trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 235 bài
  1 - 20 / 235 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Ngôn ngữ
22.11.2003
Nguyễn Hoàng Văn
Tiếng Việt không biết cãi?
 
Năm mười mấy tuổi, lần đầu làm cuộc hành trình xuyên nửa nước, từ nam đèo Hải Vân xuôi nam, Sài Gòn, Cần Thơ rồi Rạch Giá v.v..., tôi đã ngạc nhiên khám phá sự hào sảng chữ nghĩa của những vùng đất hào sảng tài nguyên. Ngạc nhiên, pha lẫn chút... thất vọng, tôi cứ ngơ ngác hỏi mình: "Chỉ có ba cái ghế và hai tấm gương thôi mà đã thành một cái... viện rồi ư?"

Như để... thuận theo sự ưu đãi của thiên nhiên, chữ nghĩa ở đây lại rổn rảng hẳn lên và những "hiệu" hay "tiệm" ở vùng đất nam đèo Hải Vân, dù cũng cùng một tầm cỡ thế thôi, đã sang cả hoá thân thành "viện". Mấy cái "viện uốn tóc" lèo tèo mấy cô thợ chẳng quan tâm đến điều gì cao xa hơn là mấy mốt thời trang hay, cao lắm, là mấy chuyện đại loại Lệ Thủy ca hay hơn, hay Thanh Kim Huệ ca hay hơn. Bất giác, tôi cứ tự thắc mắc với mình là, liệu, theo cái đà này, một mai những "viện cắt may", "viện đấm bóp tắm hơi", "viện bún bò Huế", "viện phở bò gà" thậm chí "viện bún mắm thịt quay" hay "viện tạp hoá", "viện xay bột lấy liền" có trùng trùng trăm hoa đua nở?

"Viện", hồi đó, trong thế giới quan của tôi, là cái gì đó rất ghê gớm. Như "viện hàn lâm", "viện bảo tàng", chẳng hạn. Hay như "viện nghiên cứu biển", thay tên từ "hải học viện", như "Học viện y khoa Huế" hoặc "Viện Pasteur", chẳng hạn. Và như, tưởng là dơ dáy từ cái âm nghe không phân biệt được chữ cuối "c", "t":

Ô đài viện cức đề huề
Một mai áo gấm trở về cố hương

tức cái lò vinh hiển, nơi những thân trai khao khát "danh gì với núi sông" lều chõng lập thân [1] . Những "viện" ấy, như thế, chẳng thể nào vụn vặt như mấy cái "viện" chỉ lèo tèo ba cái ghế dựa và hai tấm gương soi. Mèng hơn, với những "viện" đứng sau như "thư viện" hay "bệnh viện", dù ở một xó tỉnh hay huyện lỵ khô cằn và nghèo nàn nào đó chứ chẳng thể nào bệ rạc như thế. Không những kệ gỗ ngồn ngộn sách vở thì cũng sang cả với dăm ba ông đốc tờ mặt mày trang nghiêm, áo khoác trắng trang nghiêm, miệng đọc vanh vách những tên thuốc hay tên bệnh bằng chữ tây chứ không như cái viện nơi người ta bàn kiểu áo kiểu quần hay giọng ca chảy nước của mấy cô đào cải lương.

Nói là nói thế chứ, thực ra, trên giấy trắng mực đen, cũng chẳng biết vin vào đâu. Chữ "viện", như là một từ dùng để biểu đạt cái gì đó, không hề biết cãi và do đó, mặc tình cho thiên hạ làm tình làm tội. "Viện", trong Hán -Việt Tự Điển của Đào Duy Anh là "Tường xây xung quanh-Trường sở-Quan sảnh". "Viện", trong Hán-Việt Tự Điển của Thiền Chửu là "Tường bao quanh, nhà ở có tường thấp bao quanh", là "chái nhà, nơi chỗ, như thư viện", là "toà quan, như Đại lý viện, tham nghị viện". Và "viện", trong Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ lại là "Sở, nhà có tính cách chung" với nào là "viện đại học, viện hàn lâm, nghị viện, ảnh viện, bảo tàng viện, học viện, mỹ viện, nghị viện, tu viện, thơ viện...". Thế thì có gì khác giữa "trường sở / quan sảnh" với "nhà có tường thấp bao quanh"? với "sở, nhà có tính cách chung"? có gì khác giữa "chái nhà, nơi chỗ, toà quan" với cái "sở, nhà có tính cách chung" đó [2] ?

Tiếng Việt, như thế, trên phương diện văn bản hay thể chế hoá, chưa đạt đến một mức độ chuẩn hoá rốt ráo và nhất quán. Những bộ tự điển thì, nhiều chỗ, cứ là trống xuôi kèn ngược. Những bộ sách ngữ pháp thì, lắm lúc, nửa vời cạn cợt. Với một con số hạn chế của những thí dụ quanh đi quẩn lại và khô cứng, cái gọi là "ngữ pháp" đó chỉ là hiện thân của một thứ tiếng... lơ lớ Việt. Như một cuộc mạo hiểm nửa vời, nó chưa bao giờ dám đi sâu vào những lối nói... đặc Việt ngữ, chỉ hăm he thám hiểm khu rừng bằng cách mon men làm quen với vài ba thứ cây cỏ mọc ven cái bìa rừng. Trong cái tình trạng nhập nhằng phi chuẩn như đo, người ta sử dụng tiếng Việt mà như... khinh thường tiếng Việt, và khi bị khinh thường như thế, tiếng Việt càng trượt dốc nhanh hơn trong cái sự nhập nhằng và phi chuẩn. Một quan hệ khá là... biện chứng.

Hẳn nhiên, ngôn ngữ nào cũng hàm chứa những yếu tố vô lý, mâu thuẫn, và do đó, khó mà chuẩn hoá một cách máy móc, một trăm phần trăm [3] . Là sản phẩm của nhiều thời đại, của một loạt những va chạm hay giao tiếp lịch sử, chủng tộc v.v.., những yếu tố bất hợp lý và mâu thuẫn đó đã được hợp lý và khả dụng hoá theo những quy ước chung, được khái quát và thể chế hoá ở môn ngữ pháp. Một người Việt có thể chưa bao giờ học ngữ pháp tiếng Việt nhưng, qua những giao tiếp xã hội và mấy ngàn trang sách đã đọc -- từ Kiều, Lục Vân Tiên cho đến những tác phẩm, tác giả khác nhau, hết Tự lực văn đoàn thì hiện thực xã hội chủ nghĩa hay Sáng tạo v.v... -- những quy ước đặc tiếng Việt sẽ thẩm thấu vào sâu vô thức như một thứ bản năng, cái bản năng viết và nói đúng tiếng Việt. Một sinh viên Việt Nam có thể bài bản với ngữ pháp của người Anh, không bao giờ dám sai, dù là một dấu phẩy, một lần xuống hàng, thế nhưng nếu lười, không đọc những cái đáng đọc, thứ ngôn ngữ xây dựng theo những quy phạm ngữ pháp máy móc ấy khó mà trở thành một ngôn ngữ... đặc chất Anh, cũng như món chả cá Lã Vọng chẳng thể nào đặc chất chả cá Lã Vọng khi đem tàu vị yểu thay thế cho vị mắm tôm. Ngữ pháp là cái kim chỉ nam giúp người ta đi đúng hướng đi, còn muốn nắm đúng cái "hồn", những quy tắc sâu kín hơn của bất cứ ngôn ngữ nào đó thì, hết sức đơn giản, phải đọc!

Thế nhưng sự đọc, đọc nghiêm túc, lại là cái gì đó lạc điệu và xa xỉ trong nhịp sống gấp gáp của thời đại Internet, thời đại của văn hoá thị ảnh và quảng cáo. Kẻ viết đã vội vàng gấp gáp mà người đọc cũng vội vàng gấp gáp, chẳng thể nào đủ cho sự thể hiện hay thẩm thấu những quy ước ngôn ngữ. Thì cũng còn có ngữ pháp, thế nhưng, như đã nói, đấy chỉ là thứ ngữ pháp lơ lớ Việt. Đấy chỉ một ngữ pháp Âu châu với sự minh hoạ của những "thí dụ" gò ép trong tiếng Việt, và mãi cho đến nay chúng ta vẫn chưa thể khái quát hoá và trừu tượng hoá những quy ước ở cách nói và ở những yếu đố đặc thù trong tiếng nói của mình.

Nguyên nhân có lẽ là do nếp tư duy của chúng ta, vốn duy kinh nghiệm, đầy tính cụ thể nên chỉ xoay chuyển chung quanh thế giới quan chật hẹp của mình [4] . Dù đã có người, như ông Trần Ngọc Thêm, quả quyết từ những bằng chứng mơ hồ và vá víu rằng những rằng những ý niệm trừu tượng như "âm dương", "ngũ hành", rồi Lạc Thư, Hà Đồ v.v... đều xuất phát từ gốc Việt [5] ; thế nhưng, điều không thể chối cãi, nếp tư duy Việt vẫn là một nếp tư duy cụ thể. Tiếng Việt thể hiện tinh thần cụ thể và cách chúng ta ứng xử với tiếng nói của mình cũng... cụ thể nốt: chỉ cụ thể áp dụng quy tắc ngữ pháp đã có sẵn của Âu châu với những thí dụ cụ thể, đã chọn lọc cẩn thận từ tiếng Việt. Nếu đã có thể trừu tượng hoá các hiện tượng đối nhau có cặp kiểu trời/đất, nước/lửa, nam/nữ, nóng/lạnh v.v... thành ý niệm mang tính triết học là âm/dương để cho người Trung Hoa thừa hưởng; tại sao chúng ta vẫn chưa thể thể bắt tay cho cùng một việc với chính tiếng nói của mình?

Khi cuốn Văn phạm Việt Nam của học giả Trần Trọng Kim ra đời, nó đã bị nhà phê bình Vũ Ngọc Phan chê bai ầm ĩ. Sau đó thật lâu cuốn sách còn bị đả đảo ầm ĩ hơn, phần nhiều là do yếu tố chính trị vì những vai trò mà tác giả họ Trần đã nắm hồi năm 1945. Tôi còn nhớ, trong giờ học văn đầu tiên sau năm 1975, vị giáo viên văn đầy tinh thần tiếp thu cách mạng đã lớn tiếng mạt sát cuốn sách như là một thứ... đồ bỏ để rồi hồ hởi tán dương cho môn học mới "ngữ pháp chứ không phải là văn phạm", môn học với những thuật ngữ mà "các em chưa bao giờ nghe", những "liên từ", "phó từ", "số từ", "loại từ" v.v... Thế nhưng, nói như nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo [6] thì đấy cũng chỉ là những quan niệm ngôn ngữ ấu trĩ và có lẽ chưa một nhà ngôn ngữ học hay giáo viên văn nào ở Việt Nam có đủ can đảm để mang một câu thơ Kiều, một đoạn văn của Nam Cao hay Nguyễn Đình Thi ra phân tích về mặt ngữ pháp. Những cách viết... đặc tiếng Việt của những tác giả ấy đã quá tải với bộ môn ngữ pháp lơ lớ Việt, đã đi quá xa những thí dụ gượng ép mà những nhà ngữ pháp học hằng chắt chiu dành dụm để có dịp là đưa ra làm mẫu.

Thậm chí, ngay ở những điều tưởng đơn giản nhất như cách viết hoa, tiếng Việt vẫn chưa được thể chế hoá một cách đàng hoàng, đâu ra đó. Nên viết Tổng thống Chirac, tổng thống Chirac hay Tổng Thống Chirac? Nên viết Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng Sông Cửu Long, Đồng Bằng Sông Cửu Long hay đồng bằng sông Cửu Long? Viết miền Nam hay miền Nam? Viết Đạo Hồi hay đạo Hồi? Viết Thiên Chúa Giáo, Thiên Chuá giáo hay Thiên chúa giáo? Kiểu nào, xem ra, cũng... được cả miễn là hiểu ý. Trong sắc lệnh về "các vấn đề chính tả và thuật ngữ tiếng Việt", có chữ ký của nguyên Bộ trưởng Nguyễn Thị Bình, vốn quy định lối viết hoa đơn giản hoá, kiểu "Đảng cộng sản Việt Nam" hay "Trường đại học bách khoa Hà Nội" mà lại bất nhất với chính mình khi, những hai lần, viết rõ ràng trên giấy "Bộ Giáo dục" thay vì "Bộ giáo dục" . Hậu quả của cái sự thể chế hoá đầy tính chất... phi thể chế này là, sau hơn 20 năm, tình trạng vẫn đâu hoàn đó và cách viết hoa của chúng ta vẫn cứ là... đa nguyên, mỗi người mỗi vẻ [7] .

Đó chính là hậu quả của cái thói xem thường văn bản và khinh thường tiếng Việt. Viết thế nào cũng được: miễn là đúng ý. Viết sao cũng tốt: miễn là không sai nội dung. Thì "Bộ Giáo dục" hay "Bộ giáo dục" có gì khác nhau đâu, bởi, viết kiểu nào cũng diễn tả đúng cái bộ chuyên lo việc... giáo dục. Thói quen này, có lẽ, đã hình thành rồi tồn tại theo những lý do chính trị và lịch sử lâu đời: ngay từ những khoa thi đầu tiên, những bậc khoa bảng hay trí thức Việt Nam đã được nhồi luyện cái tật khinh thường chữ nghĩa của mình và xem thường văn bản.

Cứ chấp nhận rằng người xưa sùng kính chữ nghĩa, thì đấy cũng chỉ là sùng kính cái gì đó khác, liên quan đến chữ chứ không phải tự thân cái chữ. Sùng bái chữ, người ta sùng bái một phương tiện lập thân và lập danh, một ngả đường đưa đến những địa vị hằng mong ước. Sùng bái chữ, người ta còn sùng bái như một kẻ mê tín và nô lệ, xem "chữ nghĩa thánh hiền" là những gì mà mấy ông thánh họ Khổng hay họ Mạnh v.v... đã phun ra, không bao giờ dám đi chệch. Trọng chữ, họ trọng cái mà chữ đang biểu đạt chứ không tôn trọng nó như một phương tiện biểu đạt vốn hướng tới tiêu chí chính xác và nhất quán. Và như thế, ngay từ các khoa thi đầu tiên, giới khoa bảng hay trí thức Việt Nam đã được nhồi luyện để, với chính mình, thì khinh thường chữ nghĩa; còn với mấy ông thánh đến từ Tàu thì, run sợ chữ nghĩa. Một mặt, với "chữ nghĩa thánh hiền", họ chăm chút cẩn thận cơ hồ trong từng sát na, từng ly, từng tý. Một mặt, họ phải ngang xương bóp méo chữ nghĩa của chính mình để tránh đi những điều húy kỵ. Muốn diễn tả hay ví von cái hoa mà hoàng thân quốc thích có ai đó tên Hoa, những sĩ tử hay những tác gia thời trước phải tránh cái chữ đó đi, như viết thành "huê" chẳng hạn: nếu phạm húy thì coi như tương lai đi đứt.

Khi hình thành một luật lệ và một tập quán như thế các định chế xã hội - quyền lực thời đó đã mở ra những tiền lệ nguy hiểm và để lại những hậu quả không thể cứu chữa. Chúng ta xem thường văn bản đến độ biến dân tộc mình thành một dân tộc "không văn tự" và, do đó, nhiều khi nhìn về lịch sử mình, chúng ta lại phải nhìn về bằng con mắt người khác: muốn nhìn về thời Hùng vương hay Bắc thuộc thì phải đọc sử Tàu đã đành, nhưng muốn tìm hiểu về thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh hay Tây Sơn v.v.., chúng ta lại phải lục lọi trong các văn khố Pháp để đọc hồi ký hay thư từ của các nhà truyền đạo. Chúng ta chính xác một cách khiếp nhược và nô lệ đối với những tư tưởng và ngôn ngữ vay mượn bên ngoài nhưng lại du di, tự tiện và nhếch nhác với ngôn ngữ hay những gì khả dĩ gọi là tư tưởng hay di sản của mình.

Thực thế, nếu lỡ viết sai một câu tiếng Anh hay tiếng Pháp, rất nhiều người trong chúng ta sẽ bứt rứt, sẽ dày vò mình với những mặc cảm dốt nát. Trong khi đó, nếu viết sai tiếng Việt, và sai một cách trầm trọng, câu chuyện được xem như thể sự thường; thậm chí có khi còn gân cổ cãi chày cãi cối với những điều mệnh danh là "phong cách" hay "sáng tạo": viết thế nhưng ý không phải thế! Cái tư thế cãi chày cãi cối xuất phát từ thói tật xem thường văn bản: ngôn ngữ có thể sai, có thể không chính xác, chỉ cần diễn đạt đại khái ý chính nhưng điều tối cần thiết là tránh xa những điều húy kỵ. Trong nước, một tác giả có thể viết sai tiếng Việt, sai trầm trọng về kiến thức hay lý luận và có thể bị chê nhưng, dẫu sao, điều đó không quan trọng. Cái quan trọng là anh ta không sai lập trường, không phạm đến những quan điểm chính thống. Tương tự, tại một hạt nào đó ở California hay ở thành phố nào đó của Australia chẳng hạn, một tác giả lưu vong có thể viết sai tiếng Việt bao nhiêu đi chăng nữa, vấn đề chẳng có gì là lớn chuyện. Chuyện chỉ ồn lên khi anh ta dám chen vào dăm ba từ xem là... " từ Việt Cộng"; những từ ngữ kiểu "nhất thống", "đảm bảo", "thủ trưởng", hay, khá cười, những từ ngữ như "phản ảnh" hoặc "quá độ" mà Nguyễn Văn Vĩnh hay Phan Khôi đã từng sử dụng, rất lâu trước khi ý niệm "Việt Cộng" ra đời. Và chuyện chỉ lớn lên khi anh ta động vào những điều được xem là phi chính thống.

Khi hành xử như thế chúng ta đã đặt tiêu chí chính trị lên trên tiêu chí ngôn ngữ và bắt ngôn ngữ hy sinh cho chính trị. Trong cái nấc thang tiêu chí đó bất cứ tình trạng lạm ngôn nào - hoặc có mục đích như ngôn ngữ tuyên truyền hay vô mục đích vì... dốt ngôn ngữ - cũng trở nên khả chấp miễn là phải đạo về chính trị. Và như thế - theo sự phân hoá của chính trị hay tình trạng chia cắt, đối nghịch v.v... - ngôn ngữ càng trở nên nhập nhằng và phi tiêu chuẩn.

Nhưng sâu hơn, sự phi chuẩn đó cũng còn có gốc gác từ nếp tư duy nữa, cái tư duy tiểu nông, tư duy của một thế giới quan chật hẹp và do đó có khuynh hướng lấy mình làm chuẩn. Như sự phi chuẩn của "trong"/"ngoài", như: "vào trỏng/trong" và "ra ngoải/ngoài" rồi "vào trong Sài Gòn" và "ra ngoài Hà Nội", chẳng hạn. Sự phi chuẩn mà, mới nhìn, dễ nghĩ là hệ quả lịch sử của tình trạng chia cắt khi đất nước nằm trong bàn tay hai họ Trịnh - Nguyễn. Từ bắc đi vào nam, chúng ta nói "vào trong Nam". Từ nam ra bắc, chúng ta nói "ra ngoài Bắc". Thế nhưng, dù ở Hà Nội, chẳng ai ra khỏi biên giới thủ đô mà ở Sài Gòn, cũng có thể băng xa tới các tỉnh miền Tây.

"Vào trong và "ra ngoài, đó có phải là hệ quả của sự chia cắt "Đàng Trong" và "Đàng Ngoài" từ tận thế kỷ 15 hay không? Không cần phải cách chia lãnh thổ, "trong" và "ngoài" cũng lâm vào tình trạng trái khoáy như thế với một không gian nhỏ hơn, như "trong nhà" và "ngoài vườn" chẳng hạn. Nếu "trong nhà" là bên trong bốn bức tường phân định căn nhà thì "ngoài vườn", chẳng khác gì hơn về bản chất, cũng là bên trong mấy dậu rào phân định khu vườn. Tương tự, "vào trong nhà" và "ra ngoài vườn" thể hiện một tư duy, một thế giới quan chật hẹp, rất là... ta về ta tắm ao ta: chỉ trông cậy và tin tưởng cái gì gần với mình nhất, thân thuộc với mình nhất và, do đó, đầy những quy ước hiểu ngầm. Trong một không gian nho nhỏ của cái nhà và cái vườn mà đã thế rồi thì, vấn đề, có lẽ thuộc về nếp tư duy và thế giới quan của con người. Chính nếp tư duy tiểu nông này đã đẻ ra ngôn ngữ xưng hô đầy rắc rối, đầy quy ước hiểu ngầm và dễ làm... mích lòng người. Vừa câu nệ, vừa du di, những anh, em, cô, dì, chú, bác, cậu thể hiện sự khó tính, đâu ra đó, em của mẹ khác với em của bố, không như người Anh sàn sàn uncle hay aunt mọt loại. Thế nhưng cũng ngần ấy từ chúng ta lại có thể xoay chuyển đủ cả ba ngôi, với một tiêu chí đầy tính chủ quan: lớn tuổi gọi kẻ khác lá chú, ấy là chú em; còn khi tự xưng là chú, thì ấy là cha chú v.v...

Trong sự nhập nhằng và trong cái thế giới quan chật hẹp đó, những danh xưng như "viện", cho một cái tiệm uốn tóc chỉ có ba cái ghế và hai tấm gương, lại ra đời: "viện uốn tóc" thì nghe sang hơn, lớn hơn, trang trọng hơn. Không thể chối cãi, chính cái tâm lý sang cả hoá này đã khai sinh nhiều từ ngữ mới, làm cho tiếng Việt thêm phần phong phú. Như "cầy", "cờ tây" rồi "mộc tồn", chẳng hạn: chúng cho phép người trong cuộc cảm thấy sang trọng hẳn ra, tránh được cái chữ "chó" gắn liền với cái gì đó thật dơ, thật là... chó má, xuất hiện triền miên trong những lời chưởi nhau chẳng lấy gì làm thơm tho sạch sẽ. Thế nhưng nếu đấy là những sáng tạo làm giàu thêm thêm tiếng Việt thì cái trò sang cả hoá kiểu "viện" chỉ là một sự lạm dụng ngu dốt đối với tình trạng nhập nhằng của ngôn ngữ, và khiến cho ngôn ngữ càng trượt dốc nhanh hơn trong cái sự nhập nhằng. Một tình trạng siêu lạm phát.

Lạm phát đến độ, như đã thấy, chỉ lèo tèo dăm ba cái ghế và mấy cái gương mà đã vươn mình thành viện. Lạm phát đến độ, nếu chỉ biết đọc tiếng Việt thôi, không ai biết được vị "bác sĩ nhãn khoa" chủ nhân của tấm danh thiếp mới xùy ra trước mặt, thực ra, là bác sĩ chuyên khoa về mắt, tức ophthalmologist, hay là một chuyên viên đo mắt - gọt kính, tức optometrist? [8] . Và lạm phát đến độ, nghe lời giới thiệu về một "giám đốc đài phát thanh", chúng ta sẽ ngỡ ngàng không rõ hình tướng của cái "đài" mà kẻ đó đang làm "giám đốc": đó là một cái "đài" độc lập về chuyên môn với đủ ban bệ biên tập và tài sản như thể BBC,VOA hay, thậm chí, Tiếng nói Việt Nam? Hay cái "đài" mà họ đang làm "giám đốc" chỉ là một thứ "đài" virtuality, thứ "đài" của hiện thực ảo, cái "đài" ở đó họ làm "giám đốc" bằng cách rao bán giọng nói của mình qua những câu chuyện tầm phào, nhí nha nhí nhách, mỗi tuần chừng một hay hai tiếng đồng hồ là cùng, trên một làn sóng thuê mướn và qua những thiết bị thuê mướn, từ một cái... đài nào đó. Hẳn nhiên, họ cũng thừa biết thế, tuy nhiên, cũng như những sở hữu chủ của cái viện chỉ có ba cái ghế dựa và hai tấm gương soi, ai cũng khao khát cái gì đó sang cả: bác sĩ hay y sĩ nhãn khoa thì "trí thức" hơn chuyên viên đo mắt, "đài phát thanh" thì sang hơn "chương trình phát thanh" còn "giám đốc" thì oai hơn "người phụ trách", rất nhiều.

Thì, ở đâu mà con người không thích làm sang? Nhưng trên phương diện ngôn ngữ học, trong khi những dân tộc khác buộc chặt thói quen của mình trong những quy phạm ngữ pháp thì chúng ta lại tỏ ra phóng túng. Chúng ta phóng túng với cái tật lấy mình làm chuẩn, với cái nhìn chật hẹp ếch ngồi đáy giếng, nghĩ rằng cái gì thuận tai và thuận tay mình đều là... tiếng Việt. Chúng ta phóng túng vì thói xem thường văn bản, cho rằng cái được biểu đạt quan trọng hơn cái biểu đạt, rằng ý nặng hơn lời, nội dung nặng hơn mặt chữ và sự phải đạo chính trị quan trọng hơn sự chính trực của ngôn ngữ. Và chúng ta còn phóng túng vì tiếng Việt không biết cãi, không có một quy phạm ngữ pháp thực sự là tiếng Việt, chỉ có những gì lơ lớ Việt.

Trong một khung cảnh như thế, đó đây, lại thấy xuất hiện cái trò "cải cách tiếng Việt", của vài nhà "ngôn ngữ học" muốn làm chuyện gì đình đám, cái lối rập khuôn những thứ tiếng Âu châu như Thụy Điển khi viết dính những từ ghép vào nhau. Thì cũng được đi, thế nhưng, trong cái quy phạm lộn xộn và vô lý của "ngữ pháp tiếng Việt" hiện tại, chúng ta biết đâu là từ đơn, biết đâu là từ ghép để áp dụng? Cải cách là để trong sáng hoá, giản tiện hoá và nhất quán hoá nhưng cái trò này, xem ra, chỉ có thể làm tiếng Việt thêm phần rắc rối, bầy hầy. Nếu "quốc ca" là từ đơn mà "dân ca" là từ ghép thì, trong cái trò "cải cách" đó, chúng ta phải viết ghép là "dânca" trong khi "quốc ca" thì vẫn nguyên là... "quốc ca"? phải viết "gianhân" trong khi giữ nguyên "gia đình"? phải viết "súngngắn" trong khi giữ nguyên "súng trường"? Cái nỗ lực gọi là "cải cách" ấy chỉ có công dụng duy nhất là làm tiếng Việt thêm phần bát nháo. Thay vì tập trung vào những quy tắc khó hiểu và vô lý của lôí phân biệt từ đơn và từ kép khó hiểu kia, thay vì tập trung vào nỗ lực phân tích và khái quát hoá những quy ước của tiếng Việt, họ chỉ viển vông bàn đến việc xây một lâu đài thật cao trên một cái nền chưa ổn định, chưa hề được chuẩn hoá. Cái nền mà, trong cái thời đại Internet và vằn hoá thị ảnh - quảng cáo, khi người viết lẫn người đọc đều vội vàng gấp gáp, càng cần phải ổn định và chuẩn hoá nhanh nhanh hơn nữa.

Để có một cái nền ổn định như thế thì, ít ra, ở từng người, chúng ta cũng phải biết sợ. Ít nhất là sợ viết sai tiếng Việt như khi hạ bút viết một câu bằng thứ ngoại ngữ nào đó, tiếng Anh, tiếng Pháp hay tiếng Đức, tiếng Nga chẳng hạn.

Sydney 18.11.2003

© 2003 talawas



[1]"Cức" là tên một lại cây gai, vì trường thi ngày xưa thường trồng các loại cây gai chung quanh nên được gọi là "cức viện", "cức viện tường gai". Theo Thiền Chửu (xem chú thích số 2) thì "vào đời ngũ đại học trò vào thi hay làm rầm, quan tràng bắt trông gai kín cả xung quanh tràng thi, cấm ra vào ồn ào nên cuộc thi hương thi hội gọi là cức vi." Cũng theo Thiền Chửu, cây gai này hay móc vào áo nên người đi đường rất sợ, do đó đường sá hiểm trở gọi là "kinh cức", rồi các thuật ngữ như "kinh thiên cức địa", người có tang gọi là "cức nhân" v.v...
[2]Xem: Đào Duy Anh, Hán-Việt Tự Điển - soạn năm 1931, NXBTPHCM (tái bản năm 1994); Thiền Chửu, Hán-Việt Tự Điển, NXBTPHCM 1993; và Lê Văn Đức & Lê Ngọc Trụ, Việt Nam Tự Điển, NXB Khai Trí 1970.
[3]Tôi vừa mới trình bày điều này trong bài Ngôn ngữ điên hay là..."
[4]Xem Nguyễn Hoàng Văn , "Tinh thần tiểu nông trong văn học Việt Nam", Việt số 6, 2000.
[5]Xem: Trần Ngọc Thêm (1993), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, NXBTPHCM.
[6]Xem: Cao Xuân Hạo, "Về quy tắc ngữ pháp"
www.nhandan.org.vn/vietnamese/today/vai-vh5.html và Hồng Huy
"Từ loại trong tiếng Việt", tạp chí Văn học 194.
[7]Quyết định 240/QD, do Bộ trường Nguyễn Thị Bình ký, kèm theo "Quy định về chính tả tiếng Việt và thuật ngữ tiếng Việt. Toàn văn quyết định này được in nguyên văn trong cuốn Tiếng Việt thực hành, NXB Giáo duc 2000, do Bùi Minh Toán chủ biên. Dẫn theo Phúc Đường, "Viết hoa - chuyện không đơn giản" trên tạp chí Tài hoa trẻ, báo Nhân Dân trích đăng
www.nhandan.org.vn/vietnamese/giugintiengviet/080601.html
[8]Có nên gọi đó "trắc nhãn viên" hay không?