trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 325 bài
  1 - 20 / 325 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tư tưởngVăn hoá và phát triển
23.8.2008
Vũ Thế Khôi
Thử dùng phương pháp văn bản học xác định tác giả “Văn minh tân học sách”
 1   2 
 
I. Lai lịch hai văn bản Văn minh tân học sách và Thỉnh cải định thí pháp

Trang đầu tờ bẩm “Thỉnh tương thí pháp lược hành cải định” của Ngô Đức Kế gửi Thượng thư Bộ Học Cao Xuân Dục (1907). Viện Hán Nôm, A.566, tờ 30b.

Lai lịch VMTHS, trừ vấn đề tác giả, đã rõ từ lâu, khỏi phải bàn nhiều. Còn như về lai lịch TCĐTP thì PGS Thọ trong bản thảo sắp công bố cho biết như sau: tài liệu quý giá này, do cụ Thúc Ngọc Trần Văn Giáp phát hiện chép trong tập sách viết tay của Thư viện Long (thư viện riêng của Thượng thư Cao Xuân Dục) nhan đề Văn minh tân học sách, chép nhiều bài liên quan phong trào Duy Tân – Nghĩa thục, đã được cụ Thúc Ngọc Trần Văn Giáp giới thiệu trong công trình Tìm hiểu kho sách Hán Nôm (1972); riêng ở cuối TCĐTP có ghi rõ tên tác giả “Sắc tứ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân Ngô Huệ Kế túc”; theo cụ Thúc Ngọc thì người chép viết sai chữ “Đức” lối cổ, còn theo PGS Ngô Đức Thọ thì người chép nhầm với tên lót của thân phụ cụ Nghè Kế là Ngô Huệ Liên). Ông Thọ kể rằng ngay hồi giúp biên tập công trình của cụ Thúc Ngọc, ông đã sao lại một bản, dịch sang tiếng Việt và đem trình với hai học giả Đào Duy Anh và Đặng Thai Mai, được cả hai cụ ghi nhận là tài liệu rất có giá trị. Tài liệu này lưu trữ đã lâu năm ở Thư viện Khoa học Xã hội, rồi ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm dưới số ký hiệu A.566, nhưng cho đến nay, theo PGS Thọ, “chưa có dịp nào thích hợp để giới thiệu” nên nhân dịp sắp công bố tuyển tập thơ văn của TS Ngô Đức Kế, ông đã viết khá kỹ về hoàn cảnh ra đời của thư tịch này. Ở đây chúng tôi chỉ xin đề cập hai vấn đề liên quan đề tài tham luận đây.
  1. Về niên đại – chỉ xin lưu ý 1 điểm, đó là TCĐTP xuất hiện sau VMTHS: học giả Đặng Thai Mai căn cứ một số chi tiết trong văn bản xác định VMTHS viết năm 1904; PGS Ngô Đức Thọ, có lẽ căn cứ chi tiết TCĐTP được phát hiện trong thư viện của Cao Xuân Dục, cho rằng văn bản này được trình cho họ Cao khi ông được bổ làm Thượng thư bộ Học mới thành lập vào năm 1907; bất luận thế nào TCĐTP không thể được soạn trước năm 1906 vì trong văn bản có những câu: “Gần đây họ [Trung Quốc] mới sửa đổi phép học, phép thi, bỏ khoa cử”; “Phép thi do Trung Quốc đặt ra, không phải là phép tắc của tổ tiên ta. Trung Quốc đặt ra mà năm trước trung Quốc đã bỏ đi...”. Trung quốc bỏ phép thi cũ năm 1905, đó là “năm trước”, vậy năm Ngô Đức Kế viết TCĐTP có thể là 1906.

  2. Về vai trò của Tập Xuyên Ngô Đức Kế trong phong trào Duy Tân - Đông Kinh Nghĩa thục vai trò ấy, căn cứ phát biểu vắn tắt nhưng chuẩn xác của một số nhân vật chủ chốt trong phong trào về cụ Tập Xuyên, rõ ràng không phải là thứ yếu như ngày nay một số người lầm tưởng, tức chỉ là “người tán trợ”, cho nên trong Lễ tưởng niệm các tiên liệt của Đông Kinh Nghĩa Thục nhân 100 năm thành lập tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội người ta đã quên hẳn không nhắc đến tên Ngô Đức Kế! Đọc kỹ Tự truyện (“Niên biểu”) của Phan Bội Châu và tiểu sử của Phan Chu Trinh (Huỳnh Thúc Kháng: Phan Tây Hồ tiên sinh lịch sử) có thể thấy rõ ràng mặc dù trẻ tuổi nhất (đỗ tiến sĩ năm 23 tuổi, khi phong trào khởi phát, 1903, mới 25) nhưng Tập Xuyên Ngô Đức Kế được cả hai vị lãnh tụ của phong trào yêu nước và cách mạng hồi đầu thế kỷ trước rất nể trọng, coi là một trong hai thủ lĩnh (vị kia là Đặng Nguyên Cẩn) của phong trào Duy Tân ở miền Nghệ Tĩnh và do tài năng văn học (“trổ từ tuổi thiếu niên”, như lời cụ Huỳnh nhận định sau này), chí khí và học vấn sâu rộng về tân học nên thường được những lãnh tụ của phong trào tham vấn về kế sách và chương trình hành động. Xét từ giác độ vấn đề Ngô Đức Kế và VMTHS có 3 dữ kiện đáng chú ý:

    1. Trong Thi tù tùng thoại, viết ngay trong 13 năm bị lưu đày ở Côn Đảo (1908–1921), Huỳnh Thúc Kháng ghi nhận Ngô Đức Kế là người sớm đọc tân thư và hăng hái đề xướng tân học: “Sau đỗ rồi, cụ ở nhà đóng cửa đọc sách, thường lưu tâm đến việc nước. Học thuyết Âu Tây mà người Tàu đã dịch trong sách, cụ đọc được nhiều và có chỗ tâm đắc. Trong khoảng ấy, kể phong triều bài xích khoa cử, đề xướng tân học, cụ là một người rất khẳng khái” [1] (chúng tôi nhấn, VTK).

    2. Theo nhà văn Sơn Tùng, người đã ¼ thế kỷ nay chuyên sưu tầm và viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh, năm 1903, tức ngay từ khi phong trào chuẩn bị khởi phát, TS NGô Đức Kế đã cùng PB Nguyễn Sinh Sắc, có tiểu đồng Nguyễn Tất Thành cắp tráp theo hầu, ra Hà Nội gặp các cụ Lương Văn Can, Võ Hoành và một số yếu nhân khác trong Đông Kinh Nghĩa Thục tương lai [2] . Thông tin của ông Sơn Tùng có thể được chứng thực một cách gián tiếp bởi 3 điều: một là, ngay đương thời cụ Huỳnh Thúc Kháng đã khẳng định mối liên hệ mật thiết và uy tín của Ngô Đức Kế đối với sĩ phu Bắc Hà: “Cụ Tập Xuyên thường ra Bắc Hà nên nhiều người biết tên” [3] ; hai là, ngay trong năm 1903 diễn ra cuộc hội kiến lịch sử ấy Lương Văn Can và Nguyễn Thượng Hiền đã tham gia cùng Thiện phả An Lạc (một trong 3 phả Thiện tách ra từ Hướng Thiện hội sau khi Hội trưởng Nguyễn Văn Siêu mất năm 1872 và quân Pháp đánh thành Hà Nội năm 1873) dựng Thiện đàn giảng kinh trong đền Ngọc Sơn, nơi hiện vẫn còn tấm bia lập ngay năm 1903 ghi việc đó và có khắc tên hai yếu nhân ấy của Đông Kinh Nghĩa Thục tương lai [4] ; và ba là, giáp Tết Độc lập đầu tiên vào đầu năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh, cậu bé Tất Thành năm xưa cắp tráp theo hầu cha trong cuộc hội kiến với cụ Cử Can, đã tới thăm các cụ cao niên trong phả Thiện Ngọc Sơn và “xin phép gợi vài ý”: “...điều Thiện lớn nhất là yêu nước, yêu dân chủ; điề Ác lớn nhất là xâm lược, áp bức. Nay ta có thể giảng công khai như thế” [5] (tức Hồ Chủ tịch có biết việc các bậc tiền bối từng phải “tàng”, tức kín đáo nói những ý đó trong bài Chính kinh của Đức Thánh Trần mà họ giảng tại Thiện đàn trong đền! – VTK).

    3. Bà Lê Thi Kinh, tức Phan Thị Minh, cháu ngoại của cụ Phan Chu Trinh, dẫn công trình Phong trào Duy Tân (1970) của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Xuân, viết về cuộc “Bắc hành” tháng Chạp 1905 – đầu năm 1906 của cụ Tây Hồ như sau: “...thầy trò [Phan Chu trinh và Ông Ích Đường] ra thẳng Hà Nội gặp các sĩ phu Lương Văn Can, Đào Nguyên Phổ, Võ Hoành... để bàn kế duy tân. Sau đó lại lộn trở vào Nghệ Tĩnh để gặp Tập Xuyên Ngô Đức Kế vốn là bạn của ông từ trước để cùng các sĩ phu duy tân ở đây bàn chương trình hành động. Từ Nghệ Tĩnh ông lại đi thẳng ra Lạng Sơn v.v...” [6] . Tại sao Phan Chu Trinh không thẳng từ Hà Nội lên Lạng Sơn mà lại phải “mua đường đất” như vậy – lộn vào Nghệ Tĩnh rồi mới từ đó lên Lạng Sơn? Hẳn là có việc quan trọng cần bàn với Ngô Đức Kế (đó là việc gì – xin nói dưới đây).


II. Nội dung Văn minh tân học sách và Thỉnh cải định thí pháp

Đọc kỹ nội dung của hai văn bản này không thể không thấy TCĐTP là một bài nghị luận triển khai trong 15 trang viết tay đề mục 3 về sửa đổi phép thi (“Tam viết cải định thí pháp”), vốn chỉ chiếm có hơn hai trang trong 19 trang bản in (29 trang bản viết) của VMTHStriển khai theo một cấu trúc lôgich như nhau. Xin so sánh:
  • VMTHS (1904): dùng phép thi cũ và lối văn bát cổ với những quy tắc phức tạp và gò bó để xét thực học là vô lý, hoàn toàn phí công sức vô ích –> ngay Trung Quốc từ khoa Canh tý (1900) cũng đã bỏ lối bát cổ chỉ thi sách luận –> ta cũng chỉ nên dùng hai lối văn ấy để thi.

  • TCĐTP (1906/07): phép tắc đổi theo thời thế, mà thời thế nay đã đổi thay, ngay đến Trung Quốc từ các đời Hàm Phong (1851–1862) và Đồng Trị (1862–1875) cũng đã thông thương, biến đổi theo phương Tây –> sĩ phu ta không phải không biết lối văn bát cổ với những quy tắc gò bó là vô dụng, nhưng vẫn phải dốc hết tâm lực mà theo vì triều đình vẫn dùng lối văn ấy để tuyển dụng –> phép thi rắc rối ấy do Trung Quốc đặt ra xưa kia, nay chính họ từ năm trước (1905) đã bỏ hẳn rồi –> ta nếu chưa bỏ được ngay thì cũng nên biến thông chút ít: bỏ chế nghĩa, thi phú, chế biểu, chỉ chuyên thi sách luận –> biên soạn lại sách học, mua tân thư.
Tuy nhiên, trên đây chúng tôi đã dẫn lời cảnh báo của Viện sĩ Likhachëv về việc phân tích nội dung hai tác phẩm nhằm minh định tác giả không thể hạn chế ở những đại ý. Ông chỉ rõ: “... tiêu biểu hơn nhiều (cho việc minh định tác giả – VTK) là những chi tiết trong tư tưởng, những tiểu ý, những sắc thái riêng trong lập luận, những kiểu cách chứng minh cá biệt, những ví dụ ưa dùng[7] .

Trong VMTHSTCĐTP có những chi tiết ý , những cách lập luận trùng hợp như vậy:
  • VMTHS: “Không biết những lối mở đề, thừa tiếp, khởi ý, kết thúc, thanh luật biền ngẫu có ích gì cho thực dụng không?...Thế rồi cấm liên thượng phạm hạ, cấm lạc vận thất niêm, cấm viết sai, viết sót chữ trong đầu đề <...> cấm những chỗ dập xoá, dời xuống, móc lên, sửa chữa* <...>” (不 知 破 承 起 束 聲 律 駢 偶 其 能 裨 寔 用 者 果 何 用 也 <...> 然 且 連 上 犯 下 則 有 禁 落 韻 失 粘 則 有 禁 遺 舛 題 字 則 有 禁 <...> 塗 遺 勾 改 則 有 禁 <...>); hãy so sánh: TCĐTP – “Cho nên mới phải nghêu ngao nghiền ngẫm nơi bàn học, dốc hết tâm lực, cố sống cố chết mà học lấy được; những cách mở đề, thừa tiếp, khởi ý, kết thúc cùng cái phép thanh luật biền ngẫu đều phải luyện tập không lúc nào ngơi* <...> Những quy tắc dập xoá, dời xuống, móc lên, sửa chữa, thất niêm lạc vận, lỡ sai một chút thì tên tuổi bị vùi lấp...” (是 以 呻 吟 窗 下 尽 心 力 捨 性 命 而 爲 之 破 承 起 束 聲 律 駢 偶 且 習 焉 之 不 暇 <...> 塗 遺 勾 改 失 粘 落 韻 之 規 一 或 有 誤 焉 則 一 名 埋 没 矣 ...; xin nhấn mạnh: chẳng những tiểu ý mà nhiều từ ngữ cũng trùng khớp hoàn toàn);

  • VMTHS:Đời người không sống đến trăm năm thế mà dốc hết tinh thần hữu dụng đem vùi vào đống sách đầy xe, ngất nóc. Đời người còn có những nghĩa vụ phải làm, thế mà nửa phần cái tài trí vô cùng lại bị hao mòn vào chồng giấy loại mọt đục, mối ăn!”* (人 生 無 期 頤 之 壽 齡 而 有 用 精 神 全 爲 充 棟 汗 牛 所 糜 敝 人 世 有 關 係 之 義 務 而 無 窮 才 智 半 爲 攒 蜂 飽 蠧 所 消 磨 ); hãy so sánh: TCĐTP – “Đời người chỉ sống trăm năm, thông minh tài lực có bao lăm mà từ nhỏ đến già vùi đầu vào đó, tâm lực hao mòn hết cả” (人 生 只 此 百 年 聰 明 才 力 所 有 幾 何 而 自 幼 至 老 埋 頭 於 是 消 磨 已 尽 );

  • VMTHS:Lấy Kinh, Truyện và ba sử (Sử Nam, sử Tàu, sử Thái tây) đặt đề mà hỏi, cho phép học trò bàn bạc tha hồ, đối đáp tự do, không gò bó kiêng kị, không cần thể cách gì hết”* (取 經 傳 三 史 中 [南 中 西 ] 命 題 發 問 聽 其 議 論 汪 汪 條 對 洋 洋 不 必 抅 忌 不 必 體 格 ); hãy so sánh: TCĐTP – “...đề ra những câu hỏi về ý nghĩa lớn trong Kinh. Truyện, về những việc lớn trong vài bộ sử (sử nước ta, sử Trung Quốc, sử Thái tây) cùng là những điều về thực học về chính trị, công thương, cách trí. Người hỏi tuỳ ý mà ra đề, người đáp tuỳ ý mà phô diễn, không cần thể, không cần lệ, không gò, không bó gì hết”* (問 以 經 傳 中 之 大 義 一 二 史 中 [本 國 史 中 國 史 泰 西 史 ] 之 大 端 以 及 政 治 工 商 格 致 之 寔 学 問 者 隨 意 命 題 對 者 隨 意 敷 衍 無 体 無 例 無 抅 無 縛)
Cũng đã phát hiện một số cách chứng minh cá biệt, những ví dụ, từ ngữ ưa dùng trùng khớp trong hai văn bản, như:
  • Dùng hình ảnh so sánh tỉnh/thức - say/mê để chứng minh ta đã lạc hậu trong canh tân so với Trung quốc – VMTHS: “Người ta tỉnh giấc rồi, ta còn ngủ” (人 覺 悞 矣 而 我 猶 昏 睡 ); hãy so sánh: TCĐTP – “Sĩ phu nước ta vẫn như say chưa tỉnh, vẫn như mộng chưa thức” (我 國 士 夫 如 醉 未 醒 如 夢 未 覺 );

  • Cả 2 văn bản cùng dùng từ “tự xưng” (nguyên văn: 自 命 ) để đả kích thói tự cao tự đại của lũ hủ Nho: VMTHS – “tự chiếm bậc thanh cao, tự xưng bậc gìn giữ thế đạo” (nguyên văn: 以 高 人 自 居 以 世 道 自 命 ); TCĐTP – “Thường ngày thì tự xưng ta đây là nhà Nho, ta đây là người khoa mục” (nguyên văn: 平 居 自 命 則 曰 我 儒 教 也 我 科 目 也 );

  • Khi phê phán sự vô bổ của các loại sách tầm chương trích cú, chú sớ, tranh biện của nho gia Tống, Minh, trong cả VMTHS lẫn TCĐTP trong các ví dụ đều kể Mông dẫn ( 蒙 引 ) và Tồn nghi ( 存 疑 );

  • Đề cập vấn đề sách giáo khoa, cả 2 tài liệu đều dùng những từ tương tự để nói về cơ quan làm sách: VMTHS – ‘Lập một thư cục hiệu đính sách”* (nguyên văn: 設 一 校 書 局 ); TCĐTP – “Đặt một thư cục in ấn sách” (nguyên văn: 置 一 印 書 局 ) và về tinh giản sách kinh điển Nho học: VMTHS – “trích lấy đại yếu, biên thành một tập <...> bỏ bớt những chỗ rườm rà” (nguyên văn: 摘 舉 其 大 要 編 爲 一 書 <...> 刊 宂 去 煩 ); TCĐTP – “trước hết soạn lại các sách Nho học, bỏ bớt rườm rà, soạn lại cho gọn (nguyên văn: 先 將 儒 書 刊 煩 就 簡 );

  • Khi nói đến các trước tác lớn trong “tân thư” cả hai tài liệu cùng chỉ nêu ví dụ ba tác gia: Lư Thoa (Rousseau), Tư Tân Tắc (Spencer) và Mạnh Đức Tư Cưu (Montesquieu).

  • Khi nêu ví dụ về trường tân học cả hai tài liệu đều có nêu trường Quốc học ở Huế.

  • Ở phần kết của cả hai tài liệu đều gắn vấn đề canh tân với số phận của 25 triệu đồng bào: VMTHS – “Chả biết hai mươi lăm triệu đồng bào ta rồi sẽ kết cục ra sao đây?” (nguyên văn: 不 知 二 十 五 兆 之 同 胞 其 將 何 所 終 極 那 ); hãy so sánh: TCĐTP – “... dưới nghĩ đến đông đảo hai mươi lăm triệu đồng bào...” (nguyên văn: 下 念 吾 二 十 五 兆 同 胞 之 眾 ).

III. Văn phong ngôn ngữ Văn minh tân học sách và Thỉnh cải định thí pháp

Ở đầu phần tham luận này chúng tôi đã nêu sự giống nhau về văn phong giữa VMTHS viết bằng Hán văn và Luận về chính học cùng tà thuyết viết bằng quốc ngữ do trong hai văn bản cùng sử dụng phổ biến một số thủ pháp tu từ. Những thủ pháp ấy cũng là đặc trưng chung cho TCĐTP có tên tác giả là Ngô Đức Kế và VMTHS khuyết danh. Xin nêu thêm một số ví dụ tiêu biểu về xướng - kết đồng dạng và điệp từ:
  • TCĐTP:Nói về chính thể ư? – thì chuyên chế, cộng hoà, dân chủ. Nói về giao thiệp ư? – thì lãnh thổ, tô giới, công pháp, thương ước, lãnh sự, công sứ. Nói về cạnh tranh ư? – thì pháo đài, thiết giáp hạm, ngư lôi, địa lôi, tầu ngầm. Nói về chính pháp ư? – thì tầu thuỷ, đường sắt, điện tín, bưu chính, ngân hàng, bảo hiểm <...> Nói về học thuật ư? – thì có thiên văn học, địa lý học, địa chất học, khí tượng học, hoá học, âm học, điện học, thuỷ học, nhiệt học <...> ” (言 乎 國 体 則 曰 専 制 曰 共 和 曰 民 主 言 乎 交 涉 則 曰 領 土 曰 租 埠 曰 公 法 曰 商 約 曰 領 事 曰 公 使 言 乎 競 争 則 曰 炮 臺 曰 鉄 甲 艦 曰 魚 雷 曰 地 雷 曰 潜 水 艇 言 乎 政 法 則 曰 輪 船 曰 鉄 路 曰 電 線 曰 郵 政 曰 銀 行 曰 保 險 <...> 言 乎 學 術 則 曰 天 文 學 地 理 學 地 質 學 氣 學 化 學 聲 學 電 學 水 學 熱 學 <...>); hãy so sánh: VMTHS – “Nông học có hội: người ta đương cạnh tranh về nghề nông đấy! Còn ta thì vẫn như cũ! <...> Thương chính có sở: người ta đương cạnh tranh về nghề buôn đấy! Còn ta thì vẫn như cũ! <...> Công nghiệp có xưởng: người ta đương cạnh tranh về công nghệ đấy! Còn ta thì vẫn như cũ! <...> ” (農 學 有 會 人 農 戰 矣 而 我 如 故 也 <...> 商 政 有 衙 人 商 戰 矣 而 我 如 故 也 <...>工 作 有 廠 人 工 戰 矣 而 我 如 故 也 <...>). Hãy so sánh: VMTHS – “Không nghe câu chuyện nước Nhật Bản ư? Trong thời gian hơn 30 năm gần đây, nước Nhật thâu nhập văn minh châu Âu, nay đã đạt được mục đích rồi. Không nghe câu chuyện nước Xiêm La ư? Trước đây vài mươi năm nước Xiêm đã giao thông với Âu châu, phái con em đi du học, nay chính sự đã có phần mới mẻ, khả quan rồi. Lại không nghe nói chuyện nước Tàu ư? Tàu vốn là một nước thủ cựu, thế mà chỉ do trong ngoài cùng kích thích, nay trên dần dần hiểu ra phương pháp Âu tây có thể nương theo, dưới cũng biết rằng học thuật Âu tây là đáng chuộng. Nay nước Tàu đã có sở phỏng tạo,có hội quảng học rồi <...>” (( 不 聞 之 日 本 乎 三 十 餘 年 之 間 輸 入 歐 洲 文 明 今 則 達 其 目 的 矣 不 聞 之 暹 羅 乎 數 十 年 前 與 歐 洲 通 派 子 弟 往 學 今 已 畧 有 新 政 可 觀 矣 又 不 聞 支 那 乎 支 那 故 爲 永 舊 國 也 一 自 外 界 内 界 互 相 擊 剌 之 於 是 乎 上 焉 者 漸 知 西 法 可 憑 下 焉 者 亦 知 西 學 之 足 尚 今 則 倣 造 有 局 廣 學 有 會 <...>).

  • TCĐTP:Nhìn ra thế giới thì người ngày một tiến bộ thế kia. Nhìn lại nước ta thì mình ngày một thụt lùi thế này” (觀 於 世 界 其 日 進 也 如 彼 觀 於 吾 國 其 日 退 也 如 此 ). Hãy so sánh: VMTHS – “Văn minh nước ta thì có tính chất luôn tĩnh thế này. Văn minh châu Âu thì có tính chất luôn động thế kia” (夫 以 我 國 之 文 明 其 永 静 性 如 此 歐 洲 之 文 明 其 永 動 性 也 如 彼 )
Giọng văn chính luận của Tập Xuyên Ngô Đức Kế có những đặc trưng riêng, không trộn lẫn với ai được. Khi chuyển từ Hán văn sang viết bằng tiếng Việt cụ vẫn giữ nguyên giọng chính luận của riêng mình, thậm chí theo chúng tôi tiếng mẹ đẻ đã tạo điều kiện cho ngòi bút chính luận của Cụ thoả sức tung hoành, các thủ pháp tu từ đặc trưng trở nên nhuần nhuyễn hơn, ứng dụng được cả vào thơ ca quốc ngữ của Cụ. Xin hãy đọc bài thơ “Hỏi Gia Long” (1923) mà học giả Đặng Thai Mai công bố trong công trình của ông Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX (Nxb Văn hoá, Hà Nội – 1961), in lại trong Hợp thuyển thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX (Nxb Văn học, Hà Nội 1972).

Có câu thường nói: văn là người. Tuy nhiên, để minh định tác giả thì chỉ trong tổng thể với những căn cứ về lai lịch, về nội dung tư tưởng và ngôn ngữ, văn phong mới trở thành căn cứ thuyết phục. Trong tổng thể các chứng cứ đã trình bày trên đây có thể kết luận rằng văn phong VMTHSTCĐTP là của một tác giả.

Quá trình ra đời của Văn minh tân học sáchThỉnh cải định thí pháp có thể tóm lược như sau. VMTHS được biên soạn năm 1904, vậy nó phải được thảo luận thống nhất trong sĩ phu tham gia Duy Tân - Nghĩa Thục từ trước đó. Trước thời điểm đó, cho đến nay chúng ta mới biết có cuộc hội đàm năm 1903 của sĩ phu Trung - Bắc mà Sơn Tùng qua hồi ức của ông Cả Khiêm và bà Thanh, anh chị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã miêu tả khá chi tiết, từ hành trình ra Hà Nội của PB Nguyễn Sinh Sắc, TS Ngô Đức Kế và một vài người khác đến thành phần và địa điểm hội kiến. Trong số tham dự thì Ngô Đức Kế, như đã trình bày ở mục I.2., là người hội đủ nhất các điều kiện để được trao nhiệm vụ chấp bút văn bản thể hiện quan điểm chung đã nhất trí về sách lược của nền tân học họ dự định xây dựng. Ngay năm sau, 1904, Ngô Đức Kế hoàn thành VMTHS. Tiếp đó, khi các thủ lĩnh khởi phát phong trào chuẩn bị giành thắng lợi quyết định ở ngay Hà Nội, dinh luỹ chính trị của chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương, Phan Chu Trinh đầu năm 1906 từ Quảng Nam, nơi phong trào đã khởi phát từ 1904, ra Hà Nội hội kiến với Lương Văn Can cùng một số nhân vật chủ chốt trong sĩ phu Bắc Hà, hẳn đã đi đến nhất trí “tương kế tựu kế”: nhân Toàn quyền Paul Beau ký Sắc lệnh 14-11-1905 thành lập Nha học chính Đông Dương với Hội đồng cải cách việc học của người bản xứ, họ quyết định công khai gửi một bức thư cho Chính phủ Nam triều đòi cải cách chế độ thi cử để mở đường cho nền tân học họ sắp trống giong cờ mở khai trương giữa Hà Nội. Việc này Ngô Đức Kế, người hai năm trước đã được giao soạn thảo VMTHS, mà đảm nhận sẽ thuận lợi hơn cả. Điều này giải thích một cách logich tại sao Phan Chu Trinh “mua đường đất”: từ Quảng Nam ra không ghé luôn Nghệ Tĩnh mà chỉ sau cuộc hội kiến ở Hà Nội, mới lộn trở vào gặp Ngô Đức Kế chuyển đạt ý chung đề nghị viết bức thư công khai kiến nghị sửa phép thi, rồi lại quay ra lên Lạng Sơn vào đồn Phồn Xương gặp Đề Thám. Ngô Đức Kế đã hoàn thành việc soạn thảo và gửi bức thư này (tức “Bẩm vi thỉnh tương thí pháp lược hành cải định...”) vào cuối 1906 - đầu 1907, chắc phải trước tháng 3-1907, khi khai trương trường Đông Kinh Nghĩa Thục.

*


Qua sự phân tích đối chiếu toàn diện trên đây đối với 2 văn bản Văn minh tân học sáchThỉnh cải định thí pháp đến đây có thể khẳng định rằng tác giả của hai văn bản này chỉ là một người. Như vậy:


tác giả Văn minh tân học sách là Tiến sĩ Ngô Đức Kế.

Còn một căn cứ nữa. Đó là bài thơ của cụ Tập Xuyên viết trong ngục Hà Tĩnh mà cụ Huỳnh Thúc Kháng đưa vào ở vị trí thứ hai, chỉ sau bài thơ tù của cụ Tây Hồ, trong tập Thi tù tùng thoại. Cụ Huỳnh đã làm một bản dịch thơ sang tiếng Việt:

Xe như nước chảy, ngựa như rồng
Vì cớ gì ta vẫn bực lòng
Ham học văn minh đà mấy lúc
Mão tù đâu khéo cấp cho ông!

Hai câu cuối nguyên văn chữ Hán như sau:

年 來 愛 說 文 明 學
贏 得 南 冠 作 楚 囚

Nghĩa là:

Mấy năm lại đây hay thuyết về nền học văn minh (tức nền tân học!)
Vậy nên được nhận cái mũ phương Nam của tên tù nước Sở (tức tên tù mất nước)

Bài thơ viết năm 1907, “mấy năm lại đây” có thể hiểu là 2 - 3 năm trước, tức 1904–1906, đúng thời gian ra đời của VMTHSTCĐTP. Có một điều chắc chắn: không có bài thơ thứ hai của bất kỳ chiến sĩ Duy Tân nào khác gắn trực tiếp như thế việc mình bị bắt bớ tù đày với việc “hay thuyết về nền học văn minh”! [8]

Như vậy là thêm một căn cứ nữa, dẫu là căn cứ gián tiếp. Nhưng Viện sĩ chuyên gia văn bản học đã chẳng nói đấy thôi: đôi khi, những chỉ dẫn gián tiếp lại chắc chắn hơn những chỉ dẫn trực tiếp.

Hà thành, Mậu Tý trọng Hạ, ngày Canh Tý (29-6-2008)
Lỗ sinh Vũ cẩn bút


Phụ lục
Trích đoạn tờ trình của Đình nguyên Hoàng giáp Đào Nguyên Phổ gửi quan Thượng thư Bộ Lại

Phiên âm:

Ti Đào Nguyên Phổ túc bẩm
Hiệp biện Đại học sĩ Cơ mật viện Đại thần Lại bộ Thượng thư Hiền Lương tử Trương tướng công hành duy ngọc miến

Thiết chiếu ngã quốc tòng tiền sở dĩ năng tự mệnh vi văn hiến chi bang giả, thực lại Chu Khổng chi giáo, đào dã nhi hoá thành chi. Kí học Trung quốc chi văn bất đắc bất thủ tư ư Trung Quốc chi thư tịch, diệc do học Tây học giả tất tu đa cấu Tây thư dã. Tố tự Đông Tây giao thông nhi hậu Trung Quốc du học chi sĩ biến ư Âu Mỹ chư bang, cố phàm Tây phương sử truyện cập cách trí giáo khoa chư thư vô bất dịch xuất Hoa văn, dĩ tì học giới. Kim Trung Quốc học đường lâm lập, nhất thiết học khoá giai dụng tân thư nhi Ngũ kinh Tứ thư tắc duy độc chính văn minh đại nghĩa nhi dĩ. Cái hoàn doanh phong hội kim dữ tích thù tắc học vấn nhất đồ quyết bất khả nệ cổ nhân nhi giao cựu tập, kì thế nhiên dã.

Bản niên Đông Dương thiết lập Đại hội đồng toạ, nghị hưng tân học, phàm giáo pháp thí pháp vô bất châm chước cải lương, dĩ trăn hoàn thiện. Thả Hán học, Tây học kiêm cử tịnh hành, thị thành ngã bang văn minh tiến bộ chi hảo thời cơ dã. Bảo hộ quốc gia dĩ hưng học vi tối trọng đại, tối khẩn thiết chi sự, đa phương tưởng lệ, tận lực khuếch trương. Tức tựu tân thư nhất khoản ngôn chi. Tiền thử nghiêm cấm Thanh thương bất đắc du nhập Hoa báo cập Nhật - Nga chiến sử, chiến đồ ư đông Dương hạt nội. Chí bản niên dĩ thân nghị bãi cấm, thính nhân đắc tuỳ ý mãi quan nhi phàm nhập khẩu chi hoá duy tân thư miễn kì nạp thuế dục thư giá bất chí đằng ngang dã. Hiện lưỡng kì các tỉnh thành hữu năng lập Học hội, sáng Thư viện, như Hải Phòng, Thái Bình, Hưng Hoá, Bình Thuận các xứ, sở tại công sứ quan giai quỹ công ngân dĩ trợ chi, hựu khuyến quảng cấu Trung Tây chư thư dĩ công giảng tập. Thử giai ti sở mục kích nhi tâm hỉ chi <...>

Dịch nghĩa:

Ti chức Đào Nguyên Phổ kính cẩn trình lên dưới trướng
Quan Hiệp biện Đại học sĩ Đại thần Viện Cơ mật Thượng thư bộ Lại tước Hiền Lương tử Trương tướng công

Kính xét nước ta từ xưa có thể tự xưng là nước văn hiến do nhờ ở sự dạy bảo và đào luyện của họ Chu họ Khổng mà hoá thành. Đã học văn chương Trung Quốc thì không thể không lấy tư liệu ở thư tịch Trung Quốc, cũng vậy học tập văn chương Tây Âu tất phải mua nhiều sách phương Tây. Kể từ sau khi Đông Tây giao thiệp, thông thương với nhau, có nhiều sinh viên Trung Quốc du học các nước Âu Mỹ cho nên các sách sử, truyện, cách trí và giáo khoa phương Tây không sách nào không dịch ra Hoa văn để trợ giúp cho giới học sinh. Ngày nay các trường học ở Trung Quốc lập ra rất nhiều, các khoá học đều nhất thiết dùng tân thư còn như Tứ thư, Ngũ kinh thì chỉ đọc phần chính văn, cốt hiểu rõ ý lớn. Vì vận hội khắp hoàn cầu bốn bể nay đã khác xưa thì con đường học vấn quyết không thể nệ vào cổ nhân mà bám vào các lề thói cũ, đó là chuyện đương nhiên.

Năm nay ở Đông Dương đã thiết lập toà Đại hội đồng, kiến nghị chấn hưng tân học, phàm phép dạy, phép thi không phép nào là không châm chước mà sửa đổi cho tốt để dần dần hoàn thiện. Cả Hán học lẫn Tây học cùng tiến hành, đó đúng là thời cơ tốt cho văn minh tiến bộ ở nước nhà. Nay Nhà nước Bảo hộ coi việc chấn hưng học vụ là tối trọng đại, tối khẩn thiết, đã làm nhiều cách khích lệ, dốc sức khuếch trương. Hẫy lấy một khoản tân thư mà nói. Trước đây nghiêm cấm thương nhân nhà Thanh du nhập vào địa hạt Đông Dương báo chí Trung Hoa và lịch sử cùng bản đồ chiến tranh Nhật - Nga. Đến năm nay đã bãi bỏ lệnh cấm ấy, khiến mọi người được tuỳ ý mua xem, mà phàm hàng hoá nhập khẩu là tân thư thì được miễn thuế cốt không để giá sách vọt cao. Hiện nay ở cả Bắc và Trung kì các tỉnh thành đã lập hội Học, mở Thư viện như Hải Phòng, Thái bình, Hưng Hoá, Bình Thuận; quan Công sứ sở tại đều trích tiền công quỹ mà tài trợ, lại khuyến khích rộng mua sách Trung Hoa và Âu Tây làm sách công để giảng dạy. Những điều này ti chức đều thấy tận mắt khiến lòng thực hoan hỉ <...>

(V.T.K. tạm dịch)

© 2008 talawas



[1]Mính Viên Huỳnh Thúc Kháng: Thi tù tùng thoại. – Nxb Văn hoá - Thông tin, 2001, tr. 12–13.
[2]Xin tham khảo các bài của Sơn Tùng trên báo An ninh Thủ đô số Xuân Tân Mùi 1991 và trên Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, http://www.cpv.org.vn/, cập nhật lúc 10g42p ngày 15/6/2003.
[3]Mính Viên Huỳnh Thúc Kháng: sđd, tr. 53.
[4]Vũ Thế Khôi: Hội Hướng Thiện đền Ngọc Sơn, một cội nguồn văn hoá xã hội sâu xa của trường Đông Kinh Nghĩa Thục (báo cáo khoa học tại Hội thảo quốc tế nhân 100 năm ĐKNT do Đại học Provence tổ chức ở Pháp 3 – 5/5/2007); tóm lược đăng Xưa & Nay số 283 tháng 5 2007; toàn văn tiếng Việt có trên các mạng talawas.orgdongtac.net (nhập ký tự: Vũ Thế Khôi).
[5]Vũ Thế Khôi: Một trào lưu văn hoá của sĩ phu Hà thành qua giải mã thơ văn chữ Hán. – Kỷ yếu Hội thảo khoa học Những vấn đề ngôn ngữ học... – Khoa ngôn ngữ học trường ĐHKHXH&NV, Hội Ngôn ngữ học và Tạp chí Ngôn ngữ học, Hà Nội 29-12-2007, tr. 225–233.
[6]Lê Thị Kinh (tức Phan Thị Minh): Phan Châu Trinh qua những tư liệu mới. Quyển I, tập 1. – Nxb Đà Nẵng, 2001, tr. 87.
[7]Likhachëv D.S.: sđd, tr. 54.
[8]Nhà nghiên cứu Trần Viết Ngạc ở TP Hồ Chí Minh mách bảo chúng tôi rằng trong một bài thơ tức sự nhân ra sở ruộng làm xâu ở Côn Đảo, cụ Nghè Tập Xuyên còn một lần nữa nhắc đến mấy chữ “văn minh tân học”:
Cộng thuyết văn minh tân học hảo,
Bình sinh cao thượng bất như đê.
Cụ Huỳnh dịch:
Cho biết hèn hơn cao thượng đấy,
Văn minh học lối chớ nên kiêu.
Xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo của ông Ngạc! – VTK.