trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 325 bài
  1 - 20 / 325 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tư tưởngVăn hoá và phát triển
23.8.2008
Vũ Thế Khôi
Thử dùng phương pháp văn bản học xác định tác giả “Văn minh tân học sách”
 1   2 
 
Văn minh tân học sách là tài liệu quan trọng bậc nhất, đề xuất, như có dịp chúng tôi đã phát biểu, một triết lý giáo dục mới, thực sự cách mạng, cho công cuộc canh tân giáo dục để cứu nước trong phong trào Duy Tân - Nghĩa Thục những năm 1903–1908: thay cho triết lý giáo dục “tĩnh” đã hàng nghìn năm đào luyện những thần dân chỉ biết phục tùng, các nhà Nho duy tân đã đề xuất một triết lý giáo dục “động” nhằm đào tạo những công dân (các cụ gọi là “quốc dân”) hiểu rõ chức phận đối với đất nước, với xã hội và trước biến cố thì “có thể động”. [1]

Sách do Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội tổ chức in ấn và phát hành năm 1907 nhân việc thành lập ngôi trường ở các ngôi nhà số 4 và số 10 phố Hàng Đào, in lại nhiều lần hàng vạn bản, nhưng cũng như hai cuốn sách quan trọng khác của Đông Kinh Nghĩa Thục là Quốc dân độc bảnTân đính luân lý giáo khoa thư đều không đề tên người biên soạn. Văn minh tân học sách đã được học giả Đăng Thai Mai, một nhà Hán học uyên thâm, lại là con trai cụ Đặng Nguyên Cẩn “một nhân vật cự phách trong cựu học và lãnh tụ tân học ở tỉnh Nghệ An” (Huỳnh Thúc Kháng), dịch sang tiếng Việt theo bản chữ Hán in khắc gỗ số ký hiệu A.567, xác định niên đại là 1904 nhưng không ghi tác giả là ai, công bố trong công trình Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX. – Hà Nội 1961, in lại trong sách Hợp tuyển thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX (1900–1930). – Văn học, Hà Nội 1972.

Tờ bìa cuốn Văn minh tân học sách (bản in ván gỗ). Viện Hán Nôm, A.567.
Cũng cần nói đôi lời về lý do khuyết danh của những công trình quan trọng do trường Đông Kinh nghĩa thục ấn hành. Có thể là để tránh sự khủng bố cá nhân của chính quyền thực dân, như nhiều nhà nghiên cứu đã nêu. Nhưng thiết nghĩ (khía cạnh liên quan chủ đề của tham luận này) cũng có thể là do các chí sĩ tiền bối quan niệm rằng những công trình lý luận chung về duy tân không phải của riêng ai mà là kết tinh trí tuệ tập thể qua nhiều cuộc hội kiến luận bàn về thời cuộc, về “tân thư” và phương lược duy tân. Về việc Phan Chu Trinh hội kiến với sĩ phu Bắc Hà và Nghệ Tĩnh trong cuộc “Bắc hành” đầu năm 1906 và sau khi gặp Phan Bội Châu từ Nhật về năm 1907, trước thời điểm Đông Kinh nghĩa thục khai giảng thì học giả Nguyễn Hiến Lê và nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Xuân đã viết khá rõ bốn/năm chục năm trước [2] . Tuy nhiên, đó không phải là những cuộc hội kiến đầu tiên. Năm 1991, nhà văn Sơn Tùng, người đã có hơn một phần tư thế kỷ chuyên sưu tầm điền dã và viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh, cung cấp một thông tin quan trọng liên quan vấn đề đang bàn ở đây, là: 3 năm trước cuộc “Bắc hành” của Phan Chu Trinh, năm 1903, cụ Nghè Ngô Đức Kế cùng cụ Bảng Nguyễn Sinh Sắc và một số sĩ phu Nghệ - Tĩnh đã ra Hà Nội gặp Lương Văn Can ở 32 phố Hàng Ngang, rồi về làng Thịnh Liệt ở huyện Thanh Trì hội kiến cùng cụ cử Can và một số sĩ phu Bắc Hà khác tại tư gia của yếu nhân tương lai trong Đông Kinh Nghĩa Thục là cụ Võ Hoành [3] . Điều này chứng tỏ lúc bấy giờ Hà Nội vẫn đóng vai trò trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của cả nước mà một phóng viên tờ Le Courrier de Saigon ghi nhận từ giữa thế kỷ XIX, trước khi người Pháp biến nó thành thủ phủ của Đông Dương [4] Đó là thành quả của những chủ trương chấn hưng văn hoá Thăng Long do Hướng Thiện hội đền Ngọc Sơn, tổ chức xã hội phi chính thống đầu tiên trong sĩ lâm đất Việt, đề xuất và thực thi, tập hợp nhân tài vật lực của sĩ phu, thương nhân và một số nhân vật thuộc các tầng lớp khác, kể cả không ít quan lại cao cấp như Tổng đốc Đặng Văn Hoà, bác ruột danh nhân Đặng Huy Trứ, hướng vào các hoạt động chung về văn hoá - giáo dục [5] Rõ ràng đến thời điểm chuẩn bị phát động phong trào Duy Tân (1903/04) trong sĩ phu Bắc Hà vẫn ngấm ngầm tuôn chảy truyền thống – và một điều quan trọng hơn là: vẫn tồn tại những cơ sở hoạt động văn hoá - xã hội yêu nước rộng rãi mà cơ sở quan trọng nhất chính là đền Ngọc Sơn, trụ sở của Hướng Thiện hội từ năm 1841. Những người khởi xướng từ đất Quảng Nam phong trào Duy Tân không thể không biết điều đó, và chắc chắn chủ trương kế thừa để triển khai nhanh chóng và giành thành công quyết định ở trung tâm chính trị và văn hoá của Đông Dương cho cuộc cách mạng tân văn hoá. Có thể nêu một số bằng chứng như sau:

Một là, năm 1903 Tiến sĩ (TS) Ngô Đức Kế và Phó bảng (PB) Nguyễn Sinh Sắc, và năm 1906 PB Phan Chu Trinh đều đến gặp Cử nhân (CN) Lương Văn Can trước tiên chứ không phải ai khác; điều này hoàn toàn không ngẫu nhiên: theo học giả Nguyễn Hiến Lê cụ Cử Can “được Nghĩa hội văn thân Bắc kỳ tín nhiệm”; “Nghĩa hội này lập ngay sau khi có tờ dụ Cần vương của vua Hàm Nghi” [6] . Xin bổ khuyết: Nghĩa hội này hình thành từ năm 1873 khi Nghĩa đoàn văn thân huyện Thọ Xương (các quận nội thành Hà Nội ngày nay) do ông cử tư thục Kim Cổ (phố Hàng Gai ngày nay) Ngô Dạng, môn sinh của Hội trưởng Hướng Thiện Vũ Tông Phan, đứng đầu tham gia đánh trả tên lái buôn kiêm do thám Jean Dupuis và quân xâm lược Pháp để hỗ trợ việc giữ thành Hà Nội [7] ; năm 1898 (chỉ 8 năm trước khi Phan Chu Trinh ra Hà Nội hội kiến với Lương Văn Can!) Nghĩa đoàn làng Mậu Hoà (huyện Từ Liêm, lúc ấy là ngoại thành Hà Nội) do Tán tương quân vụ ông “Đồ Mậu” (giáo học Mậu Hoà thục xá, tên thật là Vũ Như Đẩu, cháu gọi Hội trưởng Hướng Thiện Vũ Tông Phan bằng bác ruột) chỉ huy, sau khi làm lễ tế lá cờ “Triệt Nguyễn, bình Tây”, hiện vẫn được gìn giữ ở đình làng Mậu Hoà, kéo ra thị trấn Cầu Đơ (Hà Đông ngày nay), sắn sàng tập kích vào Hà Nội [8] .

Hai là, sau khi thực dân Pháp chiếm Hà Nội năm 1882, Hướng Thiện hội không giải thể mà chỉ phân thành 3 Thiện phả nhỏ và thay đổi hình thức hoạt động (theo chủ trương chúng tôi nghĩ là của Kinh lược sứ đại thần TS Nguyễn Trọng Hợp, em họ Hội trưởng Hướng Thiện thứ hai Nguyễn Văn Siêu và là môn sinh của đồng sáng lập viên TS Nguyễn Văn Lý): “tàng” vào tín ngưỡng phụng thờ Đức Thánh Trần (một tín ngưỡng dân gian sâu rộng: tháng 8 giỗ Cha [Trần Hưng Đạo], tháng 3 giỗ Mẹ [Liễu Hạnh]), Rằm tháng 11 năm 1891 đời Thành Thái họ mượn lời Thánh Trần “giáng” bài Chính kinh răn dạy giữ lòng Trung - Hiếu; năm 1903 (một niên điểm trùng hợp đáng chú ý!) Lương Văn Can, Nguyễn Thượng Hiền và một số sĩ phu sau này có liên quan Đông Du, Duy Tân - Nghĩa Thục như đương kim Tuần phủ Đoàn Triển và Án sát Nguyễn Duy Nhiếp (con trai Nguyễn Trọng Hợp)... đã cùng An Lạc phả (một trong 3 Thiện phả tách ra từ Hướng Thiện hội) xây dựng trong đền Ngọc Sơn một “Hoằng Thiện kinh đàn” để giảng bài Chính kinh đó. Từ đền Ngọc Sơn bài kinh yêu nước này đã lan truyền chẳng những khắp các tỉnh Bắc kỳ mà cả ở Nghệ - Tĩnh, vào đến tận chùa Nhã Nam ở “Xứ Nam kỳ tự trị” [9] .

Việc xác định tác giả Văn minh tân học sách nan giải trước hết là vì những người trong cuộc đều không để lại hồi ký và cũng không tiết lộ tí gì qua truyền ngôn về các tác phẩm quan trọng nhất của phong trào Duy Tân - Nghĩa Thục, dẫu có người tạ thế khá muộn như cụ Lê Đại (1952). Một trong 3 người khởi xướng phong trào, cụ Huỳnh Thúc Kháng, trong các tác phẩm như Thi tù tùng thoại (viết trong những năm đi đày ở Côn Đảo, 1908–1921) và Phan Tây hồ tiên sinh lịch sử (1926), tuy cung cấp cho hậu thế khá nhiều chi tiết về phong trào và những nhân vật chủ chốt, nhưng không hề cho biết ai là tác giả Văn minh tân học sách, Quốc dân độc bản, Tân đính luân lý giáo khoa thư... Các học giả thuộc thế hệ đầu tiên viết về phong trào Duy Tân - Nghĩa Thục, hoặc di sản thơ văn của nó như Đào Trinh Nhất (s.1900), con trai cụ Đào Nguyên Phổ (mất năm 1907), Đặng Thai Mai (sinh năm 1902), con trai cụ Đặng Nguyên Cẩn (mất năm 1923) và Nguyễn Hiến Lê (sinh năm 1912), cháu gọi cụ Phượng Sơn Nguyễn Côn (mất năm 1960) bằng bác ruột, là những người từng được trực tiếp nghe cha anh kể lại về việc và người của phong trào, cũng không thể cho chúng ta biết gì hơn hai chữ “khuyết danh”. Một số giả thiết về tác giả Văn minh tân học sách chỉ bắt đầu đề xuất từ thế hệ các nhà nghiên cứu thứ hai, sinh ra sau khi sự việc trôi qua đã ba/bốn chục năm, lại chỉ dựa chủ yếu vào một số lời truyền ngôn không trực tiếp từ các đương sự và ngày nay không thể kiểm chứng.

Ông Nguyễn Q. Thắng viết trong công trình Phong trào Duy Tân: “Theo một số nhà nghiên cứu thì tác giả Văn minh tân học sách là Phan Châu Trinh...”. Hai chục trang sau, khi trích dẫn tác phầm này ông mở ngoặc đơn ghi chú: (một bài nghị luận viết bằng chữ Hán năm 1904 không rõ ai là tác giả – sau này nhiều người cho là của Phan Châu Trinh) [10] . Tuy nhiên ông không chỉ rõ “một số nhà nghiên cứu”, “nhiều người” là những ai; cũng không dẫn luận chứng của họ. Theo chúng tôi, dẫu cụ Phan Tây Hồ được cả xưa lẫn nay thừa nhận là lãnh tụ của phong trào xứng đáng gọi là “cách mạng tân văn hoá”, nhưng tác giả Văn minh tân học sách không thể là Cụ vì những lẽ sau đây:
  1. Ngay sau khi tiên sinh đã tạ thế (1926), lý do đảm bảo an toàn cá nhân không còn, lý do “phân công” cũng có thể gạt sang bên để tôn vinh người đã khuất, vậy mà hai chiến hữu thân thiết, cả cụ Nghè Huỳnh trong Phan Tây Hồ tiên sinh lịch sử (1926) lẫn cụ Nghè Ngô Đức Kế trong Phan Tây Hồ di thảo (1927) đều không nhắc gì đến Văn Minh tân học sách;

  2. Văn chính luận của Phan Chu Trinh có chủ đề bao quát hơn và thường hướng tới tranh biện với chính quyền bảo hộ Pháp;

  3. Văn phong trong các tác phẩm chính luận đó không chú trọng sử dụng các thủ pháp tu từ như trong Văn minh tân học sách (xin xem phần dưới đây) mà lý lẽ đanh thép dựa chủ yếu trên các sự thực mà Cụ Tây Hồ nắm rất cụ thể và chính xác.
Mới đây PGS TS Chương Thâu đề xuất giả thiết mới: người soạn Văn minh tân học sách là Đào Nguyên Phổ. Nhân dịp tái bản vào đầu năm 2008 sách Đông Kinh Nghĩa Thục và phong trào cải cách văn hoá đầu thế kỷ XX ông đã sửa cước chú của mình ở trang 119 trong lần xuất bản sách năm 1982: “Tác giả Văn minh tân học sách là một người miền Trung” (ông căn cứ câu trong văn bản VMTHS: “Nghe nói ở Bắc kỳ gần đây...”), thêm cho nó cái đuôi: “hoặc VMTHS được viết tại miền Trung, khi tác giả của nó đang sống ở kinh đô Huế chẳng hạn” (chúng tôi nhấn – VTK) [11] nhằm dọn đường cho giả thiết tác giả là Đào Nguyên Phổ (người Bắc!). Nhưng theo học giả Đặng Thai Mai, VMTHS được viết ra năm 1904, mà năm 1903 Đào Nguyên Phổ đã ra Bắc làm chủ bút Đại Nam đồng văn nhật báo, thế cho nên PGS Chương phải nêu tiếp ý kiến võ đoán rằng VMTHS “được viết trước năm 1904”, mà không đưa ra căn cứ nào để phản bác ý kiến của học giả họ Đặng. Tuy nhiên, câu trong nguyên bản chữ Hán VMTHS trên đây ông Thâu trích dẫn có một nửa. Nguyên văn cả câu đó là: “Văn Bắc kỳ tài tang dục tàm biệt xuất tân pháp kì sự tất đăng chi báo chỉ, Kinh sư cận thiết Canh nông trường, Bách công trường pháp chí lương ý chí mỹ ”. Khi dịch sang tiếng Việt GS Đặng Thai Mai ngắt thành 4 câu cho xuôi và dễ hiểu. Từ góc độ phân tích văn bản, câu chữ Hán trên đây chỉ dứt mạch ở chữ “”, và như vậy chữ “văn” dùng chung cho cả “Bắc kỳ” (“Văn Bắc kỳ...”) lẫn “Kinh sư” (“[văn] Kinh sư...”), nghĩa là: “Nghe nói ở Bắc kỳ đã xuất hiện cách trồng dâu nuôi tằm mới mà báo chí có đăng rõ, [nghe nói] trong Kinh đô gần đây đã đặt sở Canh nông, sở Bách công với phương pháp thật hay, ý tưởng thật tốt vậy” . Như thế nếu vận dụng cách lập luận của chính PGS Chương Thâu, người viết VMTHS không thể “đang sống ở kinh đô Huế chẳng hạn”, mà phải là người ngồi đâu đó khoảng giữa Bắc kỳ và Kinh đô!

Đến cuốn sách vừa xuất bản mới đây Đình nguyên Hoàng giáp Đào Nguyên Phổ thì PGS Chương đã dẫn cả “tư liệu truyền ngôn” lẫn “tư liệu thành văn” để khẳng định giả thiết của mình [12] .

Tuy nhiên, “tư liệu truyền ngôn” mà ông dẫn không phải lời truyền trực tiếp của người trong cuộc, mà chỉ là lời kể lại của thân nhân thuộc thế hệ sau, lại chưa có thể kiểm chứng. Còn như về “tư liệu thành văn” thì lập luận của ông bộc lộ nhiều sơ hở về mặt thẩm định văn bản. Chúng tôi xin được phân tích kỹ hơn.

Tư liệu thành văn PGS Chương Thâu sử dụng làm căn cứ cho giả thiết của mình là văn bản chữ Hán nhan đề Ti Đào Nguyên Phổ túc bẩm Hiệp biện Đại học sĩ Cơ mật viện đại thần Lại bộ Thượng thư Hiền Lương tử Trương tướng công ... (nguyên văn: 卑 陶 元 溥 肅 稟 協 辨 大 學 士 機 密 院 大 臣 吏 部 尚 書 賢 良 子 張 相 公 ...), tức tờ trình của cụ Hoàng giáp lên Đại thần Viện Cơ mật Thượng thư bộ Lại đề nghị triều đình xem xét và gửi mua 160 cuốn “tân thư” của Trung Quốc thuộc 7 chủng loại như: địa đồ, lịch sử, chính trị, khoa học, truyện danh nhân cách mạng phương Tây v.v... Bản thân sự phát hiện tư liệu này của PGS Chương trong tập sách Tân văn trích lục ký hiệu VHv.968, bấy lâu nay nằm im lìm trong kho sách của Viện Hán Nôm, là một đóng góp đáng ghi nhận trong việc nghiên cứu về phong trào Duy Tân - Nghĩa Thục nói chung cũng như nói riêng về vai trò của Đình nguyên Hoàng giáp họ Đào trong phong trào đó. Nhưng những lập luận của PGS Chương Thâu nhằm lấy tờ trình ông phát hiện làm căn cứ thành văn để khẳng định tác giả VMTHS là Đào Nguyên Phổ thì rất khiên cưỡng, không thuyết phục về mặt thẩm định văn bản.

Một là, PGS Chương đã xử lí khiên cưỡng đối với văn bản khi cho rằng tờ trình được viết trước năm 1903, khi Đào Nguyên Phổ đang làm Hàn lâm thừa chỉ ở kinh đô Huế (tức xuất hiện đồng thời, như Chương Thâu suy đoán, với VMTHS, và do đó (?) cả hai văn bản phải của cùng một tác giả), thế nhưng trong văn bản tờ trình có chí ít 1 chi tiết cho biết chính xác nó được viết năm 1905: “Bản niên Đông Dương thiết lập Đại hội đồng toạ, nghị hưng tân học” (VTK nhấn): Hội đồng cải cách việc học cho người bản xứ được thiết lập như cơ quan tư vấn cho Nha học chính Đông Dương thành lập theo Sắc lệnh 14-11-1905 của Toàn quyền Paul Beau.

Hai là, trong bài viết về học giả Đào Nguyên Phổ ở sách đã nêu trên PGS Chương Thâu đã dành cả 7/15 trang lược thuật lại nội dung của Văn minh tân học sách, sau đó lại kể khá chi tiết hoàn cảnh ông Hoàng giáp được tiếp cận kho sách báo “tân thư” của nhạc phụ làm Tế tửu Quốc Tử Giám tại Huế, tiếp đó điểm lại các ý kiến của Đào Nguyên Phổ trong tờ trình Ti Đào Nguyên Phổ túc bẩm Hiệp biện Đại học sĩ... về nền khoa cử thủ cựu ở nước ta, về sự canh tân giáo dục ở Trung Quốc và các nước Phương Tây, cuối cùng liệt kê một số quyển thuộc 7 chủng loại “Tân thư” đề nghị mua. Tất cả nhằm dẫn đến kết luận rằng hai tác phẩm này cùng chung một số đại ý thì tác giả của chúng phải là một người, tức Đào Nguyên Phổ. Về điểm này chúng tôi xin trích lời cảnh báo của Viện sĩ Dmitry Likhachëv, một chuyên gia Nga lỗi lạc về văn bản học: “Việc phân tích nội dung tư tưởng của tác phẩm bất luận trong trường hợp nào cũng không thể chỉ hạn chế ở những đại ý của tác phẩm. Các tư tưởng trong tác phẩm có thể là chung cho nhiều tác giả do họ cùng đảng phái, nghề nghiệp, đẳng cấp, giai cấp...” (chúng tôi nhấn – VTK)” [13] . Như chúng ta đã biết, trước khi phát động phong trào Duy Tân - Nghĩa Thục các nhân vật chủ chốt đã nhiều lần gặp gỡ, đàm luận và chắc hẳn đã đi đến nhất trí về phương lược chung (tức các đại ý!).

Chúng tôi xin nói thêm trước rằng, về mặt văn phong thì tờ trình trên đây, cũng như bài Tựa của học giả Đào Nguyên Phổ cho cuốn Việt sử tân ước toàn biên mà PGS Chương dẫn thêm để củng cố lập luận của mình, không có những đặc điểm văn phong chính luận nổi bật của văn bản Văn minh tân học sách (xin bạn đọc so sánh với trích đoạn tờ trình của học giả họ Đào ở Phụ lục).

Tóm lại, cả “tư liệu truyền ngôn” lẫn “tư liệu thành văn” cùng những lý lẽ của PGS Chương Thâu đều chưa phải là những căn cứ thuyết phục để khẳng định tác giả Văn minh tân học sách là Hoàng giáp Đào Nguyên Phổ.

Một trăm năm đã trôi qua, lại là một thế kỷ bão táp, với cách mạng, chiến tranh và những biến cố xã hội sâu rộng, thư tịch liên quan phong trào Duy Tân - Nghĩa Thục phần thất tán, phần bị thiêu huỷ, nên xem ra không còn cơ hội truy tìm các “ngoại chứng” – tức những dữ kiện ở ngoài văn bản để xác định tác giả của những ấn phẩm vẫn bị gọi là “khuyết danh”. Chỉ còn cách đi tìm các “nội chứng”, tức những thông tin ẩn ngay trong văn bản cho phép đồng nhất tác giả của hai văn bản khác nhau.

*


Ý nghĩ về khả năng sử dụng phương pháp phân tích văn bản học để xác định tác giả Văn minh tân học sách nảy sinh hồi đầu năm 2007 khi chúng tôi bắt đầu đọc lại tác phẩm mang tính tuyên ngôn này về tư tưởng cách mạng tân văn hoá trong phong trào Duy Tân để viết tham luận khoa học “Hội Hướng Thiện đền Ngọc Sơn – một cội nguồn văn hoá - xã hội sâu xa của trường Đông Kinh Nghĩa Thục”. Càng nghiền ngẫm bài nghị luận vô danh sắc sảo, càng rõ nét cái cảm giác đã bắt gặp giọng văn này, mạch văn này ở đâu đó: cũng những câu xướng hoặc câu kết nghi vấn, cũng những câu đáp hoặc lời diễn giải đồng dạng, cũng những điệp từ nối những ngữ cú đồng dạng... Cuối cùng chợt nhớ ra: bài báo vang dội một thời Luận về chính học cùng tà thuyết (LVCHCTT) của cụ Nghè Ngô Đức Kế! Xin cùng đọc vài ví dụ:
  • LVCHCTT – “Vận nước thịnh hay suy, quan hệ tại đâu? – tại nhân tâm thế đạo. Nhân tâm thế đạo xấu hay tốt, cỗi gốc tại đâu? – tại học thuyết tà hay chính”; hãy so sánh: VMTHS – “Câu nói của nhà học giả phương Tây: ”Văn minh không phải là có thể mua bằng giá trị mà thôi, mà còn phải mua bằng đau khổ nữa”. Giá trị ý nói gì?* – tức thị tư tưởng đó*. Khổ đau ý nói gì?* – tức thị cạnh tranh đó*” nguyên văn: 西 儒 之 言 曰 文 明 者 非 徒 購 之 以 價 値 而 已 又 購 之 以 苦 痛 何 謂 價 値 思 想 是 也 何 謂 苦 痛 競 争 是 也 ; từ đây khi thật cần thiết, chúng tôi mạn phép học giả quá cố Đặng Thai Mai, sửa lại một số câu dịch đã rất chuẩn của Cụ chỉ nhằm làm rõ thủ pháp tu từ, có đánh dấu* để bạn đọc tiện theo rõi và xem xét – VTK);

  • LVCHCTT – “Vậy cho nên trong nước ngày nay, nào là bình phẩm văn chương Kiều, nào là phê bình nhân vật Kiều, nào là chú thích Kiều, nào là thơ vịnh Kiều, cho đến hát tuồng Kiều, diễn kịch Kiều, trong nhà ngoài đường, trên trời dưới đất, đâu đâu cũng Kiều”; xin so sánh: VMTHS – “Trên địa cầu có các nước hoặc là còn dã man, hoặc là mới bán khai, hoặc là đã văn minh* Ấy là tuỳ theo chỗ dân trí từng nước thông hay tắc, nhiều hay ít, chóng hay chậm mà khác nhau” (nguyên văn: 地 球 之 有 國 也 若 者 爲 野 蠻 若 者 爲 半 開 若 者 爲 文 明 每 視 乎 民 智 之 通 塞 多 寡 遲 速 爲 此 例 差 ).
Tuy nhiên, Luận về chính học cùng tà thuyết viết bằng quốc ngữ, Văn minh tân học sách viết bằng Hán văn, đem đối chiếu để khẳng định rằng hai tác phẩm này cùng một tác giả thì không tránh khỏi bị coi là một sự so sánh khập khiễng, khiên cưỡng. Hợp tuyển thơ văn yêu nước và cách mạng (Nxb Văn học, Hà Nội 1972, 2 tập) không công bố được một tác phẩm văn xuôi nào của TS Ngô Đức Kế. Không phải là người chuyên nghiên cứu về tác gia này, lúc bấy giờ chúng tôi đành thúc thủ.

May thay, mới đây PGS-TS Ngô Đức Thọ đã cung cấp cho chúng tôi tờ trình viết bằng Hán văn của cụ Nghè họ Ngô xin sửa đổi phép thi, nhan đề Bẩm vi thỉnh tương thí pháp lược hành cải định dĩ cổ sĩ phong nhi hợp thời nghĩa sự (稟 為 請 将 試 法 畧 行 改 定 以 鼓 士 風 而 合 辰 義 事 từ đây xin gọi tắt là Thỉnh cải định thí pháp- TCĐTP). PGS Thọ lại kèm theo văn bản chữ Hán một bản dịch sang tiếng Việt do ông thực hiện nhưng còn chưa công bố [14] , cùng một số tài liệu liên quan ông sưu tầm được và cho phép chúng tôi tuỳ nghi sử dụng. Xin chân thành cảm ơn cử chỉ hào hiệp của ông Thọ!

Chúng tôi tiến hành phân tích đối chiếu hai văn bản Văn minh tân học sách khuyết danh và Thỉnh cải định thí pháp của TS Ngô Đức Kế theo phương pháp phân tích văn bản học của Viện sĩ Dmitry Likhachëv. Dựa trên kinh nghiệm thực tế lâu năm khảo sát thẩm định các thư tịch khuyết danh hoặc mạo danh trong văn - sử Nga thời cổ và trung đại, D. Likhachëv khái quát hoá thành một lý thuyết cơ bản và một phương pháp phân tích văn bản học hiệu quả trong công trình kinh điển Văn bản học (1964) chúng tôi đã trích dẫn trên đây. Riêng về vấn đề minh định tác giả của những thư tịch khuyết danh, Viện sĩ Likhachëv yêu cầu một sự phân tích toàn diện đối với thư tịch, bao gồm lai lịch văn bản, nội dung tư tưởng, văn phong và ngôn ngữ. “Tổng thể những quan sát càng rộng, càng đa dạng thì việc việc thẩm định sẽ càng chắc chắn” [15] . Dựa vào kinh nghiệm thực tế phong phú, ông cảnh báo: “Các dữ liệu “chính thức” về tác giả của thư tịch ghi ở đầu đề văn bản đôi khi lại ít xác thực hơn các dữ liệu không chính thức. Những chỉ dẫn gián tiếp lại chắc chắn hơn trực tiếp; những chỉ dẫn cố ý thường ít xác thực hơn những chỉ dẫn không cố ý và tưởng chừng “ngẫu nhiên”; đôi khi những hiện tượng ngôn từ đem
lại cho ta nhiều hơn là những hiện tượng văn phong v.v... Tóm lại, rất nhiều khi điều thứ yếu lại hoá ra có giá trị hàng đầu, ngược lại điều chủ yếu lại thành thứ yếu” [16] .

Chúng ta thử đi theo các bước Viện sĩ Likhachëv đã chỉ ra.

© 2008 talawas



[1]Vũ Thế Khôi: Suy nghĩ về triết lý giáo dục của Đông Kinh Nghĩa Thục (Phát biểu tại Hội thảo “Tư tưởng giáo dục của Đông Kinh nghĩa thục”, do Hội Khuyến học Việt Nam tổ chức ngày 26-7-2007, Hà Nội). – http://hoikhuyenhocvietnam.org
[2]Nguyễn Hiến Lê: Đông Kinh Nghĩa Thục. – Xuất bản ở Sài Gòn lần thứ nhất năm 1957, lần thứ hai năm 1967; Nxb Văn hoá - Thông tin in lại năm 2002, tr. 46–53; Nguyễn Văn Xuân: Phong trào Duy Tân. – dẫn theo “Lê Thị Kính (Phan thị Minh): Phan Châu Trinh qua những tài liệu mới. Q. I, T.1, Nxb Đà Nẵng, 2001, tr. 87.
[3]Xin xem các bài của Sơn Tùng trên báo An Ninh Thủ đô, số Xuân Tân Mùi 1991 và trên Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam, http://www.cpv.org.vn/, cập nhật lúc 10g42p ngày 15/6/2003.
[4]Nguyễn Thừa Hỷ: Thăng Long Hà Nội. Thế kỷ VII – XVIII – XIX. – Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Hà Nội 1993, tr. 64.
[5]Vũ Thế Khôi: Hội Hướng Thiện đền Ngọc Sơn với sự nghiệp chấn hưng văn hoá Thăng Long. – Tạp chí Xưa & Nay số 30, tháng 8-1996. Tham khảo thêm: Hội Hướng Thiện đền Ngọc Sơn, một cội nguồn văn hoá - xã hôi sâu xa của trường Đông Kinh Nghĩa Thục (Báo cáo khoa học tại Hội thảo quốc tế nhân 100 năm Đông Kinh Nghĩa Thục do Đại học Provence tổ chức ở Pháp ngày 3 – 5/5/2007). – http://dongtac.net (nhập ký tự: Vũ Thế Khôi); tóm lược đăng Xưa & Nay, số 283 tháng 5-2007.
[6]Nguyễn Hiến Lê: sđd, tr. 37.
[7]Xin đọc Chu Thiên: Bóng nước hồ Gươm. – Nxb Văn học, Hà Nội 1976.
[8]Trần Văn Giàu: Chống xâm lăng. Tập III. – Hà Nội 1957.
[9]Vũ Thế Khôi: Đức Thánh Trần trong đền Ngọc Sơn. – Tạp chí Xưa & Nay số 80, tháng 10-2000. Xin tham khảo thêm báo cáo khoa học đã nêu trên của chúng tôi tại Hội thảo ở Đại học Provence.
[10]Nguyễn Q. Thắng: Phong trào Duy tân. Các khuôn mặt tiêu biểu. – Nxb Văn hoá - Thông tin, 2006, tr. 102, cước chú 2.
[11]Chương Thâu: Đông Kinh Nghĩa Thục và phong trào cải cách văn hoá đầu thế kỷ XX. – Nxb Hà Nội, 2008.
[12]Chương Thâu, Đào Duy Mẫn & ... (biên soạn): Đình nguyên Hoàng giáp Đào Nguyên Phổ. – Nxb Hội Nhà văn, 2008, tr. 198–205.
[13]Likhachëv D.S.: Tekstologiya. – Viện hàn lâm Khoa học Liên Xô, Nxb Nauka, Moskva - Leningrad, 1964, tr. 54.
[14]Sách đã phát hành, xin tham khảo: Ngô Đức Kế, cuộc đời và tác phẩm. Ngô Đức Thọ sưu tập, giới thiệu. – Sở Văn hoá, thông tin và Du lịch Hà Tĩnh, 2008, tr. 589–605 (nguyên bản chữ Hán) và tr. 21–30 bản dịch của PGS TS Ngô Đức Thọ; chúng tôi cũng xin sửa đôi câu chữ (cũng dánh dấu *) khi cần thiết cho đối chiếu
[15]Likhachëv D.S.: sđd, tr. 55.
[16]Likhachëv: Sđd, tr. 56.