trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 80 bài
  1 - 20 / 80 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Xã hộiĐồng tính luyến ái trong xã hội hiện đại
22.5.2002
Trân Sa
Tình yêu không tội lỗi
 
Sự thực rất đáng buồn là những ngộ nhận về người đồng tính ái vẫn còn tồn tại rộng rãi và sâu sắc ở khắp nơi, một khúc mắc chưa bao giờ thực sự được giải quyết một cách triệt để, một tội lỗi, một sự xấu hổ nhục nhã mà người đồng tính ái bị bắt buộc phải chia bởi những người ghét bỏ chống đối họ.

Có những ngộ nhận đầy thành kiến đối với người đồng tính ái vì chưa hiểu, nhưng cũng có những ngộ nhận mang đến sự chống báng vì không muốn hiểu. Kẻ không muốn hiểu thì có tốn công giải thích hay bày tỏ cách mấy cũng vô ích. Ðó là những kẻ rất hẹp hòi. Khi đã rất hẹp hòi thì họ không chỉ hẹp hòi đối với riêng người đồng tính ái; họ sẽ hẹp hòi đối với tất cả, với những người cho là giống họ, ngay cả người yêu hay phối ngẫu dị tính ái. Ðó cũng là những người đáng thương hoặc đáng sợ nhất. Với hiểu biết quá hạn hẹp về tha nhân và sự bất khả tương cảm với kẻ khác (kẻ khác đây không chỉ là người đồng tính ái, mà còn là người khác màu da, khác văn hóa, khác tôn giáo, khác trình độ học vấn, khác sở thích thưởng ngoạn, khác quan điểm chính trị, v.v...), những người này nếu không cầm quyền lực thì chỉ ích kỷ mưu cầu cho chính bản thân và không bao giờ biết đến hạnh phúc thật sự của yêu thương, kẻ nắm quyền lực thì sẽ là tai họa cho chính họ và tập thể họ cai trị, là những người lãnh đạo độc đoán và tồi tệ. Trong lịch sử cận đại, nếu người ta thường nhắc đến Hitler như một kẻ lãnh đạo độc tài tàn ác nhất thì ông ta đã muốn thủ tiêu không duy người đồng tính ái mà còn muốn xóa bỏ cả một dân tộc Do Thái, giết tất cả những người tàn tật, và bất cứ ai đi ngược lại ý chí thống trị của ông ta. Cũng thế, nếu người đồng tính ái đang bị vùi dập dã man tại những quốc gia Hồi giáo cuồng tín, nơi mọi quyền lực nằm trong tay đàn ông dị tính, thì những người phụ nữ ở đấy dù có là dị tính ái cũng đang bị đối đãi cực kỳ tàn tệ.
*

Ðoàn kết gây sức mạnh, điều này hiển nhiên như chân lý. Mạnh mẽ vững chắc nhất vẫn là những dân tộc biết đoàn kết, không phải chỉ trong ý nghĩa của sự sử dụng nhân lực mà còn trong sự đối đãi công bằng và tôn trọng. Chỉ trong điều kiện nhân quyền được bảo vệ, trong sự tự do, bình đẳng, và ổn định, con người mới có thể phát triễn toàn vẹn và vận dụng được tất cả khả năng của họ để tương tác phục vụ cho xã hội. Trong tập thể nhân loại nửa số là đàn ông và nửa kia đàn bà, với sự xê xích nhất định nào đó tùy hoàn cảnh, thì tỷ lệ người đồng tính ái đang hiện diện vẫn luôn luôn đủ đông đến mức có thể tạo ra một ảnh hưởng quan trọng cho tập thể ấy. Tuy tỷ lệ này vẫn chưa được biết thật chính xác, một số thống kê dè dặt cho rằng họ có thể chiếm đến 10% nhân loại trong khi những thống kê khác đưa ra con số cao hơn, chắc chắn là số người đồng tính ái công khai để được đưa vào thống kê chỉ là một phần nhỏ so với đám đông đồng tính ái đang im lặng nhẫn nhục giấu mình. (Thiết tưởng phải nêu ra lần nữa lý do tại sao họ vẫn chưa công khai sống cái cuộc đời họ muốn sống; không kể những hành động bạo hành đã từng xảy ra, được hay không được thông tin, không kể những thủ đoạn trù dập trong môi trường học tập hay làm việc vẫn đang rất phổ biến; ngay cả những sự mỉa mai, tránh né, phê phán, nhạo báng hay thương hại của gia đình và xã hội cũng là sự thương tổn rất nặng nề cho lòng tự trọng và làm vỡ nát đi sự tin tưởng không thể thiếu về giá trị công lý bình đẳng giữa người đối với người, là điều quan trọng nhất cho sự tồn tại hãnh tiến và hạnh phúc của mỗi con người). “Thiểu số” rất đáng kể của người đồng tính ái này đang hàng năm đóng những số tiền khá lớn vào các sở thuế để đầu tư vào công tác giáo dục cho những đứa bé sinh ra bởi những người đang đối xử với họ rất tàn tệ, đang đóng góp vào những dịch vụ xã hội mà không mấy ai trong bọn họ sử dụng tới (ngừa thai, nghỉ thai, sinh đẻ, giữ trẻ, bảo vệ trẻ,...), đang nuôi sống cho những quốc gia dựa vào thu nhập từ ngành du lịch, và cái “thiểu số” này là một con số không thể thiếu trong danh sách những nhân tài thế giới xưa nay. Năng lực không bị phân tán bởi việc sinh đẻ và nuôi nấng phục vụ gia đình của họ là nguồn lợi quí báu nhất cho xã hội; điều đáng tiếc, nhiều xã hội chỉ đang tận lực làm thui chột, kiệt quệ, hay vùi dập đi những tiềm năng ấy, như vẫn đang làm đối với một nửa dân số của mình, là phụ nữ.

*

Ngộ nhận thông thường nhất đối với đồng tính ái là cho rằng quan hệ tình cảm của những con người này bị thôi thúc thuần vì những ham muốn tình dục với người đồng phái. Quan niệm như vậy chẳng khác gì với việc cho rằng mục đích người dị tính ái tìm đến nhau không ngoài vấn đề tình dục; vậy thì cũng không ai còn cần đến hôn nhân hay tình nghĩa gia đình, mà những dịch vụ tình dục và sinh đẻ cũng như nuôi dạy trẻ cũng có thể làm loài người hoàn toàn thỏa mãn. Ngược lại với cái nhìn trên, người đồng tính ái yêu nhau không với mục tiêu tình dục, nếu cho rằng mục đích duy nhất và “đúng đắn” nhất của tình dục là để sinh sản. Nếu chỉ đi theo tiếng gọi của tình dục như một bản năng thiên nhiên trong mỗi con người là để sinh sản thì họ sẽ đi tìm người khác giống để tha hồ thỏa mãn lạc thú. Cái thôi thúc mãnh liệt đưa họ vào những mối quan hệ mật thiết và gần gũi âu yếm nhất là sự bí mật mà loài người vẫn luôn ca tụng và băn khoăn tìm kiếm: Tình yêu. Ðây có thể nói là một bản năng khác, mạnh mẽ không kém bản năng tình dục, mà họ chỉ có thể thể hiện được cùng với người đồng phái; và tình dục có được ở những người đồng tính ái lại là cái luôn đến sau, đó là lòng khao khát được hòa nhập hoặc chia sẻ trọn vẹn với người mình yêu cả trí và hồn lẫn mọi cảm giác sung sướng hồn nhiên có thể có được của mọi thân xác còn khỏe mạnh và tươi trẻ. Lúc ấy, tình yêu sẽ tương đối được thỏa mãn. Không khoảng cách nào giữa đôi bên, họ sẽ an tâm với cảm giác yêu thương và được yêu thương, không giới hạn. Có những cặp đồng tính ái, cũng giống như những cặp dị tính ái khác, một khi cảm thấy an toàn trong tình yêu tìm thấy đã chung sống lâu dài cho đến già; hạnh phúc của họ không đặt nặng lên vấn đề tình dục mà là sự chia sẻ mọi niềm vui hay công việc khác trong cuộc đời.

Tình dục của người đồng tính, như thế, là một thứ tình dục đã được tiết chế và chỉ dành cho tình yêu. Tuy có những trường hợp người đồng tính phóng túng trong việc tìm kiếm những cảm giác thân xác, họ không phải là đại diện của những người đồng tính ái. Cũng tương tự như ở người dị tính, không phải ai cũng là những kẻ sớm mận tối đào làm nạn mãi dâm trở thành một ngành kinh doanh trên thân xác người phụ nữ.

*

Ngộ nhận nói trên đưa đến kết luận là người đồng tính ái tội nghiệp chỉ chạy theo những ham muốn nhục dục “quái đản” nhất thời và cuối cùng chỉ chuốc lấy cho mình những cơn trầm cảm nặng nề. Trầm cảm là một căn bệnh đang phổ biến cho nhân loại cùng lúc với nguy cơ nhân mãn đang càng lúc càng mang lại những mâu thuẫn xã hội, chiến tranh và thiên tai. Người đồng tính ái đang cùng chia sẻ với nhân loại sự trầm cảm đó, họ lại là đối tượng của những trù dập đàn áp thường ngày. Nếu có lúc người đồng tính ái bị những ca trầm cảm nặng nề hơn, thì đó là thời điểm khi mâu thuẫn gia đình và xã hội về vấn đề đồng tính ái cấp tác trực tiếp vào bản thân nhất. Trong thành kiến, kích báng của xã hội, tình yêu của người đồng tính không chỗ đứng công khai dưới mặt trời, tự do chung sống đôi lứa bị cấm chặn, phẩm giá bị bôi nhọ, trầm cảm là một trạng thái bị gây ra, không phải là điều tự chọn. Ngoài ra, nếu người đồng tính ái có trầm cảm vì thất vọng trong tình yêu, thì sự trầm cảm này cũng chẳng khác gì sự trầm uất của người dị tính ái khi thất bại trong tình cảm. Những khoảng thời gian khác, khi không bị đàn áp hay xúc phạm, đa số người đồng tính ái là những kẻ vui tươi, bay nhảy và phóng khoáng. Không bị bó buộc bởi một tờ giấy hợp đồng hôn nhân hay những đứa con, họ có được sự tự do (luôn bị ghen tỵ và tìm cách tước đoạt) để đi tìm một thứ tình yêu đích thực và những giá trị hay niềm vui mới lạ khác trong sự sống. Trong hành trình tìm kiếm này, một số đông người đồng tính ái gắn bó với sự sáng tạo hay trình diễn nghệ thuật và thương yêu nhân loại hơn, dù nhân loại có đối xử với họ thế nào đi nữa. Bởi nghệ thuật đích thực nào lại không gắn liền với tình yêu? Và chỉ trên mảnh đất của nhân loại mà tình yêu mới có thể được gieo cấy.
*

Một ngộ nhận khác: người đồng tính ái là những kẻ yếu đuối và dễ bị đàn áp. Ðẹp đẽ hơn như thế, họ là những con người dũng cảm và hiền lành nhất. Ðó là những người đàn ông cương quyết không sử dụng đàn bà như nô lệ và phương tiện truyền giống. Ðó là những người đàn bà độc lập và can cường không chịu lệ thuộc, phụ thuộc và làm gánh nặng cho đàn ông. Họ có thể bị bạo hành nhưng vẫn không bạo động. Họ không có một thái độ hay hành động thù ghét nào đối với những kẻ đàn áp man rợ lên sự sống mình. Mọi cuộc tranh đấu đòi quyền bình đẳng của họ đều đã và đang được thực hiện một cách có nhân tính, khác hẳn với thái độ của những kẻ đối lập mù quáng. Vô thức hay có ý thức, bẩm sinh hay là một sự chọn lựa cho mình một cách sống, dù gì đi nữa thì người đồng tính ái cũng đã có được sự dũng cảm kềm chế được bản năng sinh đẻ, như một hy sinh hay cố gắng thần linh để giúp cân bằng dân số cho quả đất, như một sự phản kháng hiền hòa chống lại sự độc ác và tham lam vô tận của con người, trong đó có lẽ mạnh nhất và có ảnh hưởng nguy hại đến nhân loại nhất là lòng tham quyền lực lẫn tham lam sinh đẻ. Ngày nào những bất công nam nữ còn tồn tại, sự thù ghét giữa hai giống tính còn mạnh mẽ, nạn nhân mãn còn đe dọa, chiến tranh còn tiếp diễn, trẻ thơ còn bị cha mẹ xâm phạm, hắt hủi, hoặc bỏ rơi, ngày đó người đồng tính ái còn là một biểu tượng cho cái đẹp của lương tâm nhỏ bé còn sót lại của giống người.
*

Ðồng tính ái là những thiên thần đang cầm những chùm chuông leng keng đi cảnh báo về điều ác và tai họa nhân mãn của con người; là những kẻ cố gắng giữ lại sự hồn nhiên lãng mạn của tình yêu đã thiếu dần trong nhân loại đang đắm mình trong những cuộc bức hiếp, tàn sát và những cơn rặn đẻ cô đơn đau đớn. Ðó cũng là những kẻ đang vác thập giá chịu khổ hình mang đến bởi cái nhân loại mà họ đang chung sống và yêu thương. Họ đến với trần gian với một thứ tình yêu đặc biệt và hồn nhiên dành cho người cùng giống của họ, không tham muốn trường sinh bất tử đời này qua kiếp khác, không vĩnh viễn giành giựt những chỗ đất trên quả địa cầu sẽ càng ngày càng nghẹt cứng người này, không muốn làm một gánh nặng nào cho kẻ đến sau. Họ khẳng định mình không tội lỗi. Họ chẳng muốn để ai khóc khi họ sẽ đi khuất; cái họ từng muốn trong sự sống ít ràng buộc, không hệ lụy và thiếu vị kỷ đến kỳ lạ của họ, là làm cho kẻ khác cười, ngay cả khi người ta làm họ khóc.