trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
Tư tưởng
Triết học
  1 - 20 / 177 bài
  1 - 20 / 177 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tư tưởngTriết học
Loạt bài: Kỉ niệm 280 năm ngày sinh Immanuel Kant (22.4.1724-22.4.2004)
 1   2   3   4   5   6   7 
15.5.2004
Thái Kim Lan
Dẫn luận tác phẩm „Phê phán lý tính thuần túy“ của I. Kant
 1   2   3 
 
 4. PPLTTT trong trào lưu triết học đương đại.

4.1. Duy lịch sử hay "Tái thiết" siêu nghiệm (Retranszentalisierung)?

Với chủ thuyết duy lịch sử, Rorty [1] (1978) theo chân Nietzsche là người dầu tiên đã nêu lên nghi vấn về tư tưởng nòng cốt của triết học siêu nghiệm cho rằng chỉ có một thế giới duy nhất của nhận thức (eine einzige Welt des Erkennens).

Rorty phê bình ý tưởng chỉ có một thế giới tri thức (eine epistemische Welt) dưới hình thức một đoản thiên lịch sử triết học đương đại. Ðoản thiên này gồm có hai phần lấy hệ thống triết học siêu nghiệm của Kant làm tiêu chuẩn phân biệt.

  • Phần đầu là giai đoạn "tái siêu nghiệm" ("Retranszendentalisierung"): trong giai đoạn này nhiều xu hướng triết học khác biệt nhau gay gắt đều nhắm mục đích cách tân triết học siêu nghiệm, bởi lẽ những khuynh hướng khác biệt này như học thuyết thực dụng của Peirce, hiện tượng học của Husserl, chủ thuyết hiện sinh của Heidegger trong Sein und Zeit, Wittgenstein trong Tractatus và Husserl trong giai đoạn đầu, đều có đối tượng khảo sát nằm trong việc chứng minh hay truy tầm những điều kiện của tri thức độc lập với kinh nghiệm (Wissen) mà Kant đã đề ra.

  • Giai đoạn thứ hai là khuynh hướng "Hủy (hay giải) siêu nghiệm" ("Detranszendentalisierung"): Hủy siêu nghiệm bao gồm những học thuyết thực dụng (Pragmatismus) từ Peirce đến Dewey, từ hiện tượng học chủ thể chuyển qua triết học về "tha nhân", từ triết học phân tích triển khai đến Quine, Sellars, sau đó Davidson và Putnam, từ Wittgenstein của Tractatus đến Wittgenstein của Những khảo sát triết học (Philosophische Untersuchungen), từ Heidegger của Sein und Zeit - triết học cơ bản (Fundamentalphilosophie) - đến Heidegger của Triết học "Suy tư về" (Philosophie des Andenkens). Trong giai đoạn này mọi người không còn tìm cách thiết lập một bộ sườn khái niệm tiên thiên và một dấu mốc thực tại Archimedes làm tiêu chuẩn cho tri thức nữa. Trong tiến trình tranh luận về nhận thức thực tại của triết học siêu nghiệm, kỳ vọng của Kant tìm cho triết học một thế đi vững chãi như khoa học cuối cùng lại nhường bước cho chủ thuyết tâm lý phản ứng tri thức luận (erkenntnistheoretischer Behaviorismus).

  • Hãy đơn cử một ví dụ: Quine đã dẫn ra 3 luận cứ chống lại sự thiết lập cơ sở tiên thiên (Sđd): chân lý và nhận thức chủ yếu thuộc về bản chất khoa học hơn là triết lý; bộ sườn khái niệm chúng ta dùng để tri thức thực tại (faktisch) chỉ là một trong nhiều khả thể; ngoài ra những vấn đề triết học đều tùy thuộc vào hoàn cảnh (kontextabhängig).

Rorty từ chối một cách sôi nổi quan niệm có một tri thức (Wissen) trong nghĩa khoa học tuyệt đối mà Hegel đã sử dụng trong Phänomenologie des Geistes (Hiện tượng học của Tinh thần) để phê bình Kant. Khái niệm "tri thức tuyệt đối" này còn vượt xa hơn sự đòi hỏi yếu tố tiên thiên trong tri thức mà Kant đã xem như là một bảo đảm cho tính khách quan của tri thức. (Hegel đã năng động hóa yêu sách về tính khách quan của Kant mà ông cho là còn "tĩnh" (statisch), bởi vì ở mỗi cấp bậc khác nhau của tri thức sẽ có một đòi hỏi về tính khách quan (Objektivitätsanspruch) thích hợp với cấp bậc ấy. Những yêu sách này lại được tương đối hóa trong viễn tượng dựa vào một cấp bậc cao hơn của một tính khách quan vô giới hạn, và tính khách quan này lại được giải thể ở một cấp bậc cao hơn nữa để cuối cùng là Tri thức tuyệt đối toàn thể).

Ngược lại với triết học siêu nghiệm, Rorty cho rằng giá trị khách quan của tri thức nằm trong "lịch sử" như là cơ sở tài liệu bao gồm những dữ kiện khách quan, từ đó Rorty chủ trương quá trình "lịch sử hoá phổ quát" (universale Historisierung).

Nhưng tình hình chung cho thấy là chưa có một quan điểm mới nào của các xu hướng nói trên có thể đứng vững lâu dài cả. Ngày nay các bộ môn khoa học không còn tạo nên một hiện tượng nhất quán mà chỉ tùy theo phương pháp và ý hướng tri thức, cho nên triết học nhất quán của khoa học nói chung mà PPLTTT biện minh cũng không còn có ý nghĩa nữa. Tuy nhiên, thay vì thuật ngữ "khoa học" nói chung (die Wissenschaft) ta có thể nói đến những khoa học được thảo luận trong PPLTTT và ta sẽ thấy những luận cứ trong PPLTTT đều có những lý do chính đáng. Ví dụ khoa vật lý học chẳng hạn, khoa vật lý đã chuyển đổi khái niệm nhân quả theo hướng lý thuyết gần đúng (wahrscheinlichkeitstheoretisch) nhưng trong bản chất đã không bãi bỏ tư duy nhân quả: cái đi trước đối với cái đi sau vẫn là nguyên nhân, vẫn là lý do tại sao cho cái đi sau. Ngoài ra môn toán học được PPLTTT sử dụng ngày nay đã phát triển xa hơn, nhưng một môn toán học nào đó, không nhất thiết là của Euklide vẫn được sử dụng như phương pháp khoa học không thể thiếu được.

Rorty cũng thường dùng khái niệm đặc thù "so sánh văn hoá" rất được ông ưa chuộng đối ngược lại với ý niệm tiên thiên. Tuy nhiên đến nay chưa có một nền văn hoá nào cũng như chưa có một thời đại nào mà tri thức không sử dụng mô thức trực quan "không gian thời gian" hay hình thức tư duy nhân quả. Như thế có thể nói có 4 điểm được xem như là những lựa chọn nghiêm túc cho khái niệm "tổng hợp tiên thiên": không gian, thời gian, nhân quả và toán học vẫn được sử dụng như là ngôn ngữ cho những đo lường khách quan. Những loại văn hoá (Kulturen) chủ trương nghiên cứu tường tận thường chấp nhận một yếu tố thứ năm trong PPLTTT: những ý tưởng điều hành của Kant (regulative Ideen) và quan điểm văn hóa của Kant, văn hóa là "sự đào luyện lý tính con người" (B879) vẫn không mất giá trị của một tầm nhìn minh triết.

Như thế một khi muốn đưa những kiến thức thực hành vào khái niệm, thì có thể chấp nhận định luật yếu tố lệ thuộc hoàn cảnh, nhưng yêu sách đòi phương pháp khảo cứu hoàn toàn theo chủ thuyết hành vi hay tâm lý phản ứng (Behaviorismus) lại quá đơn giản và ngây thơ để không thể không hoài nghi tính sâu sắc của xu hướng ấy.

Hơn nữa trong PPLTTT, chủ đích của Kant không chỉ nằm trong lập luận về tính tiên thiên tổng hợp, mà còn chính là ở trong đặc tính "siêu nghiệm" hay "vượt" của sự phê phán lý tính trong công việc chính danh và nhất là trong công việc giới ước tri thức. Chúng ta biết, trong giai đoạn Tái thiết siêu nghiệm (Retranszendentalisierung), Peirce, Husserl, Wittgenstein giai đoạn 1, Heidegger và Husserl đã nghiên cứu các yếu tố tiên nghiệm, công trình của họ có thể nói đã tái thiết lại phần tích cực khẳng định của PPLTTT. Bao lâu còn thiếu phần thứ hai (phê phán, phủ định) của PPLTTT, những học giả này còn giữ niềm lạc quan lý tính ngây thơ (Vernunftoptimismus). Tinh thần này xa lạ đối với PPLTTT, và gần với quan điểm "duy cơ bản" (Fundamentalismus) của Descartes và học thuyết duy tâm (Idealismus) của Ðức hơn là gần Kant. Lịch sử triết học cho thấy cần thiết phải nêu lên khiá cạnh tiêu cực của lý tính và làm rõ những giới hạn thường bị đẩy lùi sau hậu trường.

Như thế trong khái niệm lịch sử triết học của Rorty, hai giai đoạn Tái lập và Hủy diệt siêu nghiệm (Retranszendentalisierung và Detransendentalisierung) đã xa lìa nhau, trong khi đó, trong PPLTTT chúng được thảo luận như hai mặt của một vấn đề, tạo nên một hợp nhất và đem đến cho tác phẩm tầm cỡ của nó: chính danh và giới ước là cương lĩnh gấp đôi của PPLTTT. Cương lĩnh này không thừa nhận những đòi hỏi độc đoán của việc "Tái lập"(Re) theo kiểu duy cơ bản (fundamentalistisch) cũng như khuynh hướng "Hủy diệt" (De) theo kiểu thực dụng-tâm lý học phản ứng. Và do đấy hứa hẹn nhiều thành công hơn.

Chính Descartes cũng không muốn tìm một điểm Archimedes trong triết học để làm tiêu chuẩn cho sự thiết lập thế giới tri thức. Nguyên tắc "Thượng đế" như là thực thể toàn hảo của Descartes chỉ có nhiệm vụ bảo đảm cho khả thể của chân lý. Kant, và đây cũng là luận điểm chống lại quan điểm của Rorty - đã không cần đến loại mệnh đề bảo đảm của Thượng đế như thế. Khi cần đưa ra các lập luận, thì chính "lý lẽ" ("reasons"), logoi theo nghĩa cổ điển, được sử dụng, có nghĩa là đưa ra các lý do (Gründe) và các luận cứ (Argumente) chứ không phải là đặt những cơ sở ("foundations"). Với tư cách những luận cứ siêu nghiệm, chúng được gọi là những điều kiện của khả thể của những luận cứ khoa học, chứ không phải chính luận cứ ấy (Bedingungen der Möglichkeit der transzendentalen Argumente). PPLTTT tìm kiếm những yếu tố xây dựng nhờ đó các khoa học có thể xây cất tòa nhà với cơ sở đặt biệt dành cho khoa học. Ngay cả thông giác siêu nghiệm (transz. Apperzeption) cũng chỉ là một yếu tố trong mạng lưới lập luận (Argumentationsnetz), mạng lưới này trong toàn thể của nó không nêu lên đòi hỏi kiểu Descartes hay của Fichte như là luận cứ cuối cùng. Tính nhất quán của lý tính theo Kant chỉ tìm được qua khái niệm mục đích mà thôi (Zweckbegriff). Ngoài ra, hình ảnh một điểm Archimedes không thích hợp, bởi vì Kant quan niệm tất cả những gì ngoài tri thức là sự vật tự thân (Das Ding an sich), đều bất khả tri, cho nên chỉ chú tâm đến phần nội tại của tri thức.


4.2. Lật đổ lý tính hay phê phán bằng khẳng định loại trừ (sub-versive Affirmation)

Ðối với Kant, đối tượng của triết học nghiêm túc là "Lý tính". Ngược lại đối với Rorty và những triết gia khác là "sự từ giã lý tính". Ðối với Kant đó là chữ Lý tính viết lớn, số ít trong nghĩa hai mặt: lý thuyết và thực hành. Chỉ có lý tính mới có thể cho phép triết học lập ngôn bên cạnh những khoa học thành công đương thời khác không những trong hình thức của một lý thuyết về khoa học trợ giúp cho những khoa học kia mà còn có thể tự lập trong công việc triết lý của mình. Mục đích của Lý tính đối với Kant nằm hẳn trong công cuộc xây dựng cho triết học một nền tảng khoa học vững chãi.

"Lý tính" đối với Kant là hình thức cao nhất của tính suy lý (Rationalität), triết học có bổn phận hợp thức hóa và đặt giới hạn cho nó trong một dự án gấp đôi: một mặt trong khuôn khổ của tri thức và lý thuyết về tính khách quan (Objektivitätstheorie), PPLTTT đã đem đến hai hình thức suy lý có ý nghĩa, đó là toán học và vật lý học và chính danh chúng cho công tác triết học. Trong nghĩa đó, triết học là lý thuyết trợ lực cho khoa học. Mặt khác, sự giới ước ngăn ngừa rõ rệt nguy cơ tuyệt đối hóa tính suy lý: gián tiếp là ngăn ngừa đòi hỏi độc quyền của khoa học, trực tiếp là của triết lý lý thuyết và trực tiếp nữa là toàn thể tinh thần duy lý của khoa học cũng như của triết học. Ðồng thời toà án lý tính của Kant cũng chống đối quan niệm cho rằng lý tính chế ngự vì đã được đặt định trước như thế.

Nhưng đặt một giới hạn để lý tính không đi quá đà, vượt khỏi khả năng thực sự của nó không có nghiã là bãi bỏ hoàn toàn lý tính như cương lĩnh về một cuộc lật đổ lý tính toàn diện (Subversion) của Foucault[2] (1961) hay chủ trương vô chính phủ (anarchistisch) chống lại lý tính của Feyerabend [3] (1987).

Cuộc "lật đổ" của Foucault nhằm tước hết quyền gương mẫu và thước đo của lý tính, cũng như cuộc nổi loạn vô chính phủ (anarchisch) của Feyerabend trong Against the Methode/Wider den Methodenzwang (Chống lại sự bó buộc của phương pháp) đả phá những tiêu chuẩn thuần lý chật hẹp trong nhận thức. Foucault đã có lý trong ý hướng "phục hồi" ("Rehabilitierung") lại chỗ đứng cho những nhóm bên lề xã hội như những người bị tâm thần hay những người có vấn đề sinh lý khác thường. Phản ứng của Feyerabend cũng có thể hiểu đối với những quan điểm duy lý độc tôn. Nhưng cả hai thái độ muốn chôn vùi ý niệm lý tính Tây phương dù có cực đoan đến đâu vẫn chưa thực hiện nổi.

Xét cho cùng, đến nay, không kể đến các lãnh vực tri thức (Wissen), phương pháp và sở thích (Erkenntnisinteresse)) tri thức, trên các lãnh vực nghiên cứu khác, chưa thấy có dấu hiệu từ bỏ lý tính của khoa học. PPLTTT đã có lý khi phản đối khuynh hướng cực đoan thuần lý trong khoa học. Nhưng, khuynh hướng đả phá mà Nietzsche, Heidegger, trường phái lý thuyết phê bình cổ điển, và sau đó Foucault, Feyerabend va Rorty chủ trương thì đến nay vẫn còn là… khuynh hướng, trong lúc PPLTTT từ lâu thật sự đã hợp thức hóa quá trình "hủy bỏ siêu nghiệm" ("DE"transzendentalisierung) ấy.

Thật vậy, duyệt lại lịch sử khoa học và triết học từ trước đến nay, ta lại nhận ra được ý hướng căn bản "Hủy bỏ siêu nghiệm" của PPLTTT sâu sắc hơn: không phải Tư duy (Denken) THAY VÌ Khoa học, mà là một khoa học vừa được TƯ DUY thừa nhận và chắp cánh nhưng đồng thời lại được khoanh giới hạn.

Thật thế, nếu quan sát bản văn phạm cốt lõi (Kerngrammatik) của xã hội hiện nay, đó là nền tảng quốc gia lập hiến cùng với toàn bộ những tiềm lực phê bình và cải cách và tất cả những nỗ lực trên lãnh vực toàn cầu tranh đấu cho pháp quyền và dân chủ, ta lại thấy một hiện tượng ngược lại là chính những người chủ trương bãi bỏ lý tính cứng nhắc thật ra lại rất một chiều phiến diện. Bởi vì nhiều lập luận chống lý tính lại chứng tỏ không hợp lý gì cả khi được xét kỹ hơn.

Dự án PPLTTT của Kant trên nguyên tắc cơ bản thừa nhận một sự lật đổ lý tính có ý nghĩa và theo tinh thần khoa học, nhưng đồng thời vẫn giữ thái độ cởi mở cho sự xác nhận khẳng định lý trí. Trên cơ bản như trong 1.5. đã nêu ra, PPLTTT là một sự khẳng định có tính từ khước (subversive Affirmation) hay nói cách khác khẳng định từ khước là thái độ của tinh thần phê phán siêu nghiệm.

Sau Kant, những khuynh hướng từ khước này đã được triển khai như một khiá cạnh đặc thù của triết học từ Hegel với phản đề phủ định. Xét cho cùng nhân vật đề cao khuynh hướng này không phải là Kierkegaard hay Nietzsche, cũng không phải Frege, Wittgenstein, Heidegger, hay lý thuyết phê phán (kritische Theorie) của trường phái Frankfurt mà là Pascal với câu ngụ ngôn sâu sắc: "trái tim có những lý lẽ mà lý tính không biết được" ("le coeur a ses raisons, que la raison ne connait pas").

Pascal từ khước lý tính nhưng để thừa nhận một lý lẽ cao hơn lý tính, chứ không hoàn toàn từ chối lý tính. Trong toán học ông thực hiện một tinh thần nghiêm túc của suy luận thuần lý đồng thời ông cũng xem đó như là một niềm tin. Từ khước lý tính của Pascal do đó là một từ khước để mở ra đa nguyên của các lãnh vực tinh thần khác.

So với tinh thần từ khước trong PPLTTT, ta thấy khẳng định từ khước của PPLTTT đòi hỏi nhiều hơn và đã được thực hiện từng chi tiết: PPLTTT biện minh cho yêu sách về tính khách quan của kinh nghiệm, đã chứng minh vai trò không thể thiếu được của toán học trong biện minh ấy, đã lột trần yêu sách tri thức của lý tính về những ý niệm siêu hình học là quá đáng, đã đem lại vị trí điều hành cho các ý niệm và khám phá đạo đức học cùng với sự nối tiếp của nó trong thần học đạo đức như một sự sử dụng thực hành, đặc thù của lý tính.


4.3. "Tôi tư duy" (ich denke) hay là Siêu chủ thể (Übersubjektivität)?

Trong lúc chính họ đề cao "duy tâm" tuyệt đối, chính những triết gia của học thuyết duy tâm Ðức (Idealismus) lại là những người đầu tiên phê bình tính chủ thể trong PPLTTT.

Ðối tượng phê phán mà trường phái duy tâm và các xu hướng hiện đại trong đó có Apel [4] và Habermas nhằm đến là khái niệm "Thông giác siêu nghiệm" ("transzendentale Apperzeption", theo Kant được hiểu như "ý thức về ý thức đối tượng" hay "tự ý thức" hay "tổng hợp nguyên thủy làm điều kiện cho những tổng hợp khác, tức cho mọi nhận thức, Kant còn gọi là "nhất thể siêu nghiệm" = chủ thể "tôi tư duy" là điều kiện khả thể cho toàn bộ nhận thức có giá trị tiên thiên, B133, B134). Mặc dù Kant đã nhấn mạnh trong khảo sát siêu nghiệm rằng "tư duy thuần túy chủ quan lại là các hòn đá tảng tạo nên tính đối tượng khách quan" và nhất thể siêu nghiệm = "tôi tư duy" cũng chính là nhất thể khách quan (B139), những người phê bình vẫn xếp PPLTTT vào loại triết học tâm lý học thời cận đại, theo phương pháp duy chủ thể, chấp nhận một chủ thể lý tính trong suốt, trực tiếp và có khả năng nhận thức chân lý, một "chủ thể lý tính thuần túy, siêu thế giới (extramundan), và do đó không bị lịch sử hay thực tế xã hội ô nhiễm... được hiểu như một thực thể cô đơn trên nguyên tắc" (Kuhlman [5] 1987, 144).

Nhìn chung, những chủ trương đối nghịch lại với thuyết "duy ngã" nói trên có:

  1. trên bình diện đạo đức: chủ thuyết vị tha,

  2. trên bình diện lý thuyết xã hội: khả năng cộng đồng xã hội với lý luận: a) không có chủ thể riêng biệt, chủ thể luôn luôn ở trong liên đới chủ thể, không có sự thừa nhận chủ thể mà không có sự thừa nhận qua lại của nhiều chủ thể; b) con người không phải là những cá nhân nguyên tử riêng lẻ mà là phần tử của một tổ chức, có tính cách cộng đồng, xã hội và cả của nhân loại trong quá khứ và tương lai.

  3. trên bình diện lý thuyết ngôn ngữ và ngữ nghĩa phản duy ngã của Wittgenstein: theo luận cứ về ngôn ngữ riêng tư (Privatsprachen-Argument) của Wittgenstein thì không có một loại ngôn ngữ riêng tư biệt lập đặc biệt, trong đó những chữ liên hệ với điều mà chỉ người phát ngôn có thể biết được mà thôi dựa trên những cảm nghiệm trực tiếp (Philosophische Untersuchungen, §243).

  4. khuynh hướng chống duy chủ thể tri thức (epistemologischer Antisolipsismus) trong a) dạng thức thực dụng siêu nghiệm (transzendentalpragmatisch) như của Apel với đồ đệ như Kuhlmann) hay b) dưới dạng thức thực dụng phổ quát "universaler Pragmatismus" (Habermas 2001) chống lại sự khinh miệt những dữ kiện đặc thù về văn hoá và lịch sử của lý tính.

Về điểm 1: Vấn nạn về duy chủ thể đã được đặt ra trong PPLTTT khi Kant bắt đầu phê bình triết gia điển hình về chủ thể tính là Descartes với "cogito ergo sum" (tôi tư duy cho nên tôi hiện hữu).Trong ý hướng cơ bản cũng như toàn thể kiến trúc và phương pháp cũng như những phát biểu trong tác phẩm, Kant đã triển khai một triết học chống khuynh hướng Descares và chống duy chủ thể rõ rệt. Trong BXXXII, khi gọi PPLTTT là một "Khảo luận về phương pháp" ("Traktat von der Methode") (tương tự như Discours de la methode của Descartes), Kant tranh luận với chủ thuyết hoài nghi và đồng ý với Descartes ở hai điểm không dính liú đến duy chủ thể:

Trên lãnh vực đạo đức, Descartes không duy chủ thể bới vì ông cũng đề cao bổn phận tổng quát là "phải đóng góp phần của mình cho sự an vui của mọi người" (Discours 6.) Ở đây Kant cũng như Descartes đã theo gót tư tưởng gia đi trước là Bacon với khẩu hiệu "in commun consulant": bàn luận về sự an vui chung "trong toàn tác phẩm cho đến cuối cùng. Ðoạn cuối của "Kiến trúc học của LTTT" ("Architektonik") nói về sự phục vụ cho an vui cộng đồng là một trong những mục đích của PPLTTT: "Cơ quan tối cao này - (chính bản thân lý tính) - sẽ bảo đảm trật tự, sự hoà hợp và cả sự thịnh vượng của cộng đồng khoa học và giữ vững không để cho những nỗ lực dũng cảm và bổ ích của khoa học được xa rời mục đích chính yếu: đó là tạo dựng hạnh phúc chung cho nhân loại" (B879).

Một cách trực tiếp, PPLTTT phục vụ cho sư an vui về tri thức: phương diện tiêu cực là chiến thắng cuộc cãi vã không dứt trong điạ hạt siêu hình học và phương diện tích cực là đối với "quyền lợi chung của một lý trí càng ngày càng được Khai Sáng hơn" (Prol. IV 380). Một cách gián tiếp, PPLTTT đóng góp vào sự an lạc đạo đức được xác định tiêu cực bằng bổn phận "chấm dứt tất cả những vi phạm tính đạo đức và tôn giáo trong mọi hình thức tương lai" (BXXXI), và tích cực là cho lý tưởng sự Thiện tối cao. Khởi đầu của khẩu hiệu (Motto) của Bacon đã tăng sức mạnh cho quan điểm chống duy ngã: kẻ nào tự im lặng, để cho chỉ có sự việc lên tiếng, kẻ ấy nhân danh quyền lợi của mình phục vụ sự an vui cộng đồng. (Xem: Lời của Bacon được Kant mượn làm Đề từ cho ấn bản B quyển PPLTTT).

Tuy nhiên trên phương diện phương pháp học, Descartes đã theo mẫu duy ngã trong lý luận, trong Discours cũng như trong Meditationes tất cả đều được bắt đầu bằng "ego": cái tôi ngôi thứ nhất số ít.

Kant đã từ chối kiểu mẫu đó. Với hình ảnh phiên xử của toà án, ông theo một kiểu mẫu hoàn toàn chống duy ngã và mang tính thuần túy xã hội, ngay từ khởi đầu, trong cuộc tranh luận giữa học thuyết duy lý và duy nghiệm, cũng như trong phương pháp dung hoà biện luận suy lý (Diskurs), và trong sự đòi hỏi "chia sẻ", "tương thông" (mitzuteilen B848f) về chân lý.

Theo Apel và Habermas, những mẫu Biện luận (Diskurse) nhằm đạt được sự đồng ý liên chủ thể sau khi cân nhắc một cách duy lý về những yêu sách giá trị đang đươc truy vấn, và sự đồng ý liên chủ thể thay thế ý niệm tính khách quan của Kant. Nhưng nếu nói về biện luận thì PPLTTT còn rốt ráo suy lý hơn thế nữa khi bàn về siêu hình học và triết học cơ bản. Tính suy lý đó đã bắt đầu bằng câu hỏi "làm thế nào có thể có một nền siêu hình học?" (Wie ist die Metaphysik möglich?). Câu hỏi này được tiếp tục với tiêu chuẩn khoa học khách quan, nhằm tạo được "đồng ý với nhau" (einhellig zu machen) (BVII) và kết thúc bằng "một khảo hạch tự do và công khai" ("freie und öffentliche Prüfung") (AXI, Chú thích). Trong cuộc khảo hạch này không phải "giá trị riêng của phán đoán" (B849) là đáng kể mà chính là lý tính con người tổng quát (allgemeinmenschliche Vernunft). Quan điểm này còn được định nghĩa theo tính cách xã hội: trong phiên tòa của "lý tính xử lý tính", mỗi người vừa là kẻ tố cáo vừa là người biện hộ và kiêm luôn cả vai trò chánh án.

Ðối với con người Khai Sáng (Aufklärer) như Kant thì không phải tri thức chuyên môn, cũng không phải địa vị đặc biệt hay một nhiệm sở dù đó là của Thượng đế hay của ân sủng cho con người là đáng kể. Kant chỉ từ chối mỗi sự "độc quyền trường phái" (BXXXII) để dành cho sự "đồng lòng của những công dân tự do" (B766). Triết học luôn luôn là nơi "lưu trữ của một khoa học ích lợi cho cộng đồng" (BXXXIV), trong đó mỗi người "đều có tiếng nói của mình" ("ein jeder seine Stimme hat") là một quyền hạn thiêng liêng (heiliges Recht)" (B780). Mặc dù phương châm của thời đại Khai Sáng chứa đựng một chút đạo đức cá nhân nhưng sự can đảm cần có để sử dụng trí tuệ của mình (Trả lời câu hỏi: Khai Sáng là gì?) (VIII 35) hoàn toàn không dính liú đến sự chọn lựa giữa duy ngã hay phản duy ngã.

G. Höffe đã đề nghị một lý giải khác về tính chủ thể trong PPLTTT: "nếu chúng ta thay cách diễn tả "chủ thể lý tính" bằng từ ngữ "đối tượng" gồm cảm tính, giác tính và lý tính để phân biệt với Lý Tính đang giữ chức vụ phê bình, thì ta sẽ thấy trong khái niệm lý tính chẳng có yếu tố duy ngã nào cả. Ngược lại PPLTTT đã vượt khỏi tính duy ngã một cách rõ rệt, và cái gọi là kiểu mẫu (Paradigma) "truyền thông và biện luận" (Kommunikation-Diskurs) thật sự không bắt đầu ở Frankfurt [ám chỉ Apel, Habermas], cũng không trong Câu lạc bộ siêu hình Cambridge (Cambridge Metaphysical Club) cũng không ở tại điạ chỉ của G. Herbert Mead mà nơi sinh của nó nếu không kể những nguồn gốc xa hơn, phải là ở Königsberg" [chỉ nơi sinh và nơi ở của Kant] (Otfried Höffe [6], Kants Kritik der reinen Vernunft - Die Grundlegung der modernen Philosophie, C.H. Beck, 340).

Tuy nhiên, sự phê bình duy ngã vẫn còn đứng vững với đối tượng phê bình của lý tính: khái niệm tự ý thức siêu nghiệm là "điểm cao nhất" (B133 FN) của giác tính. Nhưng vai trò của "thông giác siêu nghiệm" lại thuộc về giác tính (Verstand) và không phải là điểm cao của cảm năng và lý tính lý thuyết. Chính nó cũng chưa đóng vai trò xây dựng đúc kết mà còn nằm trong "hệ thống" các nguyên tắc.

Dĩ nhiên khái niệm "tôi tư duy" ("ich denke") gợi lên sự phê bình duy ngã nhưng so sánh nó như một độc thoại với thế giới nội tại riêng tư đối nghịch với thế giới ngôn ngữ và xã hội thật ra không đúng. Cái "tôi tư duy" của Kant là điều kiện của tri thức, nhưng nó không phải là môt ego nhất định đối lập với Alter ego, "cái Tôi khác". "Tôi tư duy" phải được hiểu như một khả năng tri thức trong tương quan với đối tượng, như một điểm lựa chọn và "diễn dịch" (Deduktion) có thể chuyển từ "tôi" (Ich) sang "chúng ta" (Wir) và trở lại "tôi" (Ich).

Ðể tránh hiểu lầm, Kant đã đưa ra nhiểu điểm chọn lựa khác nhau, ví dụ ông dùng biểu tượng "X" để nói về một cái tôi tổng quát nhưng không thường nghiệm: "qua cái Tôi này hay Nó (Er) hay "Cái" hoặc "Con" (Es) (sự vật), khi cái ấy tư duy, chẳng có nghĩa gì khác hơn là một chủ thể siêu nghiệm của những tư tưởng bằng = X" (B404).

Với "X" như một "biến số" (variable) của "Tôi tư duy" ("ich denke") có thể nói Kant đã đến gần với quan điểm "VÔ NGÃ" của tri thức luận Phật học, như chính K. Schmidt [7] đã nhận định. Theo Kant khảo sát siêu nghiệm về "Tôi tư duy" như một động tác "Aktus" (B158) của chủ thể "như một hiện tượng… chứ không thể tự nhận thức mình là cái tôi bản ngã" (B159). Có thể nói sau David Hume là người phủ nhận tính đồng nhất của bản ngã (personal identity) làm cơ sở cho nhận thức, thì Kant là triết gia đã đem lại thành quả khảo sát tri thức luận về sự bất khả tri của ý niệm "NGÃ" (Selbst) "do đó tôi không thể có nhận thức về mình như là cái tôi tự thân mà chỉ về cái tôi xuất hiện cho tôi như hiện tượng.Ý thức về mình còn lâu mới là nhận thức về mình" (B158), thành quả mà từ lâu tri thức luận Phật học sử dụng như một yếu tố cơ bản trong việc thiết lập tri thức "chánh kiến", một điều kiện cho giác ngộ chân lý.

Hơn nữa, phản bác "tôi tư duy" cũng có nghĩa là phải chống những yếu tố khác cao hơn, chống lại mô thức trực quan, mô thức khái niệm, chống lại phạm trù, chống lại sơ đồ niệm thức (Schemata) và những nguyên lý nhận thức, chống lại ý niệm điều hành (regulativ), và chống lại cái hoàn cảnh là tri thức con ngưới khác với tri thức của Thượng đế ở điểm không tự khởi mà cũng không trực giác (spontan und intuitiv), bởi vì tất cả những yếu tố trên đều là sản phẩm tiên thiên của "tôi tư duy".

Có thể nói rằng "thông giác siêu nghiệm" trong chức năng thuần túy chủ thể của nó vượt lên tất cả chủ thể thường nghiệm cũng như liên chủ thể thường nghiệm, để chỉ là một ý niệm chủ thể phổ quát trong tương quan với đối tượng ngoại tại. "Thông giác siêu nghiệm" do đó có tính "siêu chủ thể" (Übersubjektivität). Như viên gạch căn bản đầu tiên xây dựng tri thức và khảo sát con người, nó vừa có khả năng vừa là điều kiện khả thể cho mọi thoả thuận cộng đồng và đáng được sự chấp thuận của mọi công dân tự do ("Einstimmung freier Bürger") (B767).

Hơn nữa câu hỏi có thể đặt ngược lại cho những người phê bình các yếu tố chủ quan căn bản của cơ cấu tri thức trong Triết học siêu nghiệm của Kant: nếu chúng ta loại bỏ tất cả những yếu tố mô thức trực quan, những khái niệm thuần túy, những qui luật siêu nghiệm về tự nhiên và những ý niệm điều hành, liệu chúng ta có thể có được một nhận thức có tính khách quan liên chủ thể hay cho mọi chủ thể trong mọi thời điểm được không? Thật sự chủ thuyết thực dụng duy lịch sử của Rorty, Pragmatik siêu nghiệm của Apel hay Pragmatik phổ quát của Habermas đã không thể là giải pháp chọn lựa thay thế PPLTTT góp phần vào khiá cạnh xây dựng nhận thức cũng như phê phán về lý thuyết bản thể của toán học và vật lý học được.

Ngoài ra những yếu tố tiền cảm thông và phi lịch sử như khái niệm không gian thuần túy trong PPLTTT lại là những điều kiện cởi mở cho những phương thức thực dụng cũng như thực hành và những thể loại khác nhau về lịch sử, ngôn ngữ, truyền thống, đời sống, giới hạn vv. được tự do triển khai ở trong mô thức ấy.

Ngược lại với quan điểm duy ngã, PPLTTT là kẻ tiên phong xây dựng tính xã hội với một kiểu mẫu khác với Habermas và Apel chủ trương: không bằng con đường rút ngắn tính khách quan vào sự thoả thuận theo liên chủ thể hay tính xã hội. PPLTTT chấp nhận đề án về một thế giới đồng cộng đồng chia. Nhưng đối với PPLTTT, lý do chấp nhận không nằm trong tính xã hội mà lại nằm trong tính khách quan, mà điều kiện cho tính khách quan này đồng thời lại tạo nên điều kiện cho tính xã hội ấy. Chính tính khách quan ấy làm cho tất cả những con người khác biệt nhau thành một con người duy nhất. Kant đã nhận xét rất sớm trong tiểu luận Bàn về các giấc mơ... (Träume...) của ông: "nếu giữa những con người khác biệt nhau, mỗi người đều có riêng một thế giới cho mình, thì ta có thể giả thuyết rằng họ đang nằm mơ" (Träume II 342), bởi lẽ một khi tỉnh giấc, chúng ta "đang sống trong một thế giới cộng đồng" (Träume II 342).

Quan điểm phản duy ngã của Kant trong PPLLTT có thể tóm tắt như sau: trên bình diện siêu nghiệm, đề cập đến một chủ thể được quy định theo qui tắc (regelbestimmtes Subjekt) cũng có nghĩa là đồng thời đề cập đến một xã hội mang dạng thức qui tắc (regelförmige Gesellschaft).


5. Thay lời kết luận:

5.1.

Chủ thể như điều kiện siêu nghiệm của nhận thức khách quan và phổ quát đồng thời cũng là điều kiện khả thể cho sự đồng tình của những công dân tự do tạo nên yếu tố cần và đủ để thiết lập khái niệm thế giới mà Kant gọi là toàn hoàn vũ, trong đó lý tính thuần túy và lý tính thực hành trở thành một thể nhất quán trong quá trình thực hiện tính toàn thiện mà con người vươn tới như mục đích tối hậu.

Sau bao nhiêu biến chuyển cách mạng và lật đổ lý tính trên đấu trường triết học từ thời Khai Sáng đến ngày hôm nay, với viễn tượng xây dựng một thuyết toàn hoàn vũ tri thức luận có nền tảng đạo đức, triết học của Kant bỗng tìm lại được tính thời sự trên phương diện tri thức luận cũng như trên phương diện đạo đức nhân lọai học trong tiến trình toàn cầu hoá không thể tránh được của ngày hôm nay.

Nhưng giá trị tư tưởng của PPLLTT không phải chỉ nằm trong những thành quả tri thức đã "lỗi thời" hay "phùng thời" thâu lượm được trong tác phẩm, mà thực sự nằm trong tinh thần phê phán triết học của triết gia. Với PPLTTT Kant đã chứng minh, - không phải bằng những chứng minh toán học mà ông đã đặt hết tin tưởng vào tính khách quan, mà bằng con đường trung đạo của lý tính con người, - một cách đạt đạo rằng tinh thần phê phán này là sự thức tỉnh của lý tính "thuần túy" trong ý nghĩa xuyên suốt thời gian và không gian của con người. Thức tỉnh với Kant phát xuất từ nguồn suối tự do và tự chủ của lý tính độc lập, ở đó mọi giáo điều, cuồng tín lý thuyết và những nghịch lý cần được chính con người bàn cãi và lý luận thấu đáo căn cứ vào những nguyên tắc khách quan của lý tính để lấy lại thế quân bình trong tư tưởng mà đó chính là niềm vui triết học.

Thức tỉnh có nghĩa là lên đường truy tìm chân lý hay "sống" triết học "liều lĩnh bay bổng bằng đôi cánh của chính mình" (B878) như Kant kết thúc tác phẩm của ông:

"Vậy, chỉ còn con đường phê phán là còn để ngỏ. Nếu bạn đọc đã vui lòng quan tâm và kiên nhẫn cùng tôi đi suốt chặng đường, xin bạn đọc hãy tự xét có thấy ham thích đóng góp phần mình để biến con đường mòn nhỏ hẹp này thành đại lộ của tư duy, con đường mà hằng bao thế kỷ chưa khai phá được và hy vọng rằng sẽ hoàn tất trước khi kết thúc thế kỷ này, nhằm mục đích: đưa lý tính con người - từ chỗ khao khát hiểu biết và đã nỗ lực bao đời nay mà vẫn không thành công - đến sự thỏa mãn hoàn toàn" (B884).



5.2.

Cho nên "đọc Kant hôm nay" không những vì những lý do đã nêu trên đây, mà rốt cùng chỉ vì một lý do: ham thích triết học như một niềm vui tri thức, một niềm hỉ lạc trong ánh sáng "minh minh đức", hay nói như Kant trong một phút xuất thần khi nói về siêu hình học, niềm vui tìm đến với triết học của Kant - dù đường xa vạn dặm và sau bao trăn trở vẫn… "như trở lại với người tình cũ" (B878) trong tâm trạng của Nguyễn Du "hoa tàn mà lại thêm tươi, trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa", có cả "mười phân chung tình" của tâm thức người Việt vốn từ nghìn xưa nổi tiếng hiếu học với Khuông Việt, Trần Nhân Tôn, Chu Văn An, Vạn Hạnh Thiền sư, Nguyễn Trãi, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Lê Quí Ðôn, Phan Bội Châu… trong nghiệp sách đèn. Ðọc PPLTTT với một đam mê sách vở như Hölderlin [8] đã diễn tả rất gần với truyền thống Việt Nam ham học ham tìm hiểu: "phải học, và ngay cả khi nếu bạn không còn tí tiền để mua được một cây đèn và dầu thắp, và không còn thời giờ nào ngoài khoảng cặm cụi từ nửa đêm cho đến lúc gà gáy sáng" (Hölderlin, Briefe 235).

Cho tôi, niềm hỉ lạc mà Bùi Văn Nam Sơn đã cảm nhận trong lúc "cặm cụi" chuyển dịch tư tưởng của Kant trở thành gấp đôi với nỗi hoan hỉ: tác phẩm Việt dịch và Chú giải đầy công phu - quả thật dày công "muôn một"! - và rõ ràng mạch lạc (dù có đôi chỗ chưa đồng tình, mong sự góp ý của các bậc thức giả) này đến tay bạn đọc Việt Nam nhân dịp cả cộng đồng khoa học trên thế giới long trọng kỷ niệm 280 năm ngày sinh (22.04.1724) và 200 năm ngày mất (12.02.1804) của triết gia, đồng thời cũng vào dịp mà tác phẩm trứ danh này được ra mắt lần đầu tiên trong mùa xuân 1781 [9].


München

Tháng ba, lập xuân 2004


Immanuel Kant, Phê phán lí tính thần túy, bản tiếng Việt của Bùi Vân Nam Sơn, Dẫn Luận của Thái Kim Lan, Nhà xuất bản Văn Học, TPHCM, tháng 5.2004.


Dẫn luận tác phẩm Phê phán lý tính thuần túy của I. Kant (1/3)
Dẫn luận tác phẩm Phê phán lý tính thuần túy của I. Kant (2/3)





[1] R. Rorty: 1965: Mind-Body Identity, Privacy, and Categories, trong Review of Metaphysics 19/1, 24-54. 1978: Epistemological behavorism and the De-Transcendentalization of Analytic Philosophy, trong Neue Hefte für Philosophie, Heft 14, Göttingen 115-142.
[2] M. Foucault: triết gia Pháp. 1961: Histoire de la folie à l´âge classique, Paris. (tiếng Đức: Wahnsinn und Gesellschaft. Eine Geschichte des Wahns im Zeitalter der Vernunft, übers. V. U. Köppen, Frankfurt/M, 1969).
[3] P. Feyerabend: 1975: Against the Methode. Outline of an anarchistic Theory of Knowledge; London. 1987: Farewell to Reason, London.
[4] K.O. Apel, 1976: Transformation der Philosophie, Frankfurt/M.
[5] W. Kuhlmann, 1987: Kant und die Transzendentalpragmatik, Würzburg.
[6] O. Höffe, 2003: Kants Kritik der reinen Vernuft- Die Grundlegung der modernen Philosophie, München.
[7] K. Schmidt, 1953: Leer ist die Welt, Verlag Christiani Konstanz, trang 155.
[8] F. Hölderlin: thi sĩ nổi tiếng của nước Ðức, 1969: Briefe, trong Sämtliche Werke, Nxb A. Beck, Stuttgart, Bd. IV.
[9] Bài viết này phần lớn dựa vào các tài liệu tham khảo từ các buổi giảng của tác giả tại đại học München cũng như từ các tham luận của Gs. G. Höffe, đại học Tübingen (Đức).