận đối với nghề làm báo đứng đắn. Nấp dưới danh nghĩa “phục vụ”, tờ New York Times đã bước dần tới phong cách rẻ tiền nhằm kiếm lời tạm bợ. Escapes! Styles! T magazine(s)! (Du lịch! Thời trang! Tạp chí T! tạp chí thời trang của tờ Times!). Dạo ấy, trò rẻ tiền này giúp tài trợ các văn phòng ở nước ngoài, tài trợ bài tường thuật về hoạt động kinh doanh, và vô số người có tham vọng viết bài đăng 5 kỳ để đoạt giải Pulitzer. Nhưng đường lối kinh doanh ấy dần dần làm hại nền móng của danh hiệu báo chí, bằng cách làm cho tờ báo cảm thấy phù phiếm. Các bài rẻ tiền dễ đọc hơn các bài tường thuật không mang lại lợi nhuận về nạn đói ở Sudan, nhưng nó không là loại bài độc giả nhớ sau khi đọc xong. Chẳng mấy người rươm rướm nước mắt khi đọc câu kết luận của “Thời trang Thứ Năm” chẳng hạn, dù các phân tích mua sắm hàng tuần thường rất hấp dẫn.
Một tờ New York Times sau thời đại báo in sẽ như thế nào? Người ta buộc phải có một kế hoạch mang lại lợi nhuận trên mạng điện tử, vì thế một trang mạng có thể bắt đầu trộn các bài tường thuật nguyên thủy của Times với bài viết được Times chấp nhận từ các nguồn tin khác đưa thẳng vào. Việc này cho phép tờ Times tiếp tục nhãn hiệu trực-tiếp-từ-Upper-West-Side [nơi đặt toà soạn] của mình lên toàn cầu mà không cần phải trải người ra từng tấc đất. Trong viễn ảnh lạc quan, các phóng viên còn lại – giờ đây nhiều người trở thành phóng-viên-kiêm-blogger – có thể dùng hiểu biết đáng kể của mình để trộn báo cáo của riêng họ với báo cáo của người khác, cho chúng ta một cái nhìn tổng hợp gần hiện thực hơn về thế giới, không bị vướng mắc vì sự thiếu hữu hiệu của dạng báo chí truyền thống. Độc giả của New York Times rốt cuộc có thể thực sự thấy nhiều hơn họ hiện thấy, qua các nguồn tin rải rác khắp thế giới, và đến được các khu vực và các vấn đề khó tường thuật trong một xuất bản phẩm chung chung.
David Remnick, biên tập viên The New Yorker, mới đây trong một buổi điểm tâm dành cho giới truyền thông, vạch ra rằng blog và báo cáo địa phương từ Mumbai vào lúc những giờ phút đầu tiên của cuộc tấn công khủng bố hồi tháng 11/2008 không thiếu các sự kiện đáng kể. Cũng thế, ở New Orleans sau vụ bão Katrina. Tôi nhớ đã theo dõi một cách ngấu nghiến vụ khủng hoảng ở Lebanon năm 2006 qua nhiều nguồn tin, tin của nhật báo Haaretz ở Do Thái chẳng hạn, không vì thế mà không đáng quan tâm hoặc không đáng tin cậy bằng tin của tờ New York Times. Giống như các bệnh viện lân cận hợp tác mua máy MRI đắt tiền, các nguồn tin báo chí sẽ khám phá ra rằng mạng điện tử cho phép (thôi được, bắt buộc) họ tập trung vào việc phát triển chuyên môn trong một phạm vi vấn đề và quan tâm hẹp hơn, trong khi giúp phóng viên từ các nơi khác và xuất bản phẩm khác tìm độc giả mới.
Trong viễn ảnh này, trang mạng nytimes.com bắt đầu giống với phiên bản lớn hơn, hay hơn, và ít thiên lệch hơn của Huffington Post, cho đến khi có ai thông minh hơn hoặc nhiều tiền hơn xuất hiện. Trang mạng Huffington Post là khuôn mẫu đầu tiên của tương lai báo chí: một liều thuốc tổng hợp tốt, một chỗ đông người viết bài, và là một đóng góp ngày càng lớn cho việc tường thuật sốt dẻo. Tổng hợp này cho phép trang HuffPo tiêu thụ tin tức mà độc giả của nó quan tâm nhất với chi phí thấp nhất, trong khi đó tập trung tài nguyên của mình vào các khu vực có ảnh hưởng cao nhất. Điều HuffPo không có, ít nhất là chưa có, là một ban cộng tác có thể vạch hướng đi, thực hiện các cuộc điều tra sâu, hay đem tin sốt dẻo. Nhưng tờ New York Times sau thời báo in sẽ có.
Hiển nhiên, trong ngắn hạn sẽ cắt bớt ký giả. Nếu 80% nhân viên của tờ New York Times rốt cuộc bị mất việc, nhiều người trong số họ sẽ không tìm được việc làm trong nghề báo. Nhưng về lâu dài, ngành báo chí không còn gánh nặng phải gói gọn một sản phẩm tin tức nhiều mục vào một gói thời-trang-hoành-tráng lớn hơn, khung cảnh ấy có thể là môi trường để chứng tỏ tại sao một bài tường thuật thật sự là quan trọng, và tại sao nó thậm chí đáng được người ta trả tiền. Các phóng viên giỏi nhất sẽ sống sót, và cuối cùng sẽ lớn mạnh. Một số sẽ được trang HuffPo lôi kéo (HuffPo đang kiếm bạc triệu trong khi các báo in cạnh tranh với nó thua lỗ) và phóng viên giỏi cũng sẽ được các nhóm cạnh tranh lôi kéo; cạnh tranh tất yếu sẽ phát sinh để bắt chước mô hình kinh doanh của HuffPo. Hoặc ngay cả các nhóm tin nhỏ hơn cũng lôi kéo phóng viên giỏi, như Talking Points Memo, các nhóm này thấy rằng giữ chi phí điều hành ở mức thấp sẽ cho phép họ có lời nhờ tin tức có chất lượng cao. Và một số phóng viên sẽ thành công khi trở thành phóng viên độc lập. Những người như Thomas Friedman, Paul Krugman, và Andrew Ross Sorkin (biên tập viên của blog thương mại DealBook, blog này là con bò vàng của tờ New York Times) sẽ rất có giá trên thị trường. Đối với họ và nhiều người khác, kinh nghiệm tốt để trở thành “một nhãn hiệu riêng” có thể làm say sưa, và có lẽ lợi lộc nhiều hơn là làm thành viên của một nghiệp đoàn tranh đấu để tăng thêm vài phần trăm lương trong lần ký hợp đồng sắp tới.
Cuối cùng, cái chết của tờ New York Times – hay ít nhất của bản in của nó – sẽ là một khoảnh khắc tình cảm, và một cú đấm mạnh vào ngành báo chí Mỹ. Nhưng có phải là thảm hoạ không? Trong lâu dài, có lẽ là không.
Nguồn: Michael Hirschorn, “End Times – Can America’s paper of record survive the death of newsprint? Can journalism?”, The Atlantic tháng 1 và 2 năm 2009.
Bản tiếng Việt © Phạm Văn
Bản tiếng Việt © tạp chí talawas
Bình luận
Không có phản hồi (bài “Michael Hirschorn – Buổi cáo chung: Khả năng tồn tại của báo in và ngành báo chí ở Mỹ”)