trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 884 bài
  1 - 20 / 884 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Văn họcVăn học Việt Nam
27.6.2008
Lê Chí Dũng
Văn chương Phan Bội Châu trên con đường hiện đại hoá văn học Việt Nam
 1   2 
 
Ở thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, lịch sử loài người đã chứng kiến chủ nghĩa tư bản phương Tây vươn chiếc vòi bạch tuộc nắm lấy toàn thế giới, buộc toàn thế giới phải tồn tại và phát triển theo hình ảnh của giai cấp tư sản.

Một nền văn học toàn thế giới đã hình thành trong điều kiện đó.

Tuyên ngôn của đảng Cộng sản được K. Marx và F. Engèls soạn thảo năm 1848 đã nhìn nền văn học ấy bằng cái nhìn đại thể như sau: "[…] từ những nền văn học dân tộc và địa phương muôn hình muôn vẻ, đang nảy nở một nền văn học toàn thế giới" [1] ; nền văn học toàn thế giới này nằm trong hệ thống toàn thế giới về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá… do giai cấp tư sản tạo ra.

Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược, chiếm đóng và thống trị, trở thành một nước thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, trở thành một bộ phận của thế giới bị toàn cầu hoá tư bản chủ nghĩa…

Trong hoàn cảnh ấy, văn học Việt Nam (cũng như văn học Trung Hoa, văn học Triều Tiên, văn học Nhật Bản) buộc phải tách ra khỏi khu vực văn học Đông Á, hội nhập vào văn học toàn thế giới. Lúc bấy giờ, văn học nước ta đứng ở ngã ba đường: hoặc đổi mới dần dần văn học trung đại để tiến tới văn học hiện đại; hoặc xây dựng trực tiếp văn học hiện đại bằng cách học hỏi văn học Pháp, văn học phương Tây.

Dù có ý thức hay không và dù cứu cánh khác nhau, Phan Bội Châu và Tản Đà đã đi con đường thứ nhất. Những trí thức Tây học đi con đường thứ hai.

Cần và có thể coi Phan Bội Châu như nhà nho hành đạo sống, hoạt động và viết văn trong những điều kiện lịch sử-xã hội Việt Nam khác với điều kiện lịch sử-xã hội Việt Nam dưới chế độ độc quyền phương Đông [2] . Sống, hoạt động cách mạng và viết văn để cứu nước, phục quốc, Phan Bội Châu đã trở thành nhà chí sĩ cách mạng và cuối cùng, trở thành "ông già Bến Ngự".

Văn chương của con người như vậy đã đi như thế nào trên con đường hiện đại hoá văn học Việt Nam?


Con người Phan Bội Châu

Trước năm 1898, Phan Bội Châu đã sáng tác "Tần hoàng khanh nho"

Tội Tần thiên cổ thuyết khanh nho,
Ngã thuyết Tần khanh danh lợi đồ.
Lang tự bất tham qua tự thực,
Phục, Thân tằng nhập thử khanh vô.

Vua Tần chôn học trò
Xưa nay vẫn nói tội của Tần là chôn học trò,
[Nhưng] tôi nói Tần [chỉ] chôn bọn danh lợi.
[Nếu như] bọn người ấy không tham loại dưa ngon [thì sao mà chết?]?
Ông Phục, ông Thân không đến đó thì có bị chôn đâu?

Bài thơ đánh dấu sự thay đổi quan điểm của Phan Bội Châu đối với tư tưởng và tư duy theo Nho giáo.

"Tám chữ: độc lập bất cụ, độn thế vô muộn, vẫn chung một hạng người quân tử, mà thủ đoạn có khác nhau; việc gì đáng làm dầu toàn thiên hạ không ai làm, mà mình cứ làm, xông vào nguy hiểm mà chẳng kinh, mắc lấy dèm chê mà chẳng quản. Đó là một cách độc lập mà bất cụ."

"Việc gì không đáng làm, dầu toàn thiên hạ thảy làm, mà mình không chịu làm, mình đã trái với mắt thế tục, âu là bỏ tục trốn đời, mà tinh thần được tự do tự tại. Đó là một cách độn thế vô muộn." [3]

Phan Bội Châu cho đến lúc đó đã "đọc hết thánh hiền". [4]

Ông đã làm một cuộc cách mạng trong tư duy. "Cách chỉ nghĩa là đổi cũ, hễ việc gì đã cũ, giống gì đã cũ, tất phải cách, vì hai cớ. Một là, theo về lịch sử, cái gì đã lâu ngày tất có tích tệ, tích tệ lâu ngày mà không đổi, thì tệ bệnh không thể nào trừ. Vậy nên phải cách. Hai là, theo về hoàn cảnh, hoàn cảnh ở hiện tại, đã khác hẳn hoàn cảnh ngày xưa, muốn cho thích hợp với hoàn cảnh hiện tình, tất phải đón rước triều lưu mới lạ; mà đã muốn đón rước triều lưu mới lạ, tất nhiên những cái cổ hủ phải bỏ đi. Vì hai cớ như trên, nên trong việc đời không bao giờ khỏi cách". [5]

Nguyễn Thượng Hiền đưa cho Phan Bội Châu Thiên hạ đại thế luận của Nguyễn Lộ Trạch và những pho sách Trung Đông chiến kỷ, Phổ Pháp chiến kỷ, Doành hoàn chí lược. Phan Bội Châu "vì xem những sách ấy mới hiểu qua được thời trạng cạnh tranh ở trong hoàn hải, thảm trạng vì quốc vong, hoạ sâu vì chủng diệt, càng kích thích ở trong óc sâu lắm". Nguyễn Thượng Hiền lại vì Phan Bội Châu "mà kể những việc nghĩa dũng của ông Tăng Bạt Hổ cho tôi nghe". Phan Bội Châu "chôn sâu con người ấy vào lòng và cái tư tưởng phá cũi sổ lồng đến lúc đó mới manh động". [6]

Phan Bội Châu ghét tục danh. Nhưng cuộc sống đã dạy ông hiểu rằng "thời danh" cần phải có lập mới xong [7] , vì không có "thời danh" thì không hội đủ các điều kiện cho việc tuyên truyền, vận động, tập hợp lực lượng cứu nước. Bởi vậy Phan Bội Châu "hết sức trau dồi văn nghiệp theo thời thượng, lo cướp một món hư danh để cho đời trông ngó, sẽ dành sẵn một địa bộ trí sính ngày sau". [8]

Năm 1900, Phan Bội Châu đậu giải nguyên kỳ thi hương ở Nghệ An. "Thế là tôi có được một cái mặt nạ để mượn đó mà che lấp mắt đời. Tháng chín năm ấy, cha tôi vừa bảy tuần mà mệnh chung. Gánh nặng gia đình mới nhẹ bỗng ở trên hai vai. Lúc đó mới là lúc tôi bắt tay vào những kế hoạch cách mạng". [9]

Vận động cứu nước, Phan Bội Châu hết vào Nam lại ra Bắc, hết lên miền rừng lại xuống biển. Phan Bội Châu thấy rõ ở Việt Nam lúc này "vua là tượng gỗ, dân là thân trâu". [10]

Phan Bội Châu viết Lưu Cầu huyết lệ tân thư và gặp giới quan trường của triều đình Huế. "Loanh quanh hết mấy tháng trời như thế, rồi sau tôi biết rõ bọn cụ lớn kia mình không cậy nhờ gì được mà trông. Ruột gan của họ chỉ biết sự phú quý của thân họ, nhà họ. Trước việc thì họ ngồi ngó thành bại, sau việc thì họ lựa sóng theo chiều. Nay ta mạo hiểm nhờ cậy vào họ nhưng thật không chỗ nào nhờ cậy họ được. Tôi luống thẹn mình kém thần trí sáng, chẳng có tài làm cho tượng đá biết gật đầu, rồi càng nghĩ càng ăn năn trước kia mình tơ tưởng lợi dụng quan trường thật là bá láp". [11] Tuy nhiên, với xác tín không người Việt Nam nào lại không yêu nước, Phan Bội Châu vẫn xếp giới quan trường và những hạng người khác lúc bấy giờ mà ông đã tiếp xúc, được giúp đỡ trên những bước đường vận động chống Pháp, phục quốc vào "mười hạng người đồng tâm": phú hào; quan tước, thế gia; lính tập; gia-tô giáo; côn đồ, nghịch tử; nhi nữ anh thư; bếp, bồi, thông, ký; cừu gia đệ tử; sĩ; du học sinh.

Phan Bội Châu đã thành "người quốc dân" - vì nước, tạm quên nhà. Phan Bội Châu tự phủ định con người theo Nho giáo trong mình, vượt trùng dương tìm cách cứu nước.

Giang sơn tử hĩ sinh như nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si;
Tiện trục trường phong Đông hải khứ,
Côn ba kình lãng nhất tề phi.
("Đông du kí chư đồng chí")

Non sông chết rồi, sống cũng bằng thừa,
Thánh hiền đã xa vắng, đọc mãi cũng thêm si mê;
Hãy đáp gió lớn đi ra biển Đông,
Cùng lướt sóng với cá côn, cá kình.
("Gửi các đồng chí khi Đông du")

Chủ trương vũ trang bạo động và cầu ngoại viện để đánh đuổi Pháp, khôi phục nước Việt Nam, lập chính phủ độc lập, Phan Bội Châu đã cùng các đồng chí và bè bạn lập Duy tân hội năm 1904, khởi xướng và lãnh đạo phong trào Đông du từ đầu năm 1905. Sang Nhật Bản, thông qua một số chính khách nước này, Phan Bội Châu bày tỏ mong muốn chính phủ của quốc gia quân chủ lập hiến Nhật Bản giúp Việt Nam đánh đuổi Pháp, giành độc lập. Từ 1905 đến 1908, Phan Bội Châu đã tổ chức cho gần 200 thanh niên yêu nước sang Nhật Bản học tập ở trường Đồng Văn thư viện, Chấn Vũ học hiệu và lập ra Công hiến hội để quản lý việc học tập, tu dưỡng đạo đức, tư tưởng của học sinh, nhằm chuẩn bị cho việc vũ trang bạo động ở trong nước. Ở Nhật Bản, Phan Bội Châu cũng đã liên lạc với các hội, các đảng yêu nước và tiến bộ của học sinh và chính khách các nước tại Tokyo để trao đổi kinh nghiệm vận động cứu nước và ủng hộ lẫn nhau giữa các nước "đồng bệnh".

Tháng 3–1909, tổ chức Đông du bị giải tán và Phan Bội Châu bị chính phủ Nhật Bản trục xuất. Nhà chí sĩ cách mạng về Trung Quốc ẩn náu một thời gian ngắn rồi sang Thái Lan mở trại cày Bạn Thầm để tính kế cứu nước lâu dài. Năm 1911, Cách mạng Tân Hợi ở Trung quốc thành công; Phan Bội Châu trở lại nước này tập hợp một số đồng chí, tuyên bố giải tán Duy tân hội, thành lập Việt Nam quang phục hội với tôn chỉ: "Đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam, thành lập nước Cộng hoà dân quốc Việt Nam".

Việt Nam Quang phục Hội cử người về nước hoạt động và gây ra một số vụ bạo động vũ trang, nhưng bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp.

Phan Bội Châu bị bọn quân phiệt Trung Quốc bắt giam vào đầu năm 1914 đến năm 1917. Khi Phan Bội Châu được trả lại tự do, Chiến tranh thế giới thứ nhất sắp kết thúc, Cách mạng tháng Mười Nga nổ ra và thành công; phong trào giải phóng dân tộc sôi nổi khắp thế giới, đặc biệt là ở phương Đông. Phan Bội Châu dần nghiêng về cách mạng thế giới, tìm hiểu Cách mạng tháng Mười và viết báo ca ngợi Lênin. Giữa năm 1924, phỏng theo Quốc dân Đảng của Tôn Trung Sơn, Phan Bội Châu cải tổ Việt Nam quang phục hội thành Việt Nam Quốc dân Đảng. Tháng 12-1924, sau khi tiếp xúc với Nguyễn Ái Quốc và được Nguyễn Ái Quốc góp ý, Phan Bội Châu dự định sẽ cải tổ Việt Nam Quốc dân Đảng theo hướng tiến bộ. Nhưng ngày 30-6-1925, trên đường từ Hàng Châu trở về Quảng Châu để gặp các đồng chí, vừa đến ga Bắc Thượng Hải, Phan Bội Châu bị Pháp bắt cóc đem về nước, đưa ra xử ở toà Đề hình Hà Nội. Một phong trào bãi khoá, bãi công, bãi thị rầm rộ khắp cả nước, đòi trả tự do cho Phan Bội Châu. Thực dân Pháp buộc phải tha bổng Phan Bội Châu, nhưng bắt an trí tại Huế.

Từ năm 1926 trở đi, bị cách ly với thực tế đấu tranh cách mạng của đất nước, Phan Bội Châu trở thành "ông già Bến Ngự".


Quan niệm văn học của Phan Bội Châu

Trước khi ra nước ngoài hoạt động cách mạng, Phan Bội Châu đã trước tác văn chương cử tử và về phương diện này, ông đã nổi danh là người hay chữ nhất nước; mặt khác, Phan Bội Châu cũng sáng tác và tham gia sinh hoạt văn học dân gian, sáng tác những tác phẩm văn học theo loại thể văn học dân gian đặc trưng cho văn học dân gian Nghệ Tĩnh. Viết văn chương cử tử (thi, phú, kinh nghĩa, văn sách…), Phan Bội Châu tất nhiên chịu sự điều hướng của quan niệm văn học chính thống của thời trung đại: ngôn chí, tải đạo.

Trong những năm cuối thế kỷ XIX-đầu thế kỷ XX xảy ra sự thay đổi nhanh chóng về hệ ý thức xã hội, về trạng thái tri thức của con người và về cơ chế quyền lực ở Việt Nam. Những thay đổi ấy dẫn tới sự biến dạng (déformation) trong quan niệm văn học ở Phan Bội Châu. Ông thấy rõ sự nguy hại của "nọc độc khoa cử". Đậu giải nguyên trường thi Nghệ An, Phan Bội Châu thấy xấu hổ, khác nào chàng Đông Nam Quách không biết thổi sáo mà cứ trà trộn vào đám 300 người thổi sáo cùng một lúc của Tề Tuyên vương để kiếm lợi lộc [12] ; mừng bạn Nguyễn Mai thi đỗ tiến sĩ, Phan Bội Châu cũng không giấu được sự mỉa mai chua chát [13] . Phan Bội Châu vạch rõ sự dã man của đất nước có nguồn gốc ở tập tục thâm căn cố đế trong suy nghĩ và hành vi của mọi người, ở người ta chỉ biết noi gương cũ; ông chỉ rõ sự vận động của tư tưởng và lực hành sẽ dẫn tới văn minh. Phan Bội Châu kêu gọi: "Hãy một lòng yêu nòi, yêu nước, liều chết xông ra chống giặc" [14] . Phan Bội Châu chỉ ra chức phận của mỗi hạng người: "Vi quân như hà nhi nhân; vi thần như hà nhi kính; vi phụ như hà nhi từ; vi tử như hà nhi hiếu; vi quốc dân như hà nhi phú ngô quốc, vi hà như cường ngô binh, ngã nhi chức phận" [15] ("Làm vua thì phải làm sao cho hết đạo nhân; làm tôi thì phải làm sao cho hết đạo kính; làm cha thì phải làm sao cho hết đạo từ; làm con thì phải làm sao cho hết đạo hiếu; làm dân nước thì phải làm sao cho nước ta giàu, binh ta mạnh; đó là chức phận của chúng ta"). Tân thư, tân văn đã cấp cho Phan Bội Châu đôi mắt "doanh hoàn" để nhìn khắp năm châu, bốn biển, biết lẽ "ưu thắng, liệt bại". Ông nguyện làm người đi đầu, mở đường cho một sự nghiệp như vậy với quyết chí "đội đá vá trời", không gì có thể cản nổi:

Ngược gió mà xuôi dòng, ta sẽ vén xiêm mà sang này, dô hò khoan!
Dù Pháp, dù Nhật, dù Nga này, sao lại ngăn chặn được ngang dòng?
Ta tìm hỏi bến mà chèo sang này, dô hò khoan!
Gió to cuồn cuộn này, biển lớn mênh mang, vừa hát vừa cười mà chèo qua này, dô hò khoan!
Biển lớn thênh thênh này, sóng cả mênh mông, một lòng một sức mà chèo qua này, dô hò khoan!
Giao long nổi lên này, con cá lớn bơi vừa sợ vừa vui. Cứ ung dung, ngất ngưởng mà chèo qua này, dô hò khoan!
Mây biển tối đen này, đêm dài dằng dặc, vượt gian khổ, khó khăn mà chèo qua này, dô hò khoan!
Dù cả thuyền đều ngủ yên này, hãy coi thường cột gãy buồm tan, hãy mau mau tỉnh dậy mà chèo qua này, dô hò khoan!
Cả thuyền đều ngồi yên này, chẳng biết sóng cồn hay nước cạn, vỗ tay hô to mà chèo qua này, dô hò khoan!
Hỡi anh em tay chèo này, chớ ngại khó khăn, một lần, hai lần, gắng sức ta chèo qua này, dô hò khoan!
Giữ chắc tay lái của ta này, chớ có hề ngơi; trăm người, ức vạn người phấn dũng mà chèo qua này, dô hò khoan! [16]

Đối với Phan Bội Châu, lúc này, chỉ có hành động cứu nước, phục quốc là đáng làm:

Một bầu rượu, một túi thơ,
Hỏi anh mang gươm định đi đâu đó?
Muốn làm Gia Cát Lượng ở Long Trung chăng?
Muốn làm Bá Di đợi thời mà ẩn ở Bắc Hải chăng?
Nhưng thời đã nguy, thế đã nguy.
Nằm suông để làm gì?
Đợi thời đến thuở nào?
Trời nghiêng đất đổ, tội ấy do ai?
Vua mất, nước bị tàn phá, trách nhiệm tại ai?
Vậy thì hát mà chi, cười mà chi, khóc như thế nữa mà chi? [17]

Quan niệm văn học chính thống và quan niệm văn học của văn học dân gian thống hợp trong con người Phan Bội Châu? Hay Phan Bội Châu có khả năng phân thân: lúc này thì chịu sự điều hướng của quan niệm văn học chính thống, lúc khác thì chịu sự lèo lái của quan niệm văn học của văn học dân gian? Tương truyền Phan Bội Châu đã cất lời:

Nơi mô mà nắng không khô,
Mà mưa không ướt… đúc vô mọc liền

để đáp lại tiếng "chào" của một cô bạn gái đã quen đầu xứ San trong những đêm đi hát phường vải.

Đưa chàng mấy hột ngô rang,
Đúc vô mô cho mọc, thiếp theo chàng hôm nay. [18]

Với những ứng tác như vậy, Phan Bội Châu đã tham gia vô số đêm hát phường vải ở quê nhà. Những ứng tác kiểu đó chịu sự điều hướng của quan niệm văn học dân gian. Những ứng tác kiểu đó không cho thấy ở Phan Bội Châu hiện diện sự thống hợp giữa quan niệm văn học chính thống với quan niệm văn học dân gian hay sự phân thân của ông để lúc thì đáp ứng quan niệm văn học đầu, khi thì chịu sự chi phối của quan niệm văn học sau. Những ứng tác kiểu đó có lẽ là thắng lợi của tính cách nội sinh nơi Phan Bội Châu: tình tứ, tinh nghịch, đối đáp nhanh, sắc sảo.

Nhưng rồi sự thống hợp của hai quan niệm văn học ấy cũng xuất hiện khi mọi sáng tác của Phan Bội Châu đều bộc lộ những tư tưởng cứu nước, phục quốc đang lớn lên từng ngày.

Trong một đêm đi hát phường vải ở làng Kim Liên, một cô gái lên tiếng:

Nhất vui bầu rượu túi thơ,
Biết ai khanh tướng, công hầu là ai?

Phan Văn San đáp:

Mặc ai khanh tướng, công hầu,
Dưới thành luống những muốn câu cá kình.

Cô gái lại lên tiếng:

Rõ ràng cốt cách trượng phu,
Nước non luống dậy cơ đồ có phen.

Điều nói trên và những sáng tác của Phan Bội Châu, như "Chơi xuân" (hát nói), "Vợ khuyên chồng" (hát dặm), "Khuyên chồng xuất dương du học" (hát dặm, bài 1 và 2), "Kể chuyện năm châu" (hát dặm), cùng với "Lưu Cầu huyết lệ tân thư", "Hải hồ khoan", "Tự ngữ", "Đông du kí chư đồng chí" cho thấy sự thống hợp ấy.

Sau khi xuất dương, quan niệm văn học chính thống ở Phan Bội Châu rạn nứt mạnh mẽ. Đọc những câu như thế này trong Tân Việt Nam:

"Cái nọc độc chuyên chế của bọn người hại dân ấp ủ đã hàng ngàn năm nay từ bên Thanh Quốc [Trung Quốc] lây sang nước ta, đến nỗi một tên độc phu [vua] và vài vạn kẻ dung nhân [quan] làm cá làm thịt trăm họ dân ta. Thế mà dân ta ngu ngốc, khờ dại, không biết giành dân quyền, giữ quốc mệnh, chỉ ngày đêm hết lòng hết sức đem máu mỡ của mình cung đốn cho bọn độc phu, dung nhân uống nuốt! Than ôi, thật đáng thương thay!

Sau khi đã duy tân rồi, thì dân trí sẽ mở mang, dân khí sẽ lớn mạnh, dân quyền sẽ phát đạt; vận mệnh nước ta tất do dân ta nắm giữ" [19]

Bạn đọc có thể nghĩ: Phan Bội Châu đã phủ định những nguyên tắc của quan niệm văn học chính thống thời trung đại.

Đọc tôn chỉ của Việt Nam Quang phục Hội và Việt Nam Quang phục Quân - quân đội của đảng cách mạng:

"Bản quân dĩ khu Pháp tặc, phục Việt Nam, lập Cộng hoà dân quốc vi tông chỉ.
Bản quân hữu nhị vấn đề:
Nhất viết khu trừ dị tộc, khôi phục quốc quyền.
Nhị viết đoạn chuyên chế chi tố căn, lập hoàn thiện chi chính thể" [20]

("Tôn chỉ của bản quân [Việt Nam quan phục quân] là đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục Việt Nam, thành lập nước Cộng hoà dân quốc.
Bản quân có hai vấn đề:
Một là, khu trừ dị tộc, khôi phục quốc quyền.
Hai là, phá bỏ tận gốc nền chuyên chế, lập nên một chính thể hoàn thiện") [21]

Độc giả càng nghĩ rằng Phan Bội Châu đã hoàn toàn phủ định quan niệm văn học chính thống đã từng điều hướng ngòi bút của ông trong nửa đời người. Tuy nhiên, những điều như vậy chỉ làm nhà nghiên cứu thấy rõ quan niệm văn học ở Phan Bội Châu đã biến dạng sát sao như thế nào theo sự thay đổi thủ đoạn chính trị của ông trên con đường cách mạng hướng tới mục tiêu bất di bất dịch [22] : đánh đuổi Pháp, khôi phục Việt Nam.

Đầu năm 1917, Phan Bội Châu ra khỏi nhà tù của bọn quân phiệt Quảng Đông; lúc này Việt Nam quang phục hội do ông tổ chức và lãnh đạo trong thực tế đã tan rã. Phan Bội Châu phải "bán văn" để sinh nhai: viết bài cho Đông Á tân văn ở Bắc Kinh và cho Binh sự tạp chí ở Hàng Châu. Và từ năm 1922, trong ba năm bốn tháng, ông làm biên tập viên cho Binh sự tạp chí ở Hàng Châu. "Từ đó về sau, chốn này thành một cái tiệm tôi bán chữ" [23] . Trên tạp chí này, Phan Bội Châu viết đủ loại văn phẩm: thời bình [bình luận thời sự], xã luận, tiểu thuyết. Làm công việc đó, Phan Bội Châu "cố phát huy cho hết tinh thần thế giới cách mệnh mà những văn chương thuộc về chửi mắng đế quốc thực dân, về quân sự phạm vi càng sướng miệng nói lắm" [24] . Viết báo, viết tiểu thuyết in trên báo, Phan Bội Châu không thể không chú ý đến tôn chỉ của báo và thị hiếu của độc giả, nhưng những trứ tác của ông không xa rời mục tiêu cách mạng của đời ông, không xa rời những trào lưu cách mạng lúc bấy giờ ở châu Á và trên thế giới. Bạn đọc lại thấy sự biến dạng trong quan niệm văn học của Phan Bội Châu.

Từ khi Phan Bội Châu bị Pháp bắt cóc ở Thượng Hải, 1925, cho đến khi ông qua đời tại Huế, 1940, trong mười lăm năm cuối cùng của cuộc đời mình, ngòi bút của Phan Bội Châu vẫn không ngừng trứ tác và những trứ tác của ông vẫn gắn bó với mục tiêu đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục độc lập của Việt Nam, nhưng đồng thời nhà chí sĩ yêu nước này đã chú ý nhiều hơn đến thị hiếu thẩm mỹ của độc giả, theo dõi văn học đất nước đang hiện đại hoá… Một lần nữa, bạn đọc lại nhận ra sự biến dạng của quan niệm văn học nơi Phan Bội Châu ở thời điểm ông viết những câu thơ đau buồn:

Cố đôi xác thịt, đôi không đặng,
Toan vớt đồng bào, vớt chẳng xong

Và những câu thơ chuyển giao thế hệ trong cuộc đấu tranh chống Pháp, phục quốc:

Đông xuân mưa nắng trời xanh tốt,
Nam Bắc non sông đất hữu linh.
Gắng mãi anh em này gắng mãi
Nhờ anh em chuộc nợ ba sinh. [25]

Quan niệm văn học chính thống của Nho gia là quan niệm văn học của Phan Bội Châu. Quan niệm văn học ấy đã nhiều lần biến dạng theo những thủ đoạn đấu tranh cách mạng của Phan Bội Châu, trong khi mục tiêu cách mạng của ông luôn bất di bất dịch - đánh đuổi Pháp, khôi phục độc lập của Việt Nam. "Ông già Bến Ngự" mang đến sự biến dạng cuối cùng của quan niệm văn học ấy và thế là con người cho rằng những suy nghĩ và hành động phải theo sự hướng đạo của "thời, trung và quyền" trở về trọn vẹn với quan niệm văn học của Nho gia: "[…] Khổng tử vì sao có lục kinh? Mạnh Kha vì sao có thất thiên?" "Nói cho đúng thì sự nghiệp chỉ có mấy câu nói mà thôi. Mấy câu nói ấy khi nín ở trong lòng thì bảo rằng tâm, khi phát ra ở miệng thì bảo rằng ngôn, ngôn không thể hết được thì viết ra làm chữ, đã viết ra làm chữ mới thành ra văn chương, văn chương chỉ là ngôn, mà ngôn lại gốc ở tâm, vì trong lòng có nghĩ ra đường nào, thì miệng và bút mới phun nhã ra đường ấy". [26] Phan Bội Châu dẫn Dịch kinh: "Xuất kỳ ngôn thiện tắc thiên lý chi ngoại ứng chi, xuất kỳ ngôn bất thiện tắc thiên lý chi ngoại vi chi." Nghĩa là "Thở ra một câu nói mà tốt lành thì tức khắc người ta ở ngoài nghìn dặm ứng theo ngay, thở ra một câu nói mà không lành thì tức khắc ở ngoài nghìn dặm chống cự lại ngay." "Vẫn có thế thật, chỉ một lời nói mà ảnh hưởng rất xa, huống chi lời nói đã thành ra văn chương thì có lẽ nào tuyệt vô ảnh hưởng." "Văn chương quan thế đạo thịnh suy." [27]


Ngôn từ văn chương Phan Bội Châu

Tội Tần thiên cổ thuyết khanh nho,
Ngã thuyết Tần khanh danh lợi đồ.

Hai câu thơ ấy trong bài "Tần hoàng khanh nho" có thể coi là cái bản lề phân biệt văn chương của các nhà nho chính thống thời trung đại với văn chương Phan Bội Châu. Văn chương của ông đã táo bạo vượt thoát ra khỏi sự nhào nặn con người và cầm tù con người mà hình thái ý thức xã hội theo Nho giáo, trạng thái ý thức con người theo Nho giáo và cơ chế quyền lực theo Nho giáo tạo ra hết sức nặng nề ở những năm giáp ranh ở hai thế kỷ XIX và XX ở Việt Nam. Phan Bội Châu cảm nhận hết sức sâu sắc sự nặng nề đó. [28]

Bài thơ chữ Hán "Tần hoàng khanh nho" và bài hát nói quốc âm "Chơi xuân" cho thấy sự vượt thoát đó:

Quân bất kiến Nam, Xuân tự cổ đa danh sĩ,
Đã chơi xuân đừng quản nghĩ chi chi:
Khi ngâm nga xáo trộn cổ kim đi,
Tùa tám cõi ném về trong một túi.
Thơ rằng:
Nước non Hồng Lạc còn đây mãi,
Mặt mũi anh hùng há chịu ri.
Giang sơn còn tô vẽ mặt nam nhi,
Sinh thời thế phải xoay nên thời thế,
Phùng xuân hội, may ra ừ cũng dễ,
Nắm địa cầu vừa một tí con con!
Đạp toang hai cánh càn khôn,
Đem xuân về lại trong non nước nhà!
Hai vai gánh vác sơn hà,
Đã chơi, chơi nốt, ố chà chà xuân!

Sự vượt thoát đó thể hiện ngay trong thể văn sở trường của Phan Bội Châu: phú chữ Hán "Bái thạch vi huynh". [29]

Cái hùng tráng trong ngôn từ của văn chương Phan Bội Châu là sự khác biệt đầu tiên giữa những sáng tác của ông (và của các nhà nho yêu nước, duy tân) với thứ văn chương bi luỵ cùng thời.

Cái mới quan trọng nhất phân biệt ngôn từ trong văn chương Phan Bội Châu với ngôn từ trong văn chương các nhà nho lớp trước là ảnh hưởng của tư tưởng tân thư, tân văn và cả những tư tưởng tiên tiến của thời đại đã ùa tràn vào và ghi dấu ấn trong sáng tác của ông khi Phan Bội Châu ở trong nước, lúc Phan Bội Châu hoạt động cách mạng ở nước ngoài (và ngay cả khi Phan Bội Châu đã là "ông già Bến Ngự").

Khởi từ "Bái thạch vi huynh phú", văn chương của Phan Bội Châu đã là văn chương tuyên truyền, cổ động cho sự nghiệp cứu nước, phục quốc. Kể từ lúc gặp Lương Khải Siêu và được Lương Khải Siêu khuyên, Phan Bội Châu ý thức sâu sắc về điều này. Ông viết: "Hãy lấy lưỡi để thay cho gươm dáo, lấy bút để thay cho sấm sét, trình bày phải trái, chỉ rõ hoạ phúc, nếu có do nghị luận mà sinh ra tai vạ lao tù, nhưng lại giúp cho lòng người nước ta phấn chấn, chủng tộc nước ta do đó mà tồn tại được, thì dù có phải hy sinh thân ta, ta cũng chẳng quản gì" [30] . Cũng chính Phan Bội Châu đã viết:

Mõ chuông là cái lưỡi đây,
Lôi đình đầu ngọn bút này nổi lên. [31]

Thơ văn tuyên truyền cổ động của Phan Bội Châu vừa hùng tráng, vừa đau đớn, thống thiết, khiến người đọc, người nghe thơ văn ấy vừa phấn chấn, tin tưởng, lại vừa thấy tủi thẹn, nhục nhã của kẻ vong quốc nô, muốn hành động để thay đổi số phận của mình và của đất nước.

Phan Bội Châu muốn thơ văn như thế phải đến với mọi người Việt Nam. Ông biết rõ thơ văn như thế không thể đến trực tiếp với người bình dân chiếm đại bộ phận cư dân Việt Nam. Phan Bội Châu chỉ rõ nguyên nhân: "Các tệ đoan làm cho đất nước ta bại vong thì có rất nhiều, chưa thể kể ra rõ ràng hết mọi thứ. Nhưng có một thứ tệ đoan lớn nhất bao trùm lên tất cả là: vua không biết có dân, dân không biết có nước. Chỉ thế thôi. Còn nguyên nhân vì sao lại như thế, thì chính là do việc giáo dục của nước nhà không được phổ cập đến tầng lớp bình dân. Hãy lấy vấn đề văn tự mà nói thì đủ rõ: khoa cử chuyên dùng chữ Hán, trường học chuyên dạy Hán văn; con số những người lính và những người dân thường biết chữ thì muôn người chỉ có một, hai, cho nên có tình hình là các chiếu mệnh vua ban bố ra, các văn trát buộc phải thi hành, thì người bình dân nhìn vào đó y như người mù mắt. Dân muốn trên gia ân cho cũng không được xét, muốn trên thấu đáo cho dân tình cũng không thể đệ đạt. Thực tế đó thật đau lòng. Vậy xin từ nay, chế độ khoa cử cũ nhất thiết bãi bỏ, cốt sao cho thật hợp thời nghi." [32]

Tuy nhiên, khi ở trong nước và lúc hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Phan Bội Châu thường trứ tác bằng chữ Hán. [33]

Là một nhà nho trong nửa đời người dùi mài văn cử tử, Phan Bội Châu sử dụng chữ Hán mới thổ lộ hết mọi điều chất chứa trong lòng. Hoạt động cách mạng? Nước ngoài, tuyên truyền, vận động các nước "đồng bệnh tương liên" hiểu và ủng hộ sự nghiệp cứu nước, phục quốc của Việt Nam, Phan Bội Châu chỉ có thể dùng chữ Hán, vì ông không biết tiếng Nhật Bản và bất kỳ một thứ tiếng châu Âu nào. [34] Phan Bội Châu viết văn bằng chữ Hán (văn ngôn pha văn bạch thoại) mới in được trên các báo ở Trung Quốc (từ 1917 đến 1925, sau khi ra tù ở Quảng Đông và trước lúc bị thực dân Pháp bắt cóc đưa về Hà Nội). Hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Phan Bội Châu viết thơ văn tuyên truyền, cổ động gửi về trong nước. Từ trong sâu thẳm của tâm hồn Phan Bội Châu, đó là niềm tin, là sự gửi gắm của ông trước hết dành cho các nhà nho.

"Ôi! Đọc sách sáng lẽ chỉ có kẻ sĩ, tư tưởng lớn lao chỉ có kẻ sĩ, gánh nặng đường xa chỉ có kẻ sĩ. Các anh em hãy đọc rộng những sách liệt truyện vĩ nhân mới Âu, Á như các ông Ái Tô Sĩ, Lư Thoa, Cát Điền Tùng Âm, Đại Oa Trọng Tín, v.v…, đổi mới để tạo ra thời thế, lẽ nào không phải là sức của kẻ sĩ? Anh em ôi! Anh em ôi! Nếu anh em ra sức làm thì cũng như các người ấy thôi." [35]

Quyết vùng dậy ra ta tả đản,
Đứng đầu tên có bạn nhà nho.
Người trong thì hộ công phu,
Thừa cơ diễn thuyết nói cho rõ ràng:
Nhà với nước đôi đường quan hệ,
Người cùng loài một thể tương thân,
Tính đường hoạ phúc xa gần,
Công tư đôi lẽ khuyên răn hết lời. [36]

Phan Bội Châu tin tưởng những trứ tác của ông thông qua những nhà nho như thế ở trong nước sẽ đến được với mọi người dân Việt Nam. [37]

Năm 1925, Phan Bội Châu bị Pháp lừa bắt ở Thượng Hải, bị đưa về nhà lao Hoả Lò, Hà Nội. Từ cái nơi gây cho ông ý nghĩ "chắc chết", vang lên giọng nói hào hùng của nhà chí sĩ:

Sinh bất năng trừ thiên hạ loạn, tử bất năng tuyết ý trung cừu, thử hận du du, Lam thuỷ Hồng sơn thiên cổ tại;
Tiền hồ thử hí cục tương chung, hậu hồ thử vũ đài chính trúc, bức nhân đốt đốt, Âu phong Á vũ bát phương lai!

(Sống không trừ được lo thiên hạ, chết không rửa được thù ý trung, mối hận giằng dai, sông Cả núi Hồng muôn thuở đó;
Hí cuộc trước đã sắp đến tàn, vũ đài sau chính đương sắp dựng, thúc người sôi sục, gió Âu mưa Á tám phương lai!) [38]

Thất bại chí thị da, ba đào tân khổ biến thiên nhai hải giác nhị thập dư niên, nhất sự cánh vô thành, quyên huyết sơn hà vân cộng bích;
Tinh thần y nhiên hĩ, bút mặc tung hoành, tịnh Á kiệt Âu anh vạn thiên lý ngoại, tái sinh như hữu hạnh, nhân quyền thế giới nhật phương hồng.

(Thất bại thế này ư? Đắng cay sóng gió, khắp chân trời góc bể hơn hai mươi năm, một việc cũng không thành, máu quốc non sông mây nhuộm biếc;
Tinh thần vẫn thế mãi, bút mực vẫy vùng, cùng kẻ Á người Âu, ngoài ngàn muôn dặm, nếu may còn sống lại, nhân quyền thế giới vẽ tô hồng). [39]

Đây đâu phải là lần cuối cùng văn chương Phan Bội Châu được thể hiện bằng ngôn ngữ Hán - Việt, ký tự bằng chữ Hán. Nhưng từ ngày trở thành "ông già Bến Ngự", Phan Bội Châu sẽ cố gắng trứ tác văn chương bằng quốc âm, rất ít làm thơ, viết văn bằng chữ Hán. Viết Phan Bội Châu niên biểu bằng chữ Hán, Phan Bội Châu đã tự dịch ra tiếng Việt.

Trứ tác văn chương bằng quốc âm và văn chương ấy in trên báo, trong sách thì thơ văn tuyên truyền, cổ động cứu nước, phục quốc của Phan Bội Châu mới đến được với đông đảo đồng bào của ông. Từ năm 1936, Phan Bội Châu sáng tác một loạt bài “thơ bình dân”. Đó là một nỗ lực phi thường, nếu không nói là sự hy sinh lớn lao của ông cho việc tuyên truyền, cổ động cứu nước, phục quốc.

Tuyên truyền, cổ động cứu nước, phục quốc, Phan Bội Châu không ngần ngại gạt sang một bên hứng thú sáng tác bằng ngôn ngữ Hán - Việt, ký tự bằng chữ Hán, bởi ông nhận thức rất rõ: “Người ta bây giờ đương cần có sách học. Học sách Tàu ư? Thời Hán văn đã không thích dụng ở đời nay. Học sách Tây ư? Thời Pháp văn còn chưa mấy người được thông hiểu.

Lấy người mình đọc tiếng mình, thời sách nước mình ở lúc bây giờ không gì hơn bằng văn quốc ngữ.” [40]

Phan Bội Châu đã tận dụng cơ hội đó để đem cái chí cứu nước, phục quốc của mình đến với quốc dân bằng gần 700 bài thơ và nhiều trứ tác bằng văn xuôi in trên các báo và sách bằng quốc ngữ.

“Ông già Bến Ngự” viết thơ, văn bằng quốc ngữ không thể sánh được với Phan Bội Châu viết văn bằng Hán văn [41] . Không viết văn chương bằng Hán văn, viết thơ, văn bằng quốc ngữ, Phan Bội Châu đã muốn biến cái sở đoản thành cái sở trường. Ông đã gặp không ít khó khăn khi làm như vậy [42] . Ở đây cần phải thấy rằng: có những lúc Phan Bội Châu kiên quyết sử dụng Hán văn chen vào giữa văn quốc ngữ như một quan niệm lâu đời về mối quan hệ ngữ nghĩa nặng nhẹ giữa chữ Hán và chữ Nôm mà ông không thể bỏ qua được. [43]

Trong khoảng thời gian Phan Bội Châu làm “ông già Bến Ngự”, mặc dù ở trong hoàn cảnh “nào ngờ trăng gió nhốt ba gian” [44] , ông vẫn theo dõi văn học Việt Nam đang được xây dựng theo mô hình văn học hiện đại và có quan hệ với một số nhà thơ thuộc tầng lớp trí thức Tây học - chủ thể sáng tác của nền văn học này. Trong khoảng thời gian đó, 1925 - 1940, văn học do các nghệ sĩ ngôn từ thuộc tầng lớp trí thức Tây học xây dựng, tồn tại và phát triển chủ yếu ở đô thị tư sản hoá, từ chỗ chinh phục được trái tim của độc giả ở nửa cuối những năm 1920 đến chỗ đạt được những thành tựu trong những năm 1930. Không thể không nhận xét rằng: viết văn bằng quốc ngữ, Phan Bội Châu đã cố gắng “mô phỏng” những tiêu chí của văn học theo mô hình văn học hiện đại; nhưng, thật đáng tiếc, ông đã không thể hiểu đúng những tiêu chí ấy. [45]

Văn chương của các nhà nghệ sĩ ngôn từ thuộc trí thức Tây học có kích thích văn chương của “ông già Bến Ngự”. Các nghệ sĩ đó và “ông già Bến Ngự” đều sáng tác văn chương bằng tiếng Việt, nhưng ngôn từ (cours) [46] của “ông già Bến Ngự” và ngôn từ của các nghệ sĩ thuộc tầng lớp trí thức Tây học là khác nhau rõ rệt, như ngôn từ văn chương của các thời đại lịch sử khác nhau.

(còn 1 kì)

© 2008 talawas


[1]K. Marx và F. Engels, Tuyển tập (2 tập), tập I, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1970, tr. 34.
[2]Chế độ độc quyền phương Đông (absolutisme oriental, chữ của K. Marx chỉ chế độ chính trị-kinh tế-xã hội mà các nhà nghiên cứu lịch sử nước ta gọi là chế độ phong kiến).
[3]Phan Bội Châu toàn tập (PBCTT), tập 9, Nxb. Thuận Hoá và Trung tâm văn hoá, ngôn ngữ Đông Tây, 2001, tr. 341-342.
[4]Võ Liêm Sơn trong "Chúc thọ cụ Sào Nam", viết: "Phan Bội Châu là người hào kiệt/ Mười năm xưa đọc hết thánh hiền", PBCTT, tập 1, tr. LXII.
[5]PBCTT, tập 9, tr. 551-552.
[6]PBCTT, tập 6, tr. 116-117.
[7]PBCTT, tập 6, tr. 112.
[8]PBCTT, taäp 6, tr. 113.
[9]PBCTT, tập 6, tr. 120.
[10]"Nam hải bô thần ca", PBCTT, tập 2, tr. 332.
[11]"Ngục trung thư", PBCTT, tập 6, tr. 24.
[12]"Tự hạ", PBCTT, tập 1, tr. 193: dịch; tr. 375: nguyên văn chữ Hán.
[13]"Hạ tiến sĩ Nguyễn Mai": "Tao tế diệc thiên sở vi, hạnh bất sinh Đường Ngu tam đại dĩ tiền, kim bảng thạch bi, tiện thị ngô nhân hi thế sự/ Học giới chí kim tối thịnh, thỉnh thí vấn Âu Á ngũ châu chi ngoại, hồng thiên đại bút, quả như ngã bối quyết khoa văn", PBCTT, tập 1, tr. 376.
"Mừng tiến sĩ Nguyễn Mai": "Nếu danh phận trời cho, may không sinh Đường Ngu, tam đại xưa kia, bảng vàng bia đá, bất quá người ta bày chuyện nhảm/ Việc học đến nay thịnh quá, xin hỏi thử Âu Á năm châu ngoài cõi, đâu như khoa cử lối mình đây" (Võ Oanh dịch), PBCTT, tập 1, tr. 195.
[14]PBCTT, tập 1, tr. 112. Nguyên văn: "Các các ái chủng ái quốc, vạn tử phó cừu", PBCTT, tập 1, tr. 342.
[15]PBCTT, tập 1, tr. 339.
[16]Nguyễn Văn Bách dịch, PBCTT, tập 1, tr. 148. Nguyên văn chữ Hán bài "Hải hồ khoan" ở tr. 365.
[17]Nguyễn Văn Bách dịch, PBCTT, tập 1, tr. 152-153. Nguyên văn chữ Hán bài "Tự ngữ" ở tr. 366.
[18]Xem PBCTT, tập 1, tr. 210.
[19]PBCTT, tập 2, tr. 179; nguyên văn chữ Hán ở tr. 438.
[20]PBCTT, tập 3, tr. 559.
[21]PBCTT, tập 3, tr. 367.
[22]"Một đời người định mưu, chỉ cốt hỏi ở mục đích, cầu lấy được năm phút cuối cùng [vấn mục đích, bất vấn thủ đoạn]. Đến như thủ đoạn, phương châm, tuy có lúc canh cải, mà cũng không kể.", PBCTT, tập 6, tr. 108.
[23]PBCTT, tập 6, tr. 254.
[24]PBCTT, tập 6, tr. 255.
[25]"Lời cảm tạ", PBCTT, tập 8, tr. 394.
[26]"Quan niệm của tôi đối với văn chương", PBCTT, tập 4, Nxb. Thuận Hoá, Huế, 1990, tr. 231.
[27]PBCTT, tập 4, Nxb. Thuận Hoá, Huế, 1990, tr. 232.
[28]Xem "Dư ngu sám", PBCTT, tập 6, Nxb. Thuận Hoá và Trung tâm văn hoá, ngôn ngữ Đông Tây, 2001, tr. 67-69.
[29]Năm 1898, sau khi bị phát hiện "hoài hiệp văn tự" và bị kết án "chung thân bất đắc ứng thí" trong kỳ thi hương năm Đinh Dậu (1897), Phan Bội Châu vào Huế tìm nơi dạy học, nhưng cốt là để tiếp xúc với các bậc danh sĩ, các vị đại khoa đang giữ những chức vụ quan trọng ở kinh đô, nhằm "bắt mối đồng tâm". Hồi ở Nghệ An, đầu xứ Phan Văn San từng nghe tiếng Nguyễn Thượng Hiền, đậu hoàng giáp năm 25 tuổi, có chí lớn, lúc đó chưa chịu ra làm quan. Phan Bội Châu nóng lòng muốn gặp con người tài cao, chí lớn này. Cơ hội đã đến. Nhà Phan Bội Châu ngồi dạy học là nhà ông thân sinh Võ Bá Hạp ở An Hoà - nơi thường có các văn nhân, các quan trong triều lui tới. Một hôm, trường Quốc tử giám ra cho Giám sinh một bài phú với đầu đề "Bái thạch vi huynh". Phan Bội Châu không phải là cử nhân học ở trường Quốc tử giám, nhưng cũng làm bài và nhờ Đặng Nguyên Cẩn nộp cho tế tửu Khiếu Năng Tĩnh chấm. Bài phú của Phan Bội Châu đã gây chấn động mạnh mẽ trong giới khoa bảng ở Huế và có tác dụng tập hợp các nhà nho yêu nước trẻ tuổi lúc bấy giờ.
Đề bài "Bái thạch vi huynh" dựa vào điển tích: Mễ Phái (tức Mễ Nguyên Chương) thích đá lạ; khi làm quan ở Nhu Tu, nghe nói có đá lạ ở bên sông, ông bèn sai thuộc hạ đem về lỵ sở, trải chiếu lạy và nói: "Tôi mong gặp Thạch huynh đã hai mươi năm nay rồi!" Nội dung đề tài thật điển hình cho văn chương cử tử - thứ văn chương nặng mùi đạo học. Người làm bài phải mô tả, giải thích việc người vái đá. Có thể có nhiều cách mô tả, giải thích: đá đi với suối là nơi vắng vẻ, thích hợp với cảnh yên tĩnh, nhàn tản; đi với tùng là những vật biểu tượng cho khí tiết cứng cỏi; đá là vật vô tình - hình tượng quen thuộc của đạo sĩ xuất thế. Phan Bội Châu chọn một hướng khác: nhân nói đá mà đề cập chuyện Nữ Oa đội đá vá trời, Tinh Vệ ngậm đá lấp biển để báo thù, lập sự nghiệp vĩ đại. Để đạt được điều đó, Phan Bội Châu phải mô tả, giải thích đá sao cho việc Mễ Phái vái đá làm anh liên quan đến chí vá trời, lấp biển - điều không có trong điển tích Mễ Nguyên Chương thích đá lạ.
Phan Bội Châu đã dùng được rất nhiều chữ nghĩa, điển tích thật đắt, bám sát từng chữ bái, thạch, huynh, đã mô tả phẩm chất siêu phàm của đá, thể hiện cảnh đi gặp đá, cảnh vái đá làm anh, nỗi vui mừng anh em quấn quýt, sự tương đắc của đôi bạn tri kỷ đá và người. Phan Bội Châu đã viết "Bái thạch vi huynh" bằng lời văn mĩ lệ, bằng bút pháp khoa trương, bằng âm điệu hùng tráng đặc biệt của thể phú. Nó thoả mãn mọi tiêu chí của văn chương trường ốc để tác giả của "Bái thạch vi huynh" nổi tiếng là "người hay chữ nhất nước" như dư luận lúc bấy giờ ca tụng Phan Bội Châu. Ngày nay, quen với những tiêu chí thi pháp và thẩm mĩ mới, chúng ta khó cảm thông với cái kĩ xảo, gò gẫm chữ nghĩa, điển tích để thưởng thức cái hay của bài phú này, nhưng vào thời điểm bài phú ra đời và sau đó một thời gian nữa, người ta rất quen thuộc với những cái được thể hiện trong "Bái thạch vi huynh", thì nó quả là một bàn tiệc thịnh soạn của ngôn từ. Vào thời đại người ta còn tin văn tức là người [văn như kỳ nhân], còn tìm trong văn chương khẩu khí của người viết, bài phú "Bái thạch vi huynh" còn gây ảnh hưởng lớn ở một mặt khác.
Mô tả hòn đá để cho nó thành người (khả nhân), Phan Bội Châu viết:

Thạch vi chi vật; nguy nguy ngật ngật.
Thái thượng nhân chi vong tình; đại trượng phu chi bất khuất.
Kình thiên tác trụ, tiêu vạn cổ chi cương thường;
Trịch địa thành thanh, hưởng lưỡng gian chi văn bút.

(Đá là một vật; cao cao ngất ngất.
Bậc thái thượng vong tình; đấng trượng phu bất khuất.
Chống trời làm trụ, cương thường nêu suốt ngàn xưa;
Ném đất thành âm, văn bút vang lừng trời đất.)

Đây là một nhân vật cứng cỏi, hiên ngang, bất khuất vào cỡ người thái thượng nhân, đại trượng phu. Con người phi thường như thế nên Phan Bội Châu cũng phải dùng những đơn vị phi thường về không gian, thời gian để hình dung nó:

Thỉnh xai bá thị chi cư, ngũ bách niên tiền hà xứ;
Hợp tự trường quân chi xỉ, thập nhị hội nhi vi nguyên.

(Đoán xem bá thị ngày xưa, năm trăm năm đâu là quê quán;
Tính lại "trường quân" bao tuổi, mười hai hội ấy là một nguyên).

Đây là hình ảnh một người hào kiệt phi thường mà mọi người lúc bấy giờ đang mong ước, chờ đợi. Giữa cái cảnh thực tế mọi người đang hoang mang, sống tủi nhục trước áp lực, sự o ép của địch, người ta cần đến người anh hùng, thèm khát cái kiên cường, bất khuất. Trước âm hưởng thê lương của thơ hoài cổ, người ta muốn nghe một giọng hùng tráng. Hình ảnh con người "đã bao năm không uốn gối" (nhược can niên bất khuất tất), "thẳng vách trông cao muôn nhẫn" (bích lập chi nham nhan vạn nhẫn) đáp ứng đòi hỏi đó. Con người phi thường ấy lại "há rằng không thể khom lưng" (khởi chiết yêu nhi bất năng), dù là khom lưng trước một vật rất nhỏ. Trước "cốt cách rắn rỏi" (tằng lăng chi ngạo cốt), "phong tư kì lạ" (lỗi lạc chi kì tư), con người phi thường ấy tỏ ra biết người biết ta. Ấy cũng là điều mọi người mong mỏi, chờ đợi, sau khi đã thấy hoặc nghe về sự thất bại của con người văn nhược như vua tôi Tự Đức và cả các văn thân, của con người cứng cỏi, vũ phu như Tôn Thất Thuyết, Hoàng Kế Viêm. Con người anh hùng đáp ứng được đòi hỏi của thời thế phải là người anh hùng thư kiếm, biết cứng lại biết mềm, vừa dũng cảm vừa cơ trí.
"Bái thạch vi huynh" đã đưa lại một mẫu người anh hùng như vậy. Đó chính là sự giải đáp cho tâm sự "tướng môn những thẹn với anh hùng" của con người trung nghĩa, thánh hiền. Giữa cái cảnh tan tác, rã rời, bước ra khỏi nhà là thấy chuyện nhục nhã, hèn hạ, tráo trở, phản bội, thì sự đi lại, gặp gỡ những người "sương là lông, ngọc là tuỷ" (sương vi mao, ngọc vi tuỷ), "tuyết là phách, băng là hồn" (tuyết vi phách, băng vi hồn) thật là đáng ao ước. Trong tình trạng bị tù túng, bị o ép bởi địch, thì cuộc sống tự do, phóng khoáng thật có sức hấp dẫn. Cho nên người ta say mê theo dõi cuộc đi chơi núi để tìm bạn:

Nguyệt lạc Thương giang; vân đôi Hoàng thạch.
[…] Tình lam phỏng; viễn trục đăng.
Nhan sạ tiếp; thần hốt ngưng.
Nham yêu tùng nhi tiệm khẩn; sơn kiên túng nhi vi lăng.
Trịch thượng thanh trung, hưởng minh tuyền chi vạn điệp;
Chỉnh y lập xứ, phi túc chướng chi thiên tằng.

(Trăng xuống Thương giang; mây dồn Hoàng thạch.
[…] Gặp buổi quang tạnh, lên núi tung tăng.
Dung nhan vừa tiếp xúc, tinh thần bỗng bâng khuâng.
Sườn non rậm rì bờ bụi; vai núi nổi thành kì lăng.
Vứt gậy tiếng vang, suối dội kêu lên muôn lớp;
Mặc áo ngồi lại, gạt tan chướng khí ngàn tầng).

Người ta say mê chia sẻ với Mễ Nguyên Chương cái vui được gặp người tri kỉ. Tuy mới gặp, hai bên đã rất thân thiết, ý hợp tâm đầu:

Vãn tụ huề quy; bán song bồi toạ.
Đông Hải thổ thôn; Bồng Lai hữu tả.
Thác tân hoa chi ngũ sắc, khả nhân khả nhân.
Uẩn mĩ phác chi liên thành, loại ngã loại ngã.

(Kéo áo dìu về; trước cửa bồi toạ.
Đông Hải ra vào; Bồng Lai hữu tả.
Hoa mới màu năm sắc, người khá khá ghê.
Ngọc lành đáng giá liên thành, giống ta giống quá).

Cái vui mừng, quấn quýt của hai anh em lây sang mọi người sự tin cậy, đầm ấm.
Bài phú chỉ ra một cái gì lớn lao, đẹp đẽ, lí tưởng, đáng mơ ước, có sức an ủi, có sức lôi cuốn, có sức làm say mê. Người nghe cảm thấy an tâm, tin tưởng, phấn chấn, muốn sống một cuộc sống xứng đáng. Âm điệu hùng tráng của nó xua tan không khí bi luỵ của văn chương lúc đó, gây ra ở người đọc, người nghe ấn tượng về sự xuất hiện một cột đá chống trời vững chãi, thách thức.
Phan Bội Châu viết bài phú với mục đích tự giới thiệu, mà cũng với mục đích ướm hỏi, tìm bạn đồng tâm. Phan Bội Châu viết:

Nại hữu: khâm thương vũ, ngạo hồng trần.
Đãng hung tắc bát cửu Vân Mộng;
Kết lư ư vạn hác tùng quân.

(Nay có kẻ dọc ngang vũ trụ, chế nhạo hồng trần.
Rửa bụng bằng tám chín đầm Vân Mộng;
Làm nhà dưới muôn hác tùng quân).

Người đó ca tụng hòn đá, ca tụng hành động vái đá là vì bản thân "có lòng ba sinh lấp biển" (tam sinh điền hải chi tư), "có sức một mình vá trời" (nhất phiến bổ thiên chi lực) và đã gặp ở đây một người đồng loại.

Bài phú vận hạn: "Thạch bất năng ngôn tín khả nhân". Phan Bội Châu bỏ vần "nhân" không viết. "Nhân" là người. Bỏ vần "nhân" là muốn nói không có người, thiếu người. Làm bài phú, Phan Bội Châu có ý muốn khêu gợi, dò hỏi thái độ của các nhà khoa bảng lúc ấy, nhất là dò hỏi thái độ của Nguyễn Thượng Hiền - nhà khoa bảng trẻ tuổi có tiếng tăm, nếu tham gia cứu nước thì sẽ có ảnh hưởng rất lớn. Nguyễn Thượng Hiền lúc ấy mới đỗ hoàng giáp, đang ở Huế, thoái thác không chịu ra làm quan, vừa giao du với những người có tâm huyết vừa say mê Đạo giáo, Phật giáo… Phan Bội Châu viết:

Vị thừa nguyệt nhi cứ hổ báo, Xích Bích thuyền đầu;
Thả lâm phong nhi ấp thần tiên, Cốc Thành sơn hạ.

(Chưa có trăng để cưỡi beo cọp, đầu thuyền Xích Bích rong chơi;
Hãy đón gió mà vái thần tiên, dưới núi Cốc Thành nấn ná.)

Tô Đông Pha say mê "kho gió trăng vô tận" mà tìm đến ghềnh đá bên bờ sông Xích Bích; Trương Lương nuôi chí khôi phục nước Hàn cũng bí mật học đạo thuật của Hoàng Thạch công - thần đá. Cái bên ngoài chưa rõ ràng hay cái bên trong còn phân vân của Nguyễn Thượng Hiền được đánh một dấu hỏi.
Phan Bội Châu nhờ Đặng Nguyên Cẩn đưa bài phú cho Nguyễn Thượng Hiền. Đọc bài phú, Nguyễn Thượng Hiền trả lời bằng một bài thơ (xem bài thơ dịch ở PBCTT, tập 1, tr. 228). Nguyễn Thượng Hiền đã phải giải thích thái độ, làm sáng tỏ chỗ còn khó hiểu, tuyên bố học cái ngoan si của đá, làm Trương Lương bí mật chờ thời, chứ không làm Tô Đông Pha chơi trăng gió.
Đọc "Bái thạch vi huynh", tế tửu Quốc tử giám phê: "Tích trạng nguyên hữu "vô tâm" chi phú, kim quân hầu cánh mục hạ vô nhân, khả phát nhất tiếu" ("Xưa trạng nguyên có bài phú "vô tâm" [bỏ vần "tâm" để làm rõ cái ý không ước mong, không tính toán], nay quân hầu lại "mục hạ vô nhân" (dưới mắt không người) [khinh người đến thế ư?]), đáng bật cười!") Cả Khiếu Năng Tĩnh và Nguyễn Thượng Hiền đều tán thưởng bài phú; người thì can thiệp cho Phan Bội Châu đi thi lại, người thì "tôn Phan làm anh", đưa tân thư cho Phan Bội Châu đọc. Thế là Phan Bội Châu xếp mình sau người vái đá, Nguyễn Thượng Hiền xếp mình sau Phan Bội Châu và nhiều nhà nho khác xếp hàng sau Nguyễn Thượng Hiền. Vì bội phục tài văn chương, vì bội phục "cái khí lỗi lạc bay ra ở câu văn" (lời Nguyễn Thượng Hiền), những nhà nho như vậy đi theo Phan Bội Châu vào con đường cứu nước. Cái hùng tráng đã theo bài phú mà tập hợp những người bất khuất lại (xem Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng, Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 - 1930, tập 1, bản thảo 1974).
[30]"Đề tỉnh quốc dân hồn" (bản dịch), PBCTT, tập 2, tr. 351.
[31]"Gọi tỉnh hồn quốc dân", PBCTT, tập 2, tr. 345.
[32]"Phụng thảo từ tấu ngự tiền thư" ("Phụng thảo thư dâng vua Thành Thái"), PBCTT, tập 2, tr. 260.
[33]Khi ở trong nước và lúc hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Phan Bội Châu trứ tác một số bài thơ bằng quốc âm, ký tự bằng chữ Nôm; một số bài thơ vừa bằng âm Hán-Việt, ký tự bằng chữ Hán, vừa bằng quốc âm, ký tự bằng chữ Nôm. Người bình dân xem những trứ tác bằng chữ Hán hoặc bằng chữ Nôm đó thì, nói theo ngôn ngữ Phan Bội Châu, khác nào người mù.
[34]Phan Bội Châu rất khổ tâm vì nhược điểm này, đã hạn chế tầm hoạt động và cơ hội mở mang kiến văn của mình khi hoạt động cách mạng ở nước ngoài. Ông đã giãi bày tâm sự đó lúc mới sang Trung Quốc:
"Tôi đi đây vốn lấy tư cách là đại biểu của đảng cách mạng một nước mà đi, cũng tức là đại biểu cho toàn quốc dân một nước mà đi.
Nếu như tôi là người tài cao trí giỏi, học rộng biết nhiều về mặt ngoại ngữ, văn tự; chính trị, học thuật ngoại quốc cũng thông thuộc nằm lòng, như kẻ nhờ biết mỗi món đồ quý trong nhà họ kia, thế thì mình có mang cái hổ vong quốc mặc dầu, nhưng được điều không thẹn mình là giống người giỏi giang trên đời. Được vậy, chẳng phải đủ để làm vẻ vang cho dân nước ta ở xứ ngoài hay sao!
Tiếc thay! Người thứ nhất được đi ra ngoài cùng thế giới hội diện lại là người ngu dốt, quê mùa như tôi; tài đã không có tài, học cũng không nhằm học. Trừ ra ba câu chữ Hán chứa đầy trong bụng cũng như là không. Tấm thân đã là con người mất nước, tính mạng vốn không đủ gì trọng khinh, nhưng tài học cũng không đủ gì phẩm lượng, thật mình làm truỵ lạc mất cả giá trị quốc dân mình tới đâu mà nói cho xiết […]" ("Ngục trung thư", PBCTT, tập 6, tr. 28-29).
Và khi mới đặt chân lên nước Nhật Bản:
"Trung tuần tháng tư, Nhật - Nga chiến sự đã xong, mới có thuyền Nhật Bản đến Thượng Hải. Chúng tôi nhờ có ông lưu Nhật học sinh người Trung Quốc tên là Triệu Quang Phục, người tỉnh Hồ Nam, làm châm chỉ nam cho chúng tôi. Chúng tôi ngồi thuyền Nhật Bản đi Hoành Tân. Đến lúc đó mới phát minh một việc rất khốn nạn, tiếng Nhật đã không thông mà tiếng Tàu lại ú ớ, nói phô bằng bút, giao thiệp bằng tay, phiền luỵ không biết chừng nào! Ngoại giao mà như thế, thật đáng xấu hổ" ("Phan Bội Châu niên biểu", PBCTT, tập 6, tr. 141).
Không biết tiếng châu Âu, Phan Bội Châu đã bỏ qua cơ hội Đại sứ quán Nga ở Trung Quốc gợi ý ông viết một quyển sách bằng tiếng Anh tố cáo tội ác của Pháp và giới thiệu công cuộc cứu nước, phục quốc của Việt Nam, Đại sứ quán Nga sẽ in và phát hành.
[35]"Hoà lệ cống ngôn", PBCTT, tập 2, tr. 267.
[36]"Gọi tỉnh hồn quốc dân", PBCTT, tập 2, tr. 341.
[37]Sau này, Nguyễn Ái Quốc viết văn bằng tiếng Pháp, nội dung của những văn phẩm ấy của ông thông qua những trí thức Việt biết tiếng Pháp, giác ngộ cách mạng mà đến được với nhân dân ta.
[38]Tôn Quang Phiệt dịch, PBCTT, tập 8, tr. 563.
[39]Tôn Quang Phiệt dịch, PBCTT, tập 8, tr. 563 - 564.
[40]"Làm sách bằng văn quốc ngữ", PBCTT, tập 7, tr. 440.
[41]Một ví dụ: "Tập này [Phan Bội Châu niên biểu] Cụ viết nguyên văn chữ Hán, tự dịch ra quốc văn, tinh thần Hán văn mười phần thì bản quốc văn được độ 5 phần (vì Cụ không sở trường quốc văn và không có thì giờ mà chữa nên không được trơn) song chính ý thì không sai" ("Bài tựa của cụ Huỳnh Thúc Kháng", PBCTT, tập 6, tr. 105).
[42]Trong một bức thư rất ngắn gửi cho tờ báo ở Sài Gòn, Phan Bội Châu đã không viết: "Muốn người khác làm việc thiện, không có ai như tôi", mà ghi: "Nhân chi dục thiện, thuỳ như bất ngã", PBCTT, tập 7, tr. 427; không viết: "[…] kính chúc […] mạnh khoẻ", mà ghi: "[…] kính chúc […] kiện khang", PBCTT, tập 7, tr. 428.
[43]Trong "Lịch sử con Vá", Phan Bội Châu kể:
"Năm Giáp Tuất âm lịch (1934), ngày 21 tháng năm, con chó nhà tôi nuôi tên là Vá nhân mắc bệnh đầu ung về với nước chó.
Tôi thương nó. Tôi đắp mồ táng cho nó. Mồ cao rộng một thước tây, ở gần dưới chân sinh huyệt của tôi. Ở trên mồ, tôi trồng một cái bia ước một thước ta. Lòng bia khắc năm chữ rằng: "Nghĩa dũng cẩu chi trung" và có chua chữ quốc ngữ: "Con Vá" ở dưới chữ cẩu.
Tôi làm xong, có khách tới chơi. Khách rầy tôi rằng: "Một con chó chết mà ông làm gì lắm việc thế? Đã đắp mồ lại dựng bia khắc chữ, chẳng phải là quá đa sự hay sao? Hay là ông xem chó cũng như người? Nếu quả thế, tôi phải "tuyệt giao" với ông mới được."" (PBCTT, tập 7, tr. 379)
Phan Bội Châu sử dụng điển tích để giải thích vì sao ông khắc mấy chữ Hán ấy ở tấm bia trên mồ con Vá và, quan trọng hơn, Phan Bội Châu nêu những lời quy châm: "Giá như người tôi dân một nước, vừa dũng, vừa nghĩa, vừa khôn, thảy hết sức giữ nước, cũng in như con Vá giữ nhà, thời từ xưa đến nay làm gì có vong quốc sử nữa?" (tr. 381). Và, cũng nên suy nghĩ: cớ sao Phan Bội Châu viết Nguyễn Tiểu La tiên sinh truyện (1934) (Huỳnh Thúc Kháng dịch: Truyện cụ Tiểu La) bằng Hán văn (PBCTT, tập 7, tr. 355).
[44]"Từ giã bạn bè lần cuối cùng", PBCTT, tập 8, tr. 394.
[45]Phan Bội Châu viết "Tặng nữ sĩ Tương Phố":
Nặng nợ vì thơ mới trả xong,
Khi vui bút mực cũng mây rồng.
Tưởng ngờ rồi kiếp cùng trời đất,
Ai ngỡ còn duyên với núi sông.
Mở cửa gió vào xuân hoạ vận,
Cuốn mành trăng lọt bạn soi lòng.
Đàn Nha may gặp Chung Kì gái,
Muôn thuở Hồng Lam với Tản Hồng.
(1934, trên Văn học tuần san, tập 4)

Tương Phố hoạ lại:

Ngày tối đường dài việc chửa xong,
Biển Đông thôi đã vướng mây rồng!
Dạ hờn quên nghĩ năm cùng tháng,
Máu nóng còn sôi núi với sông.
Hạt lệ như sương ngầm khóc nước,
Con trào tựa ớt những cay lòng!
Anh hùng sá kể chi thành bại,
Vẫn nhớ cành Nam tổ Lạc Hồng.
(1935, trên Văn học tuần san, tập 4)

Phan Bội Châu viết “Tiễn nữ sĩ Tương Phố”:

Vừa bắt tay nhau đã rẽ tay,
Duyên thơ, nợ bút hãy giàu ngày.
Ai về nhắn với mây Tam Đảo,
Gió Bắc de Nam thổi nhạn bay.

Tương Phố hoạ lại:

Sông Hương ngơ ngẩn buổi chia tay,
Lời ước trùng lai khó hẹn ngày.
Hoài bão lớn lao xin chúc Cụ,
Cánh bằng muôn dặm lại cao bay.
(Bốn bài thơ trên in trong PBCTT, tập 8, tr. 300-301).

Phan Bội Châu hoạ thơ Hàn Mặc Tử:

Hàn Mặc tử viết “Chùa hoang”:

Chùa không sư tụng cảnh buồn teo,
Xác Phật còn đây, hồn Phật đâu?
Réo rắt cành thông thay mõ đánh,
Lập loè đom đóm thế đèn treo.
Hương sầu khói lạnh nằm ngơ ngác,
Vách chán đêm suông đứng dãi dầu.
Rứa cũng trơ gan cùng tuế nguyệt,
Trước thềm khắc khoải giọng quyên kêu.

Phan Bội Châu hoạ “Chùa hoang”:

Ba vạn giang sơn chút tẻo teo,
Ai dò bể Phật đến nguồn đâu.
Kệ thần mặc ý trong lòng niệm,
Đèn tuệ tha hồ trước gió khêu.
Bờ nọ thuyền đưa dòng họ tới,
Trời này mưa móc cỏ cây sầu.
Xưa nay Phật pháp vô biên lượng,
Muôn nước ngàn non một tiếng kêu.

Hàn Mặc tử viết “Gái ở chùa”:

Rừng thiền thấp thoáng gái quần thoa,
Khuê các mà ra đến nỗi à!
Cuộc thế chưa chi bằng hội chán,
Trò đời mới đó đã lo ra.
Lợt mùi son phấn say mùi đạo,
Chán cảnh phiền ba mến cảnh chùa.
Bà nguyệt trớ trêu lòng dạ thím,
Xuân xanh nỡ để thiệt thòi hoa.

Phan Bội Châu hoạ “Gái ở chùa”:

Bản lai không vết cậy gì thoa,
Há gặp đâu thì cũng thế a?
Một chữ đã đành thân quý trọng,
Trăm năm phải tính cuộc gần xa.
Tủi vì cái kiếp con không mẹ,
Hổ cũng như ai, sãi có chùa.
Khuya sớm hương tâm nguyền với Phật,
Ngành dương mưa tới vạn ngàn hoa.

Hàn Mặc tử viết “Thức khuya”. Phan Bội Châu hoạ lại:

Chợ lời trường danh tớ chẳng màng,
Sao ăn không ngọt, ngủ không an?
Trăm năm ngán đó tuồng dâu bể,
Muôn họ nhờ ai, kẻ thiếu chăn?
Cửa sấm gớm ghê, người đánh trống.
Tai trâu mỏi mệt, khách đưa đàn.
...
(Những bài thơ trên in trong PBCTT, tập 8, tr. 336-338).
Trong thư Phan Bội Châu viết năm 1932 gửi Hàn Mặc tử (tin trên Tin tức Sài Gòn số 9, ngày 24/2/1940) có đoạn: “Ôi! Hồn giao nghìn dặm, biết làm sao bắt tay nhau mà cười lớn một tiếng, mới là thoả hồn thơ đó.” (PBCTT, tập 7, tr. 456).
Nguyễn Vỹ, quê ở miền Bắc, năm 1936 sống ở Huế, có đến thăm Phan Bội Châu và được ông tặng bài thơ này:

Tặng Nguyễn Vỹ
Vừa tới đêm nay một bạn hiền,
Sông Hương lai láng một con thuyền.
Gió trăng khéo léo trời đưa khách,
Non nước tình cờ đất gán duyên.
Người chẳng kẻ Nam hay kẻ Bắc,
Tình không ai lạ với ai quen.
Hương Bình Nùng Nhị bao dâu bể,
Lịch sử nghìn năm há dễ quên?
(Hè 1936)

Nguyễn Vỹ “phụng hoạ”:

Hơn đọc nghìn đêm sách thánh hiền,
Một đêm với Cụ một con thuyền.
Trời mây trăng gió, dân đành phận?
Thành quách lâu đài, nước tủi duyên!
Chén rượu thừa lương, cười rớm lệ,
Câu thơ tâm phúc, lạ thành quen.
Nước non, non nước tình lai láng,
Một nét quan hoài chẳng dám quên.
(Tạp chí Phổ thông, Sài Gòn, số 11, ngày 15/5/1959)
(Hai bài thơ trên in ở PBCTT, tập 8, tr. 327).

Phan Bội Châu đã làm những bài thơ mà ông gọi là "lối thi từ mới". Ông viết:
"Thể thi từ cũng in như một thức đồ trần thiết, đồ trần thiết đã lâu ngày, thì dầu đẹp đẽ tốt tươi, mà người ta ngó ra cũng sinh chán mắt, thì dầu có hay đến đâu, cũng chẳng làm sao cho được công chúng hoan nghênh. Thể thi từ nước ta, từ xưa tới nay chỉ có ba thức. Một là, thức theo luật Đường, là ngũ ngôn, hoặc thất ngôn, năm chữ hay bảy chữ thành một câu thi, lại có âm luật bằng, trắc xen nhau, đó là một thức.
Một thức nữa, là thể theo văn "thượng lục hạ bát", như văn Truyện Thuý Kiều, hoặc là thất thất lục bát, như bài Thu dạ lữ hoài ngâm, mà người ta thường hay đọc.
Lại có một thức nữa là thể phú, câu dài câu ngắn xen nhau, mà phải có vần có đối, như bài Tế tiền quân tướng sĩ, với bài Tần cung oán, vân vân…
Như ba thứ trên kia, kể thể thơ luật Đường, thì học nhái người ta lâu ngày cũng chán, thể thượng lục hạ bát với thể thất thất lục bát, thì cơm lòn ăn mãi ngó cũng buồn mồm. Thể bài văn phú, như bài văn Tế cụ Phan Tây Hồ, và bài phú Ông Táo, thì chẳng phải giống thường bày ra trước mắt người ta, mà làm những thứ văn ấy thì tốn công phu quá.
Gần đây thấy có nhà cũng đã xướng ra điệu thi mới đăng ở các báo chí; nhưng theo ý tôi xem văn còn nhiều câu phải đẽo gọt dụng công, và toàn thiên vẫn chưa được quán thông nhất khí.
Bây giờ muốn cầu cho sáng lập cái thể thi từ mới, vừa người ta thích nghe dễ hiểu, vừa thành ra một thể tài thiên nhiên, chẳng phải Đường luật ngũ, thất ngôn, cũng chẳng phải thượng lục hạ bát, thất thất lục bát, cũng chẳng phải bài văn bài phú, mà thành một thể thi từ mới.
Tôi xin viết trước phỏng mấy bài như sau đây, để cống hiến với đồng bào, sẽ để đồng bào khuyên sổ, ai khuyên tôi cũng cảm ơn, ai sổ tôi càng cảm ơn lắm lắm."
Phan Bội Châu đã viết những bài theo "lối thi từ mới" :

Uống rượu dưới trăng
Dưới trăng ngồi một mình,
Một ve, một chén, một ông kềnh.
Bà con anh em không ai ở chung quanh.
Thấp thoàng nghe hơi gió, lung lay ở trên ngành.
Tưởng là có khách tới, té ra khách vắng tanh.
Ngấc mặt lên trời thấy một cô trăng.
Ướm hỏi cô trăng, có thích rượu hay chăng?
Cô làm thinh, chẳng nói chẳng rằng,
Ngó như hình tủm tỉm cười nhăn răng.
Thôi thôi, cô trăng, cô không thích hơi men.
Mời cô xem tôi uống, tôi chẳng khuyên tôi thêm quá phiền.
Ngó lại thấy bóng gọi bóng xơi.
Bóng theo miệng mình hớp một hơi.
Đồng tâm, đồng chí ơi bóng ơi.
Ta say, mày say, chẳng bao giờ rời.
Chốc lại trông trăng, trăng mỉm cười,
Mình với trăng, với bóng thành ba người.
Chén đầy chén vơi, chén đầy rồi lại chén vơi.
Mình dậy múa, bóng theo hoài,
Mình ngồi hát trăng nghe chơi.
Ba ngàn thế giới trọc,
Chín vạn phù giao khơi,
Ơng cứ be cứ chén, mặc sức lả lơi, tha hồ thảnh thơi.
Ai khen, ai chê, ai cười, ai vái, ai mặc ai.

Khóc hào phú
Ai lạ gì hào phú,
Ai chẳng lóc lẻm trầm trồ vì các ông hào phú.
Thiệt đau đớn cho các ông,
Mắt đã biết bao ngày xanh,
Máu đã biết bao ngấn đỏ,
Đứt tấm ruột, vì tham con diếc tiếc con rô,
Mệt cổ tay, vì buộc cổ mèo treo cổ chó.
Những ước ao, hang bạc ức muôn năm, núi đồng thiên vạn cổ.
Sổ nợ lời hàng trăm có, hàng ngàn có,
Ruộng bao mãi kiêm tính, chẳng kể đám to đám nhỏ.
Có nghề gì lạ; nghề rất hay là ích kỷ hại nhân,
Chẳng sợ gì đâu, sợ thứ nhất, là vi nhân bất phú.
Thây kệ ai, kêu đói kêu rét, kêu khốn cùng,
Ta cứ việc ôm vàng nằm ngủ.
Phú gia ông đang đủng đỉnh ngồi cười,
Ác quỷ sứ đã thình lình đâu đó,
Bất nghĩa bấy đám mây, vô tình kìa trận gió!
Cơ đồ ông đương ngan ngát um tùm, mà ông vội đi âm phủ.
Nợ ông đặt lời được bao nhiêu, sao tư bản ông đành bỏ ngỏ?
Ôi thôi, gương để đời sau, nghiệt dành con cháu!
Đen trắng một đống mồ, xanh vàng ba đám cỏ!
Thương ôi hào phú, thương ôi hào phú!

Khóc bạn trẻ
Bạn trẻ ta ơi! Bạn trẻ ta ơi!
Tiền đồ anh đương vô hạn, tuổi xanh anh chưa mấy mươi.
Mắt anh đương chói chói như sao mai,
Chân anh đương sộc sộc như ngựa trời,
Giá như anh gặp thầy gặp bạn đủ vế đủ vai,
Nhằm lối đường cho thuận bước,
Đúng khuôn khổ cho thành tài,
Chuốt bông hồng sẽ bay cao ngất,
Ngâm vảy rồng sẽ vượt mù khơi;
Thì có đâu rủi ro cái kiếp, ngắn ngủi cái đời.
Ai dè trúc vừa măng, hoa vừa nụ.
Điên cuồng kia gió thu mấy độ bỗng chốc nên trúc gãy hoa rơi!
Thảm hại cho ai, đau đớn cho ai!
Thiệt thòi thông minh một đời, oan uổng chí khí làm trai.
Hồn có tihêng xin trân trọng mấy lời,
Máu Đỗ Quyên, oan Tinh Vệ, bao giờ nguôi, bao giờ nguôi.
(Văn học tuần san số 2, ngày 1/10/1933)

Những lời và những bài thơ trên của Phan Bội Châu in trong PBCTT, tập 7, tr. 461-464.
[46]Vấn đề bản chất xã hội, thẩm mĩ của ngôn từ văn học "phải đợi đến M. Foucault nêu ra khái niệm discours thì mới hiện ra rõ rệt thêm một bước. Theo ông, nhược điểm lớn của F. de Saussure là qua sự đối lập ngôn ngữ (langue) và lời nói (parole), ông đã bỏ qua thành phần thứ ba là ngôn từ (discours). Và do ảnh hưởng to lớn của Saussure mà vấn đề ngôn từ để quên quá lâu. Trong các công trình Từ ngữ và đồ vật, Khảo cổ học tri thức, M. Foucault đưa ra khái niệm discours để phê phán chủ nghĩa cấu trúc ngôn ngữ học. Theo ông, "ngôn từ (discours) do kí hiệu tạo thành, nhưng điều nó làm được hơn nhiều sự biểu đạt, cái nhiều hơn đó không thể quy về ngôn ngữ và lời nói". Ý kiến của Foucault được nhiều người quan tâm. Tuy nhiên discours trong quan niệm của Foucault là một từ khó giải thích và khó dịch. Trong ngôn ngữ học, discours chỉ một đoạn lời truyền đạt một thông tin, cho nên thường dịch là "văn bản", "ngôn bản" hay "diễn ngôn". Nhưng khái niệm của F. Foucault có ý nghĩa đặc biệt, chỉ một hình thái, một kiểu lời nói do những yếu tố của đời sống xã hội, lịch sử quy định, có thể dịch thành "ngôn từ", để phân biệt với ngôn ngữ, với lời nói và với diễn ngôn của các nhà ngữ học.

Trước đây các nhà phê bình mới Anh, Mĩ cũng đã dùng thuật ngữ ngôn từ với nghĩa là loại hình ngôn từ, để phân biệt ngôn từ thơ, ngôn từ văn xuôi… nhưng Foucault nêu ra bình diện mới. Theo ông, đem văn học mà chỉ quy vào văn bản tất yếu sẽ tước bỏ mất các điều kiện đã hình thành và tạo thành văn bản, kết quả là gạt bỏ các nhân tố tạo nên ý nghĩa của văn bản. Ông phê phán chủ nghĩa cấu trúc đã cô lập văn bản để nhìn nó một cách tĩnh tại. Ông cho rằng sức mạnh kinh tế, chính trị, hình thái ý thức và cả chế độ văn hoá chi phối quá trình biểu đạt ý nghĩa của ngôn từ. Do đó, ngôn từ không phải là diễn ngôn trong ý nghĩa của ngôn ngữ học, mà là một hoạt động thực tiễn chủ yếu của con người. Ngôn từ là một hình thức biểu hiện ngôn ngữ của một quần thể người trong một điều kiện xã hội, lịch sử nhất định. Nó không có tác giả riêng biệt, mà chỉ là một kiểu lôgic tiềm tại, được cất giấu trong ý thức của quần thể, ngầm chi phối ngôn ngữ, tư tưởng, phương thức hành vi của mọi người trong quần thể. Đó là cái cơ chế ràng buộc, quy định mọi người nói chung trong các điều kiện xã hội, lịch sử được nói gì và nên nói như thế nào. Foucault nói: "Anh tưởng là anh đang nói, kỳ thực là lời nói đang nói về anh!"; "Một người không phải bất cứ lúc nào, ở đâu, muốn nói cái gì thì nói". Như vậy ngôn từ là hình thức biểu đạt của ngôn ngữ, chịu sự chi phối của một mô hình tư duy, một kiểu giải thích, một cơ chế ràng buộc nhất định.

Sự phân tích ngôn từ trong từng xã hội đã cho thấy cái lôgic nội tại, cái cơ chế thầm kín chi phối ngôn từ [discours], đó là hình thái ý thức xã hội, trạng thái tri thức của con người và cơ chế quyền lực trong xã hội. Ở đây, ngôn từ với các yếu tố nội tại kể trên có tác dụng nhào nặn con người và cầm tù con người mà văn học, nghệ thuật có sự mệnh giúp con người vượt thoát ra" (Trần Đình Sử, Bản chất xã hội, thẩm mĩ của ngôn từ văn học trong Lý luận và phê bình văn học đổi mới và phát triển, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005, tr. 391-393).

Mặc dù ghét tục danh và chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hoá dân gian Nghệ Tĩnh, nhưng nửa đời người luyện văn theo đòi khoa cử, Phan Bội Châu bị ý thức hệ Nho giáo, tình trạng tri thức theo Nho giáo, cơ chế quyền lực theo Nho giáo ràng buộc nặng nề. Đọc tân thư, hoạt động cứu nước, phục quốc, Phan Bội Châu trở thành nhà chí sĩ cách mạng và văn chương của ông lúc này là văn chương yêu nước và duy tân, chống lại ý thức hệ của chế độ thuộc địa, chống lại trạng thái tri thức con người trong chế độ đó, chống lại cường quyền của thực dân Pháp, hướng tới một nước Việt Nam dân quốc. Song ngay cả trong văn chương ấy, dấu vết của sự ràng buộc xưa cũ vẫn còn rõ nét, chẳng hạn, Phan Bội Châu vẫn thường trứ tác bằng Hán văn và, chẳng hạn, trong Tân Việt Nam được viết năm 1907, khi ông đang hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Phan Bội Châu vẫn vướng mắc với quan niệm văn học trung đại: "Người viết văn được rộng đường trước thuật. Bao nhiêu ẩn tình của chú phu xe, của người lính ngựa, của bà mẹ goá, của đứa con côi, thảy thảy đều đạt đến tai vua." (PBCTT, tập 2, tr. 18) Khi không còn đứng giữa vòng xoáy của phong trào yêu nước, Phan Bội Châu trở thành "ông già Bến Ngự", những ràng buộc xưa cũ tái sinh và văn chương của ông dần dần quay trở lại với văn chương nhà nho.