trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 80 bài
  1 - 20 / 80 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Xã hộiĐồng tính luyến ái trong xã hội hiện đại
28.5.2002
Trân Sa
Một dấu cộng tốt đẹp hơn cho xã hội
 

 

“Tất cả thế giới là một sân khấu

Và tất cả mọi đàn ông đàn bà đều là những diễn viên

Họ có các lối đi vào và các lối đi ra

Và một con người trong cuộc đời mình thủ rất nhiều vai diễn”

W. Shakespeare

(As You like it, Màn 2, Cảnh 7)

Sẽ là một sự tối dạ khủng khiếp nếu cho rằng những nguồn thông tin mang lại kiến thức về những thay đổi cải tổ trên thế giới là một vấn đề khó khăn phức tạp (và nguy hiểm?!) cho các nước lạc hậu với trình độ tổ chức và ý thức xã hội thấp. Hầu như với các quốc gia như thế không có một chọn lựa nào khác ngoài việc phải mở hết những cánh cửa đã bị khóa lại từ bao nhiêu ngàn năm, trăm năm, chục năm để không những đón nhận tìm hiểu về những nguồn thông tin ấy mà còn tham dự vào những thay đổi, gia nhập vào thế giới hiện đại để không còn bị tụt hậu nữa. Từ chối công việc này chẳng khác gì việc một đứa bé sợ hãi trường lớp không chịu đi học, tránh né sinh hoạt với tất cả những bạn bè cùng lứa để phải mù chữ và thua sút cũng như mất đi mọi kỹ năng xã hội. Cảm giác an toàn tạm thời trong căn nhà nhỏ bé cuả cha mẹ làm nó dễ chịu bao nhiêu thì sẽ là nguyên do cho tâm lý sợ hãi cuả nó bấy nhiêu một khi phải bước ra ngoài để giao tiếp với người khác.

 

Có nhiều người tỏ ra kinh sợ trước viễn ảnh Việt Nam sẽ biến thành một nước Thái Lan thứ hai trong lãnh vực mua bán tình dục với khách ngoại quốc. Nạn mãi dâm tồn tại và phát triển không chỉ ở những nước nghèo mà còn ở những quốc gia sung túc nơi có vấn đề nghiện ngập ma tuý. Khi sự tôn trọng giưã người và người còn bị chối bỏ, khi phụ nữ vẫn còn là đối tượng bị sử dụng cho việc thoả mãn sinh lý cuả đàn ông, lúc ấy vấn nạn mãi dâm vẫn còn trầm trọng.

 

Mãi dâm là một vấn đề về kinh tế và quan hệ bất bình đẳng xã hội, không phải là vấn đề cuả khuynh hướng khác nhau về tính dục. Mặc dù tệ nạn này phổ biến rộng rãi hơn nhiều trong giới dị tính ái,  không ai ấu trĩ đến nỗi  có thể qui kết rằng dị tính ái là hiểm hoạ cho một xã hội nghèo đói trong vấn đề mãi dâm khi mở cưả giao dịch với các nước ngoài. Cái người ta nên lưu tâm và thay đổi là thái độ cuả nhiều người đàn ông muốn sử dụng đàn bà như một thứ đồ, vật, đồ chơi, một phương tiện mà họ có thể dùng tiền bạc lẫn thủ đoạn để mua bán, song song với những tâm lý tự tôn khác xem nữ giới như một hạng người có đẳng cấp kém cỏi dưạ trên khả năng và sức lao động, đúng hơn là sức mạnh cuả bắp thịt.

 

Từ những cách nhìn có tính cách lợi dụng ấy dẫn đến quá nhiều sai lầm trong vấn đề hôn nhân “truyền thống”. Ðó là cách người đàn ông thành lập cho mình một tập thể nhỏ trong đó ông ta là một ông hoàng, một chủ nhân cai trị và sau đó truyền ngôi truyền chức cho các ông hoàng và ông chủ tương lai. Cấu trúc gia đình truyền thống như vậy là một sự sao chép hoàn hảo cuả những cấu trúc xã hội phong kiến. Sự đập vỡ những nền quân chủ kéo theo nhiều thay đổi về cấu trúc gia đình, rộng lớn nhanh chóng hơn ở một số quốc gia phương Tây, và chậm chạp hơn ở phương Ðông với “truyền thống” vương quyền độc tài sâu đậm.

Khi đạo đức xã hội truyền thống“Trung thần bất sự nhị quân” ở Trung Hoa và Việt Nam không còn, phụ nữ cũng không còn bị cạo đầu bôi vôi thả bè trôi sông khi phạm tội ngoại tình và có thể tái giá sau khi chồng chết. “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”  không còn, thì cũng không còn “phu xướng phụ tuỳ” , không còn màn “Chồng giận thì vợ làm lành. Miệng cười hớn hở thưa anh giận gì”, mà vợ có thể mang chồng ra toà vì tội đánh vợ, hành hạ tinh thần vợ, hoặc ly dị khi đôi bên không cùng giải quyết được những mâu thuẫn. Tuy nhiên, nhiều người đàn ông vẫn còn nuối tiếc những đặc quyền một thời cuả cha ông và khư khư muốn bảo vệ những cái gọi là “truyền thống”; hệ  quả: tỷ lệ ly dị càng lúc càng cao, một số phụ nữ kéo dài thời gian để quyết định bước vào hôn nhân, hoặc không còn cả ý muốn lập gia đình, tập trung vào việc xây dựng nghề nghiệp để có thể sống được một cuộc đời độc lập dù có một người đàn ông trong cuộc sống mình hay không. Ở vài nước phương Ðông nơi những luật lệ hoặc đạo đức truyền thống bó buộc những cặp vợ chồng phải tiếp tục chung sống với nhau cho đến chết mặc cho những xung đột quá lớn không giải quyết được biến gia đình là một điạ ngục trần gian. Nạn nhân dĩ nhiên là những người chồng, vợ mà có lẽ tác hại mạnh mẽ nhất là trên con cái họ, những đưá bé với sự chịu đựng mỏng manh hơn hết.

 

Tại Việt Nam, truyền thống gia đình vẫn là sự hãnh diện đầu môi, trong khi hiện nay rất ít quốc gia trên thế giới có thể cạnh tranh được với Việt Nam về vấn đề chồng chuá vợ tôi. Với đa số gia đình, vị trí cuả người chồng vẫn thường là ở những phòng khách, trong khi người vợ được giao phó toàn quyền những xó bếp. Cảnh tượng cuả những buổi tiệc hay lễ lạc, khi những người đàn ông nghiễm nhiên ngồi  mâm trên và ăn trước trong khi cánh đàn bà làm công việc nấu nướng phục dịch có thể làm xốn mắt những người ngoại quốc cấp tiến nhưng đối với hầu hết đàn ông Việt Nam đó là truyền thống xã hội đáng giữ. Và mặc dù xã hội Việt Nam vẫn làm ra vẻ tự hào về những người phụ nữ, vợ và mẹ đáng yêu đáng quí cuả mình, câu chưởi thề thông dụng nhất, được phát ra hàng ngày trong mỗi giây phút đồng hồ, qua tất cả âm ngữ điạ phương, vẫn là “Ðéo mẹ. Ðụ má. Ðụ mạ.” từ những cái miệng cuả những đứa con trai, người chồng và người cha.  Ðiều này chưa bao giờ là một vấn đề bị phản đối trong xã hội Việt Nam từ  xưa nay. Người ta có thể dạy con không chưởi thề chung chung, hoặc không chưởi thề chung chung, nhưng chưa bao giờ ý thức về sự khinh miệt tiềm tàng sâu xa từ gốc rễ đối với những người mẹ. Trong những cuộc hôn nhân còn tính “truyền thống” cao, người vợ vẫn là những người “bợ” , vẫn là những người “em”  bị xem như những kẻ nô dịch khi phải về làm dâu nhà chồng, hầu hết đều bị đàn áp hay lạm dụng bởi gia đình chồng hay những người chồng “dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về”.  Và người chồng, dù có thua vợ đến muời tuổi đi nữa vẫn có quyền xưng “anh”, vẫn có thể ra oai như một con khủng long khạc lửa.

 

Ý nghiã và giá trị đích thực cuả tính truyền thống phụ thuộc vào lợi ích cuả nó cho toàn thể xã hội. Một truyền thống không còn có thể được chấp nhận hay chịu đựng nữa có thể bị xem là hủ tục, như tục mua bán thê thiếp, tục tảo hôn,  trong cái gọi truyền thống hôn nhân cuả Trung quốc và Việt Nam một thời xa xưa. Luật hôn nhân cũng như những luật lệ khác trong mọi quốc gia đều được thay đổi thêm bớt liên tục để càng lúc càng bảo đảm được sự công bằng và an toàn cũng như các nhu cầu đa dạng cho  tất cả những công dân cuả họ. Hôn nhân, ở nhiều nước trên thế giới, không còn chỉ bó buộc trong những lễ cưới và tờ hôn thú, đã có rất nhiều người “sống chung không hôn thú” (common-law) và được luật pháp cũng như xã hội công nhận nhiều quyền lợi và trách nhiệm tương tự như những cặp vợ chồng có giấy hôn thú. Từ trên dưới một thập niên nay, đa số các quốc gia phương Tây đã công nhận sự sống chung hợp pháp cuả hai người đồng tính như là một gia đình sống chung không hôn thú, hoặc với các tên gọi như  “civil unions” (tạm dịch “hôn nhân dân sự”), partnership (tạm dịch “quan hệ hợp tác chung sống”) với những quyền lợi xã hội và trách nhiệm về y tế, bảo hiểm, tài sản, thưà kế, v.v.  Hoà Lan đã dẫn đầu thế giới trong việc chính thức thực thụ công nhận hôn nhân giữa người đồng tính ái, với tất cả quyền lợi và nghiã vụ y hệt hôn nhân dị tính;  tiếp đó là Iceland và Ðức, cũng như Hoà Lan, chính quyền hoàn toàn công nhận lễ kết hôn cuả người đồng tính là hợp pháp tuy không cho phép họ nuôi con nuôi (Iceland) hay hưởng quyền được giảm thuế (Ðức). Thuỵ Ðiển, Ðan Mạch, Na Uy,  Anh, Pháp, Mỹ, Canada, Hungary, Brazil, Tây Ban Nha...  đều đã và đang công nhận quyền lợi và trách nhiệm cuả người đồng tính ái sống chung như những gia đình không hôn thú, hay hôn nhân dân sự, quan hệ cộng tác chung sống với quyền nuôi con nuôi (Thuỵ Ðiển, Ðan Mạch, Na Uy, Anh, và vài tỉnh bang Mỹ và Canada).

 

Cấu trúc truyền thống hôn nhân trên nhiều cường quốc trên thế giới như vậy là đã được sửa chữa cộng trừ thêm bớt rất nhiều và chưa có một dấu hiệu nào đe doạ cho nền tảng xã hội - kinh tế - chính trị - văn hoá vững chắc cuả họ. Ngược lại ở những nước có truyền thống hôn nhân cũ kỹ nhất hiếm khi được quét bụi qua một lần như một số quốc gia ở Ðông Âu, Trung Ðông, Á châu thì lại có vô vàn những chao đảo bất ổn,  gần như là truyền thống, về kinh tế, chính trị lẫn xã hội.

 

Gia đình là một cách sống, một sự chọn lưạ, một nhu cầu. Ngoài những bộ lạc kém văn minh và một vài quốc gia quá chậm phát triển, chưa một quốc gia nào cưỡng bách bằng luật lệ một cá nhân phải lập gia đình. Ðiều này cho thấy một mẫu hình hay cấu trúc gia đình truyền thống nhất định nào đó không hề là điều kiện sống còn cho một quốc gia. Sinh đẻ là một bản năng không phải chỉ cuả con người mà cuả cả hàng hà sa số những sinh vật. Người ta chỉ nên lo ngại quả điạ cầu sẽ không còn đủ chỗ ở cho con người và tất cả mọi loài, chỉ nên lo sợ về viễn ảnh cuả môi sinh bị tàn phá cùng những cuộc đại chiến trong tương lai không phải chỉ là đẫm máu.

Xã hội là một tập hợp tổ chức chặt chẽ cuả nhiều cá thể với những bản sắc khác nhau và những đơn vị gia đình đa dạng. Nó không phải là một cái xưởng đẻ với tất cả công nhân là những con người máy được chế tạo y hệt nhau, với hai giống phái nhất định là nam và nữ,  mặc những bộ đồng phục y hệt nhau dành cho nam hoặc nữ, và “làm việc” theo một cấu trúc chương trình đã được thảo sẵn. Trong giới dị tính ái, có đông đảo những cặp vợ chồng dị tính ái  không thể có con, hoặc không muốn có con, những người đã ly dị sống một mình trong thời gian rất dài, những người chỉ thích sống đời độc thân, họ cũng như những cặp hoặc những cá nhân đồng tính ái, không thể bị phủ nhận như là những kẻ không đóng góp gì cho xã hội, không ích lợi hay quan trọng đối với xã hội.

 

Quan niệm cho rằng vai trò gia đình truyền thống bị đảo lộn bởi hôn nhân đồng tính ái do đó sẽ làm lung lay cả cơ cấu xã hội hoàn toàn không có một cơ sở vững chắc nào, nếu không nói là quá nông cạn và chật hẹp. Ðã từ lâu, trước khi vấn đề hôn nhân đồng tính được mang ra trước những bàn họp, vai trò truyền thống cuả chồng và vợ trong những gia đình dị tính đã được uyển chuyển đảo lộn khi cần thiết. Chồng có thể bợ và vợ đã có thể chồng, trong phòng ngủ lẫn ngoài phòng ngủ. Nhiều người vợ có thể đã thay thế vị trí trước kia cuả chồng trong việc kiếm cơm nuôi cả gia đình, nhiều người chồng đã biết thay tả, cho con bú, nấu cơm, dọn dẹp nhà cửa. Cũng như đã từ lâu, nhiều phụ nữ dị tính ái đã cắt tóc ngắn, có thể lái máy bay, máy cày, chơi những môn thể thao trước đây chỉ dành cho phái nam, nhiều đàn ông dị tính nấu bếp nhà hàng, buôn bán ngoài chợ, hành nghề may vá, v.v. Sự đảo lộn vai trò cuả một số người đồng tính nào đó, khi đóng vai nam, khi thủ vai nữ  không có gì khác với sự đổi vai cuả những cặp vợ chồng dị tính, ngoài vấn đề hoàn toàn riêng tư cuả họ bên trong phòng ngủ. Nhắc lại lời tuyên bố cuả ông Pierre Trudeau, vị thủ tướng (đã quá vãng) được dân Canada yêu quí nhất trong hầu hết những vị lãnh đạo cuả họ, khi sửa đổi hình luật để bảo vệ cho người đồng tính ái vào năm 1969: “Không có một chỗ nào dành cho nhà nước trong những phòng ngủ cuả dân tộc”.

 

Lại nhắc đến Việt Nam, bao giờ Việt Nam mới có được một vị lãnh đạo có thể phát biểu một câu nói như thế, hoặc như thủ tướng Carl Bildt cuả Thuỵ Ðiển: Chúng ta chấp nhận tình yêu đồng tính ngang bằng với tình yêu dị tính”.

Có người cho rằng ở Việt Nam không ai công khai tự bạch mình là đồng tính ái, và phần lớn chẳng biết đồng tính ái đầu cua tai nheo ra làm sao, chỉ có một hai, người bác sĩ và không bác sĩ mới biết chẩn đấy là một căn bệnh. Có lẽ những người tự cho mình “biết” này hoặc là có chui vào phòng ngủ cuả người đồng tính để khám lén nhưng vội vã quá nên nhòm không rõ. Tuy nhiên họ chỉ là một thiểu số quá nhỏ để đại diện cho cả một xã hội. Phải có lý do để người đồng tính ái tại Việt Nam phải sợ hãi che dấu mình đi: Cái người ta sợ nhất trong sự sống là gì nếu không là sự độc ác và ngu dốt trong hình dạng cuả một thứ quyền lực tập thể? Luật pháp Việt Nam chưa có một điều khoản nào được đặt ra để bảo vệ người đồng tính trước thứ quyền lực đám đông này: một sự công nhận tình yêu, hôn nhân (có hôn thú hay không hôn thú) hoặc kết hợp sống chung giưã hai người đồng tính ái là  hoàn toàn hợp pháp. Như thế, một cách gián tiếp, những người nắm quyền lãnh đạo cuả Việt Nam, từ xưa cho đến nay, vẫn còn bao che cho sự kỳ thị đủ mọi hình thức đối với người đồng tính?

 

Thế giới sẽ không vui vẻ, hạnh phúc hơn sao, nếu không còn những mâu thuẫn không cần thiết và những khổ đau phi lý? Một quốc gia không mạnh mẽ hơn sao, khi không còn những chia rẽ, khi người ta có được sự tôn trọng và tự tin để sống hạnh phúc và mang hết khả năng ra làm việc phục vụ cho một xã hội biết đối đãi công bình?