trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 89 bài
  1 - 20 / 89 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tư tưởngPhương Đông và Phương Tây
22.1.2008
Nguyễn Hữu Sơn
Phản biện tính hiệu quả từ luận đề "những hình ảnh của nước"
(hay là Yêu cầu cần phân biệt đặc điểm và giá trị của minh triết phương Ðông)
 
1.

Tuy cách đặt vấn đề và điểm nhìn khác nhau song chúng tôi nhận thấy có những điểm tương đồng nhất định trong cách hình dung của nhà nghiên cứu triết học đương đại Pháp F. Jullien với học giả Việt Nam Cao Xuân Huy (1900-1983) khi cùng bàn về minh triết phương Ðông, cùng so sánh tương quan hai truyền thống văn hoá Ðông - Tây, cùng bàn về tính hiệu quả do hai dòng định hướng tư tưởng ấy chi phối và đưa lại. Trước đây, Cao Xuân Huy đã xác định: "Tư tưởng của loài người tác dụng và phát triển theo hai phương thức: phương thức chủ toàn phương thức chủ biệt (...). Hai phương thức tư tưởng trên đây tuy đi ngược hướng với nhau, nhưng chúng vẫn quyện vào nhau trong mỗi người, mỗi nhà tư tưởng, mỗi dân tộc, mỗi nền văn hoá, mỗi thời đại. Chỉ có cái tỉ trọng, cái liều lượng của hai phương thức ấy trong mỗi người, mỗi dân tộc, v.v... là có khác nhau" [1] ... Gần đây, F. Jullien đã viết những dòng mở đầu trong thư gửi các bạn đọc Việt Nam nhân công trình Traité de l'efficacité - Bàn về tính hiệu quả (1977) của ông được dịch sang tiếng Việt:

"Trong tập tiểu luận này, tôi cố gắng tư duy tính hiệu quả bằng cách đào sâu sự chia tách giữa hai truyền thống văn hoá lớn này: một là truyền thống lập mô hình lý thuyết hướng về một sự ứng dụng thực hành, chính là nhờ vào truyền thống này mà khoa học và kỹ thuật phương Tây có được thành công; mặt khác, đó là truyền thống không lấy sự chủ động của một cái Tôi - chủ thể lập mô hình và hành động làm cơ sở cho tất cả, mà lấy xu thế của sự vật làm chỗ dựa và tìm cách khai thác tiềm thế được bao hàm trong tình thế lâm sự - từ truyền thống này trí tuệ chiến lược của Trung Hoa đã phát triển cùng với những gì đã truyền cảm hứng dồi dào cho minh triết Trung Hoa…" [2]

Tuy không đặt nhiệm vụ so sánh hệ thống quan điểm của F. Jullien với Cao Xuân Huy song những ý kiến khái quát trên sẽ định hướng cho tôi trong quá trình khảo sát cách thức lý giải của F. Jullien về tính hiệu quả từ luận đề "những hình ảnh của nước" và đi tới một vài nhận định ban đầu nhằm phân biệt cái gọi là đặc điểmgiá trị của minh triết phương Ðông so với tư tưởng triết học phương Tây.


2.

Trước hết tôi thấy cần lược thuật lại những điểm quan trọng nhất liên quan tới vấn đề trên đây trong công trình Xác lập cơ sở cho đạo đức (Ðối thoại của Mạnh tử với một nhà triết học khai sáng) của F. Jullien đã được giới thiệu ở Việt Nam từ nửa thập kỷ trước [3] . Công trình Xác lập cơ sở cho đạo đức... tập trung so sánh những phương diện căn cốt nhất trong quan niệm về triết học và đạo đức học giữa hai nhà tư tưởng thuộc hai thời đại và hai phương trời cách biệt nhau: Mạnh tử (385 - 304 trước CN?) và J. Rousseau (1712 - 1778). Qua 15 chương sách, tác giả đã làm nổi bật được những tương quan, những mẫu số chung, những mối quan tâm chung của hai nhà tư tưởng về cội nguồn của đạo đức là lòng trắc ẩn, sự huyền bí của tình thương và những dấu hiệu của ý thức đạo đức. Trên căn bản cơ sở đời sống vật chất - văn hoá - xã hội, tác giả tiếp tục khảo sát và so sánh các phương diện như tranh luận về bản tính con người, về việc khẳng định nhân tính - “bản tính thiện” như là đức nhân - cội rễ của tình đoàn kết, mối quan tâm “lo cho thiên hạ” và ước vọng về “sự công bằng ngự trị trên trần gian”... Từ điểm nhìn của một trung tâm văn hoá châu Âu hiện đại, học giả F. Jullien vừa thâm nhập vào nền văn hoá Trung Hoa cổ đại vừa tạo nên sự đối sánh mong muốn tạo lập một cách hình dung mới về những tương quan, sự đồng dạng, ý nghĩa phổ quát của chân lý đạo đức: “Nếu như tôi chọn trình bày những ý tưởng của Mạnh tử là người đầu tiên trình bày một cách rõ ràng tư duy đạo đức của người Trung Hoa thì đó là để đem lại cho suy tư đạo đức của phương Tây hiện đại bấy lâu nay bị giam hãm trong lịch sử của chính mình cơ hội của một sự đối chiếu giáp mặt” (tr. 27). Ðặt cược sự phân tích chủ yếu vào hệ thống tư tưởng đạo đức của Mạnh tử, F. Jullien nhấn mạnh cả những phương diện tạo nên bản chất giá trị nhân văn có ý nghĩa nhân loại lẫn những phương diện mới chỉ là đặc điểm và bộc lộ rõ giới hạn lịch sử của một thời đại, một trình độ văn hoá - xã hội cụ thể. Rõ ràng là từ tư duy đối sánh chiều sâu đã bộc lộ rõ nét những nhược điểm của minh triết phương Ðông và cả những khái niệm được coi là bất cập đối với triết học phương Tây. Ðó là việc F. Jullien nhấn mạnh những mặt mâu thuẫn, nghịch lý giữa tính hiện thực và lý tưởng, giữa đạo đức cảm tính và chính trị duy lý: “Ở đây còn có điều đáng suy nghĩ hơn là một nghịch lý. Mạnh tử muốn làm cho chúng ta dung hoà những điều không thể dung hoà được (...). Làm sao tưởng tượng được là có thể làm cho đòi hỏi đạo đức trùng hợp với thành công chiến lược? Hay là chúng ta đã sai lầm đào sâu khoảng cách giữa vertu (cải thiện, đạo đức) và virtu (sự kiên quyết, bạo lực)” (tr. 219 - 220); “Nhưng ta xử lý sao đây những sự cuồng loạn của bạo lực trong cõi trần, những tình thế bất công. Rõ ràng là Mạnh tử phải phân biệt hai trạng thái của thiên hạ - khi thịnh trị và khi bị loạn, khi có đạo đức hoặc khi vô đạo, nhưng ông một mực không chịu tách biệt chúng” (tr. 233)...

Trong Lời giới thiệu cho bản dịch công trình nói trên sang tiếng Việt, nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến đã khái quát sâu sắc bản chất ý nghĩa sự so sánh: “Có một chiều sâu khác thường trong phương pháp luận so sánh văn hóa Ðông Tây của tác giả có thể trình bày như sau: Hiểu lý trí Âu châu từ lý trí Trung Hoa và ngược lại, suy tư Trung Hoa bằng Âu châu và ngược lại" (tr. V). Ðồng thời dịch giả cũng nhấn mạnh ý nghĩa thời sự và tính vấn đề của đề tài: “Ðạo đức của cá nhân bao gồm hai loại quan hệ (hoặc trách nhiệm) đạo đức: quan hệ đạo đức của cá nhân với người khác, với những cộng đồng có liên quan đến mình và quan hệ đạo đức của cá nhân với bản thân mình. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, chúng ta coi nhẹ loại quan hệ (hoặc trách nhiệm) đạo đức của cá nhân với bản thân mình..." (Vii); tiếp đó triển khai cụ thể hơn nội dung cơ sở đạo đức trong cách nhìn của con người hiện đại: “Tự giác, chủ động trong hành vi đạo đức là biểu hiện của sự thống nhất trong quan hệ mình với mình và “mình dối gạt mình” là điểm tối kỵ trong đời sống đạo đức... Tinh thần coi trọng sự tự xét mình và sự tự giác trong hành vi đạo đức cùng một bản chất với tinh thần coi trọng sự xem xét độc lập và sự quyết định độc lập của chính mình trong hành động” (Xi), v.v... Tôi thức nhận rằng những thói bảo hoàng, gia trưởng; tâm thức vị kỷ và lối sống khôn lỏi "minh triết bảo thân"; sự sợ hãi tính dân chủ và kìm nén người tài; cách đánh giá con người nặng về nghi thức ứng xử và hình thức đạo đức bề ngoài... đều là tàn dư của tư tưởng Nho giáo và cần tiếp tục được cải biến, thanh lọc, xác lập lại trong một xã hội hiện đại.


3.

Giới hạn trong phạm vi luận đề về "những hình ảnh của nước" được hiểu như một nội dung quan trọng trong tư tưởng phương Ðông và thể hiện sâu sắc trong học thuyết của Lão Tử (thế kỷ V trước CN), trước hết chúng tôi tổng thuật lại suy tư "những hình ảnh của nước" trong sách Ðạo đức kinh.
  • "Thượng thiện nhược thuỷ. Thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh (...). Phù duy bất tranh, cố vô vưu" (Thượng thiện giống như nước. Nước làm lợi cho vạn vật mà không tranh... Ôi, vì không tranh nên không sai lầm - Chương 8).

  • "Ðại quốc giả hạ lưu, thiên hạ chi giao, thiên hạ chi tẫn..." (Nước lớn như ở hạ lưu vốn là chỗ hợp lại của thiên hạ và cũng là giống cái trong thiên hạ - Chương 61).

  • "Giang hải sở dĩ năng vi bách cốc vương giả dĩ kỳ thiện hạ chi" (Sông và biển sở dĩ làm vua của trăm hang bởi vì khéo ở dưới nó - Chương 66).

  • "Thiên hạ nhu nhược mạc quá ư thuỷ nhi công kiên cường giả, mạc chi năng thắng" (Trong thiên hạ chẳng có gì mềm yếu hơn nước nhưng cũng chẳng gì có thể vượt hơn nước trong việc công phá cái kiên cường - Chương 78).
Từ những đặc tính trên của nước, Lão Tử mở rộng tụng ca phẩm chất "bất tranh" của nước; phổ quát hoá đức khiêm tốn, khiêm nhượng và nghệ thuật sống khiêm nhu; nâng cấp vận dụng phép "nhu đạo" và một phương diện thích hợp của lối ứng xử "nhu thắng cương, nhược thắng cường" trở thành phương châm chỉ đạo cả các lĩnh vực hoạt động chính trị, quân sự và ngoại giao.

Khi tiếp nhận luận đề về "những hình ảnh của nước", F. Jullien nhấn mạnh: "Một hình ảnh xuyên qua tư tưởng của Trung Hoa cổ - vừa tưới cho nó vừa xâu chuỗi nó lại - đó là hình ảnh của nước. Nó là, đây là lời trong sách Lão tử (th. 8), cái gần gũi hơn cả với đạo" [4] . Ông đã biện biệt khúc triết mối liên hệ và sự khác nhau giữa khái niệm đạo với nước (nước là một hình thức thực tại được thực tại hoá và cũng là thực tại ít được thực tại hoá hơn cả) và đặc biệt cũng đã khảo sát và phân tích một cách nghiêm túc, sâu sắc "những hình ảnh của nước" theo đúng tinh thần học thuyết của Lão Tử. Nói khác đi, nhà nghiên cứu cũng đã dựa theo mô hình của Lão Tử, tức cũng lựa chọn những đặc điểm của nước hiểu như là những giá trị, những phẩm chất, những thế mạnh để rồi phân tích, bình luận, định giá.

Phải chăng F. Jullien đã thực sự hiểu cách đặt vấn đề thuận chiều theo cách lựa chọn của Lão Tử - chỉ lựa chọn một số đặc điểm mà lại không đặt trong tổng thể các đặc điểm của nước - và quan trọng hơn, lại đã chiều theo cách lập luận mang đầy tính lý tưởng, ảo tưởng và không tưởng của Lão Tử. Xin lấy một ví dụ. Ðặt "những hình ảnh của nước" của Lão Tử trong mối tương quan và sự đối sánh với binh pháp Tôn Tử, F. Jullien viết trong sách Bàn về tính hiệu quả:

"Ðặc điểm của sức mạnh đích thực, xét đến cùng, là nó không (tự) cưỡng ép. Tư tưởng Trung Hoa không ngừng trở về môtip này: bản chất của nước là chảy về chỗ thấp; nếu như nơi nào chảy qua nó xô trôi cả đá, chẳng qua là nó theo độ dốc đón dòng chảy của nó. Nước là hình ảnh của cái không ngừng tìm một lối thoát, để tiếp tục con đường của nó mà không cưỡng bức xu thế của nó, trước sau theo khuynh thế của nó: "Cách dụng binh cũng như cách chảy của nước. Nước tránh chỗ cao, chảy vào chỗ thấp, dụng binh cũng vậy, phải tránh chỗ vững chắc của địch, tấn công vào chỗ yếu kém" (Tôn tử, th.6, "Hư thực"). Chỗ vững chắc là chỗ địch có "thực lực", chỗ yếu kém là nơi địch bị "rỗng" ("hư") - yếu kém hoặc cạn lương thảo": nhà chiến lược, giống như nước, anh ta luôn luôn nương sát vào tuyến mất ít sức nhất và bất cứ lúc nào cũng tìm được nơi có thể tiến dễ dàng nhất" (tr. 231-132).

Liên hệ với học thuyết của Lão Tử có thể nghĩ tới hai vấn đề chính.

Thứ nhất, hình ảnh của Nước được hiểu như một biểu trưng triết học về sức mạnh của cái "yếu", "mềm yếu", "nhu thuật", "nhu đạo", "thiên hạ chi chí nhu", "thuận theo tự nhiên" và như thế thì tốt nhất phải là tránh được chiến tranh. Chính Lão Tử đã hướng đạo: "Dụng binh hữu ngôn: Ngô bất cảm vi chủ nhi vi khách, bất cảm tiến thốn nhi thoái xích... Kháng binh tương gia, ai giả thắng hỹ" (Phép dụng binh có câu: Ta không dám làm chủ, chỉ làm khách, không dám tiến một mà chỉ lùi mười... Hai bên giao tranh, kẻ nhường là thắng - Chương 69). Ðó là quan điểm hiệu quả tuyệt đối lý tưởng song lại trở nên không tưởng trong thực tế; hoặc nói đúng hơn, được coi là phương châm xử thế, phương châm cảnh báo nhưng rất hiếm có cơ hội thi hành.

Thứ hai, xét trên phương diện mục đích và tính hiệu quả, cách hiểu về nước giữa Lão Tử và Tôn Tử khác xa nhau. Với Lão Tử, ưu thế và giá trị của nước là ở chỗ "thiện nhược", "thiện hạ", "nhu nhược", "bất tranh" và sự chiến thắng của nó là ở ý nghĩa, khả năng chứ không phải chỉ ở mục đích cụ thể, trước mắt; với Tôn Tử, sức mạnh của nước được vận dụng như một kĩ xảo, phương thuật, chiến thuật trong một điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, nhằm đến mục đích và hiệu quả cụ thể (tránh chỗ vững chắc, đánh chỗ yếu kém, nơi cạn lương thảo, nơi dễ dàng...).

Ðoạn so sánh trên cho thấy sự khác biệt giữa Lão Tử và Tôn Tử trên cả hai phương diện tính mục đích tính hiệu quả khi cùng vận dụng "những hình ảnh của nước". Rõ ràng Lão Tử chung hơn, phổ quát hơn, triệt để hơn, lý tưởng và ảo tưởng hơn (hay diễn đạt như F. Jullien, nước kiểu Lão Tử "đưa chúng ta vào con đường của Ðạo, nó đưa chúng ta ngược lên tới cõi chưa phân hoá", "là thực tại ít thực tại hoá hơn cả") - do đó ông là nhà triết học. Khác biệt Lão Tử, Tôn Tử thiên về ứng dụng, cụ thể hơn, xác thực hơn, trực diện hơn, mang tính kinh nghiệm và vụ lợi hơn (hay theo cách hình dung của F. Jullien, nước kiểu Tôn Tử đã xa nguồn đạo hơn, phân hoá nhiều hơn, "thực tại hoá" nhiều hơn) - do đó ông là nhà tư tưởng quân sự.


4.

Từ nhiều điểm nhìn khác nhau, các nhà Ðạo học đã ghi nhận những đóng góp quan trọng của Lão Tử trong hệ thống tư tưởng triết học cổ đại nhân loại và cũng đã chỉ ra những mặt hạn chế không thể tránh khỏi của ông trong việc nhận thức về thế giới tự nhiên và xu thế vận động xã hội, về mối quan hệ giữa đời sống vật chất và tinh thần con người. Lần này, với tầm nhìn đối sánh Ðông - Tây, F. Jullien đã sử dụng thước đo "tính hiệu quả" để đo lường tư tưởng của Lão Tử về chiến tranh, quyền lực và lời nói; trong đó có luận đề quan trọng về "những hình ảnh của nước". Với tư cách là người sống trong môi trường văn hoá phương Ðông, chúng ta tiếp nhận những kiến giải của F. Jullien như thế nào? Và đồng thời, trong bối cảnh xu thế toàn cầu hoá, chúng ta sẽ cùng ông gián cách mà nhìn nhận, phản tỉnh, phản biện di sản tinh thần được gọi là "minh triết phương Ðông", xác định rõ hơn đâu là giá trị và đâu là đặc điểm để có những định hướng phù hợp trong tương lai?

Trong Chương IX - Những hình ảnh của nước (sách Bàn về tính hiệu quả...), F. Jullien đã lý giải sâu sắc phẩm chất của nước theo quan điểm của Lão Tử:

"Chỗ thấp nơi nước không ngừng chảy xuống theo độ dốc là cái cho phép nó ngự trị. Nếu như sông và biển có khả năng "làm vua trăm khe lạch"..., đó là vì chúng có cái "đức" [khả năng] ở dưới trăm khe lạnh; bởi vậy chúng có khả năng ngự trị khe lạch. Nghĩa đầu tiên là một nghĩa tự nhiên - quen thuộc với chúng ta; hiệu quả được thu nhận từ phía dưới đường dốc, quãng hạ lưu, và biển tăng trưởng hứng nhận mọi thứ nước trên đời không phải chạy vạy tìm chúng; những dòng nước chảy và hội tụ về nó chẳng qua là theo xu hướng của chúng, biển chỉ có việc tiếp nhận chúng. Nhưng dưới cái nghĩa này len vào nghĩa khác có tính chiến lược khôn khéo hơn, dù có phải như là ngược lại với chiến lược, thậm chí dập tắt cả khả năng chiến lược: chảy về chỗ thấp, nước chẳng bao giờ phải "tranh" với vật nào (Lão tử, th. 8). Ðể được ở dưới thấp, người ta không cần phải đánh nhau. Chiến lược tốt nhất là bắt đầu bằng việc làm cho mọi chiến lược đối địch từ bỏ quyết tâm thi thố, loại trừ cạnh tranh, và hiệu quả này thật là quỷ quyệt. Vì không đấu tranh với ai cho nên không ai tranh giành với mình được (Lão tử, th.22). Không những người ta không nghĩ đến tranh giành mà người ta thậm chí không thể tranh giành được - vì làm gì có ai, có chuyện để để mà tranh giành. Bằng việc có ý thức đặt ta vào chỗ thấp hơn, chỗ mà kẻ khác không thèm đặt chân, thế là ta tước bỏ của y khả năng đối diện và kình địch và từ đó ta tháo kíp nổ sự chống cự của y; làm cho chính sự đối kháng bị nhỡ tàu và mất đi; ta làm trước việc tước vũ khí của kẻ khác" (tr. 232-233).

Rõ ràng là F. Jullien đã chú ý tới cả hai phương diện của nước. Trước hết, "nước chảy chỗ trũng" là một thuộc tính tự nhiên, một hiện tượng tự nhiên, một bản tính - vô thức và mang "một nghĩa tự nhiên", hay nói khác đi, phẩm chất của nước được Lão Tử nhận thức như một kinh nghiệm tự nhiên và cũng chỉ lựa chọn lấy một khía cạnh của qui luật tự nhiên ("chảy chỗ trũng") mà thôi. Như thế, Lão Tử không nhằm khám phá, khai thác, tìm hiểu bản chất tự nhiên (nước) mà chỉ mượn hiện tượng tự nhiên "nước chảy chỗ trũng", tận dụng "những hình ảnh của nước" để khái quát thế ứng xử đạo đức và xã hội, phổ quát hoá thế ứng xử trong chiến tranh, quyền lực và lời nói. Tựa như kinh nghiệm của tục ngữ, Lão Tử đã tuyệt đối hoá cái qui luật tự nhiên "nước chảy chỗ trũng" vốn chính xác trăm phần trăm (100%) để rồi mặc định thành qui luật xã hội, mặc định thành suy tư có ý nghĩa triết học. Xét từ trong bản chất, một sự mặc định như thế là mang đầy tính ngụy biện, phiếm chỉ, cảm tính và hình thức chủ nghĩa... Ðể hình dung rõ hơn đặc điểm này, chiếu ứng với qui luật "nước chảy chỗ trũng", xin giả định nếu Lão Tử lại đề xuất các qui luật "nước thượng nguồn bao giờ cũng thanh sạch", "sông, biển có nước là nhờ khe, hang"; hoặc giả định Ngài lại chọn hiện tượng "mây bay lên trời" (có phần trái ngược với nước)... thì tình hình sẽ ra sao?

Sau khi diễn giải "nghĩa tự nhiên" của nước theo cách trình bày của Lão Tử, F. Jullien tiến tới phản vấn và xác định đặc điểm của phẩm chất nước khi vận dụng vào nghệ thuật đánh trận, đúng hơn là nghệ thuật né tránh đụng đầu và thoát khỏi tình thế chiến trận: "Nhưng làm thế nào tư duy mối quan hệ này với kẻ khác trong đó người ta thắng được kẻ thù mà lại không đụng độ? Trong sách Lão tử có sự giải thích bằng một loạt cách diễn đạt nghịch lý, mỗi lần như vậy có sự rút đi bổ ngữ được bao hàm bên trong động từ được đưa ra (theo thể thức của vi - vô vi): "chinh chiến" mà "không chiến", hoặc là "xắn tay áo mà không có tay", hoặc là "đi chiến đấu mà không có kẻ thù", hoặc là "nắm vững trong tay không có vũ khí" (tr. 69). Ðiều này có nghĩa là "không có sự kháng cự do giao chiến", đây là lời bàn góp của nhà bình chú" (tr. 233-234)... ở đây, F. Jullien đã tinh tế nhận ra cả một hệ thống lối "diễn đạt nghịch lý", hình thức tựa như chơi chữ "rút đi bổ ngữ" để từ đó bao quát đầy đủ cả hai trạng thái vi vô vi cũng như tiến đến hoàn tất một luận đề logic phi logic "vi vô vi". Theo sách Ðạo đức kinh, "vi vô vi" (Chương 63) có thể được hiểu theo 3 nghĩa: làm cái đạo vô vi, làm mà như không làm gì cảlàm mà không mắc trong cái làm! Trong thực chất, "vi vô vi" cũng là kiểu nhận thức gần với Ðạo, còn "chưa phân hoá" và "ít thực tại hoá". Chính vì thế mà yêu cầu "vi vô vi" vẫn mang tính khả năng, lý tưởng nhiều hơn và khi cần đem ứng dụng, thi thố và "thực tại hoá" thì nó lại bộc lộ những bất cập bởi không thể xác định, đo đếm, định lượng bằng thước đo hiệu quả cụ thể. Rút cuộc, tinh thần "bất tranh" của nước hay yêu cầu "vi vô vi" là đặc điểm quan trọng trong học thuyết Lão Tử cũng như trong hệ thống minh triết phương Ðông song liệu chúng đã đạt đến những giá trị hay chưa lại là chuyện khác.

Từ việc khảo sát "những hình ảnh của nước" trong học thuyết của Lão Tử và chiếu ứng với binh pháp Tôn Tử được hiểu như một bước dịch chuyển "thực tại hoá" từ lý thuyết đến hiện thực, F. Jullien đi đến nhận xét: "Ðã không thể mô hình hoá được xung đột, vì nó thường xuyên thay đổi, chẳng còn "lời phát biểu" nào khác ngoài lời phát biểu về biến số (variable): không quan tâm lắm đến việc xây dựng một lý thuyết về những hình thức, tư tưởng Trung Hoa coi trọng hơn cả việc dựng lên một hệ thống những sự khác biệt; có nghĩa là đáng lẽ ra chú tâm rút ra những nét chung ít nhiều có tính chất cố định, ít nhiều có tính chất ổn định, nó lại làm công việc khai thác xem những khả năng biến hoá có thể đi đến đâu. Ðối với nó, vấn đề không phải là nhận dạng trong sự tìm tòi những bản chất, cách làm giống như lối mòn quen thuộc hằn lại khá đậm trong siêu hình học của chúng ta, mà nó thiên về kiểm kê (các phương sách, phương tiện) (tr. 239-240)... Có thể hiểu được rằng F. Jullien đã xác định được một vài đặc điểm cơ bản trong tư tưởng Trung Hoa. Ðó là việc "không thể mô hình hoá được xung đột" nên phải thay thế bằng lời phát biểu chung về những biến số. Ðó là việc "không quan tâm lắm đến việc xây dựng một lý thuyết về những hình thức" nên chỉ tập trung khai thác xem những khả năng biến hoá có thể đi đến đâu. Ðó là vấn đề "không phải là nhận dạng trong sự tìm tòi những bản chất" mà lại thiên về kiểm kê các phương sách, phương tiện. Xin nhắc lại, tất cả những điều đó đều là "đặc điểm" song đã đạt tới "giá trị" hay chưa lại là chuyện khác!


5.


Về mặt ngữ nghĩa, các khái niệm đặc điểm giá trị là khác biệt nhau. Ðặc điểm mới chủ yếu nói lên nét riêng về mặt hình thức và không phải bao giờ cũng bao hàm cả phần nội dung, chất lượng; giá trị thì trước hết là sự khẳng định nội dung, chất lượng và bao gồm các đặc điểm của chất lượng. Tiếp nhận các hệ thống tư tưởng quá khứ nhất thiết cần phân biệt rõ đâu mới chỉ là đặc điểm và ở đâu mới đạt tới phẩm chất giá trị; từ đó mới có thể hoạch định chiến lược cần khắc phục, bài trừ những mặt hạn chế nào và cần khẳng định, kế thừa, phát huy những phương diện di sản truyền thống nào. Chẳng hạn, với tư cách nhà nghiên cứu (chứ không phải nhà triết học lập thuyết), Cao Xuân Huy đã đi đến tổng kết tư tưởng phương Ðông hướng theo phương thức chủ toàn thì đó trước hết là đặc điểm chứ chưa phải là giá trị. Hãy thử giả định, nếu vẫn kéo dài sự trung thành với thao tác "rút đi bổ ngữ" và các quan điểm của Lão Tử: "Bất thượng hiền sử dân bất tranh", "Tuyệt thánh khí trí", "Tuyệt học vô ưu", "Thượng đức bất đức", "Quốc gia tư hôn", "Kỳ chính muộn muộn", "Vô chấp cố vô thất", "Phù duy bất tranh, cố vô vưu", "Tri giả bất bác"... thì biết lấy gì làm động lực cho con người cá nhân và xã hội phát triển? Nếu phương Ðông vẫn mãi tôn thờ sự "anh nhi", "hồn toàn" và sự bình đẳng "bất tranh" thì vị tất đã có tiến bộ xã hội? Nếu phương Ðông vẫn còn ảo tưởng theo Lão Tử: "Tiểu quốc, quả dân. Sở hữu thập bách chi khí nhi bất dụng. Sử dân trọng tử nhi bất viễn tỉ. Tuy hữu chu dư vô sở thừa chi. Tuy hữu giáp binh vô sở trần chi. Sử dân phục kiết thằng nhi dụng chi. Cam kỳ thực, mỹ kỳ phục, an kỳ cư, lạc kỳ tục. Lân quốc tương vọng, kê khuyển chi thính tương văn. Dân chi lão tử bất tương vãng lai" (Nhỏ nước, ít dân, khiến cho có nhiều khí cụ mà không dùng, khiến dân trọng sự chết mà không đi xa; tuy có đò xe cũng không đi đò xe làm gì; tuy có áo giáp giáo nhọn cũng không bày ra làm gì; khiến người ta trở lại thắt nút dây mà dùng; ăn món ngon ở một nơi; mặc đồ dẹp ở một nơi; yên ổn ở một nơi; vui với phong tục một nơi. Nước láng giềng thấy nhau được; tiếng chó tiếng gà nghe được. Dân đến khi già, khi chết cũng không qua lại với nhau - Ðạo đức kinh - Chương LXXX)... Khác biệt hơn, tư tưởng phương Tây hướng theo phương thức chủ biệt thì đó trước hết cũng là đặc điểm chứ chưa phải là giá trị song đó lại là hướng đi của toàn thế giới. Ðặt trong tương quan chung, theo tôi, phương thức chủ biệt nặng đồng cân giá trị và thế giới hiện đại tiếp nhận chiều hướng của nó nhiều hơn.

Ðương nhiên, trong xu thế toàn cầu hoá ngày nay, phương Ðông rất cần tiếp nhận phương Tây (và ngược lại), và phương Tây rất cần tự thanh lọc, điều chỉnh (và ngược lại). Song hãy thử giả định, nếu phương Tây vẫn là phương Tây hướng về "chủ biệt" và phương Ðông vẫn là phương Ðông hướng về "chủ toàn", thì màu sắc bức tranh thế giới đến nay sẽ ra sao?

Trở lại với đề tài trên, chúng tôi nhận thấy việc F. Jullien xác định đúng đắn các đặc điểm của luận đề "những hình ảnh của nước" và việc vận dụng, chuyển hoá thành một phương diện trong tâm thức phương Ðông là điều hết sức quan trọng. Trước hết, việc khai thác và nhân hoá "những hình ảnh của nước" theo cách Lão Tử thực chất chỉ là sự lựa chọn lấy một số đặc điểm tự nhiên của nước và mang đầy tính kinh nghiệm. Ðối với tư duy khoa học (phân tích thành phần hoá học, xác định đặc điểm hoá - lý...), điều này thật ít ý nghĩa và hầu như khó mà kiểm chứng. Khi "những hình ảnh của nước" được nâng cấp thành Ðạo "nhu đạo", "nhu thuật", "bất tranh", "thiên hạ chi chí nhu", "thuận theo tự nhiên" thì vì tính chất "ít thực tại hoá hơn cả" nên chúng khó được thực thi trong hiện thực, chúng thuộc về tính lý tưởng hoá hơn là hiện thực hoá.

Rút cuộc, Ðạo của nước (Lão Tử) trong thành phần minh triết phương Ðông thiên về khái quát đặc điểm kinh nghiệm ứng xử hơn là giá trị định hướng tiến bộ xã hội.

Hà Nội, tháng 5 – 2007


Phó giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Hữu Sơn hiện làm việc tại Viện Văn học Việt Nam.

© 2008 talawas



[1]Cao Xuân Huy: Tư tưởng phương Ðông - gợi những điểm nhìn tham chiếu (Nguyễn Huệ Chi soạn, chú, giới thiệu). NXB Văn học, Hà Nội, 1995, tr. 83-85.
[2]F. Jullien: Bàn về tính hiệu quả (Hoàng Ngọc Hiến dịch và giới thiệu). NXB Ðà Nẵng, 2002, tr. 3.
[3]F. Jullien: Xác lập cơ sở cho đạo đức (Ðối thoại của Mạnh tử với một nhà triết học Khai sáng) (Hoàng Ngọc Hiến dịch và giới thiệu). NXB Ðà Nẵng, 2000, 388 trang. Xem thêm Nguyễn Hữu Sơn: "Ðọc Xác lập cơ sở cho đạo đức.... Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, số 9 - 2001, tr. 107-108.
[4]F. Jullien: Bàn về tính hiệu quả... Sđd, tr. 229