trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
Tư tưởng
Triết học
  1 - 20 / 177 bài
  1 - 20 / 177 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tư tưởngTriết học
4.8.2004
Friedrich Nietzsche
Nghệ thuật của ngày mai
Mộc Giai dịch
 
Đây là những đoạn văn tôi trích dịch từ phần 18 của tác phẩm: F. Nietzsche, Die Geburt der Tragödie (Sự nảy nở của nghệ thuật truyền sử bi tráng),1872.
Những điều Nietzsche nói trong những đoạn văn nà y về sự khủng hoảng tinh thần của Âu châu và o cuối thế kỷ thứ 19 khiến chúng ta nghĩ tới sự khủng hoảng tinh thần của nhân loại ở toà n thế giới hiện nay: khủng hoảng tinh thần của mỗi dân tộc và của chính bản thân mỗi chúng ta.
Tôi trích dịch dựa trên bản dịch ra Pháp văn: La naissance de la tragédie, Jean Marnold et Jacques Morland (Livre de Poche, classiques de la philosophie, Paris). Vấn đề trích dịch những tư tưởng triết lý của Nietzsche, từ tiếng Âu Mỹ sang tiếng Việt Nam thường phải là một sự mạo hiểm quá táo bạo, để tự bà o chữa tôi xin gửi đến các bạn đọc, ở phần phụ lục, mấy lời bà n của Bùi Giáng về vấn đề “Dịch thuật”.
Má»™c Giai
Đã từ lâu, từ nguyên thuỷ, người ta sống với “ý chí”. Với ý chí người ta bằng mọi cách đặt điều lệ khuôn khổ cho cuộc sống, tiếp cận cùng một số ảo tưởng.

Có những người thì an vui, như Socrate, với “chủ nghĩa lạc quan” về cái biết, ảo mộng rằng nếu ta biết, ta có thể vượt qua mọi khổ luỵ, khó khăn ở trần gian. Có những người thì muốn quên hết, chìm đắm vào màn sa “duy mỹ” của nghệ thuật. Lại còn có những người nữa ôm giữ những ý niệm siêu hình, “hình nhi thượng” vọng đến được khung trời an nhiên vĩnh hằng giữa cõi vô thường trầm luân khổ đau này.
Không kể đến số người cũng có ý chí, nhưng cốt để duy trì những tập quán tầm thường, thiết thực vật chất, đủ để qua ngày qua tháng, chúng ta cốt yếu là có ba sắc thái ý chí nói trên, dành cho những đầu óc tiên phong, cao kỳ, những đầu óc chán chường trước những hệ lụy phàm tục, những khốn nan trong phận làm người nhất chí đi tìm con đường nhân sinh thăng hoa giải thoát.

Như vậy là có thể nói là chúng ta có ba con đường văn học: văn học Socratic, văn học nghệ thuật, văn học bi tráng [1] . Hay nói một cách khác nữa, phản ảnh lịch sử tư tưởng của nhân loại: văn hoá trường quy truyền thống (Aristote-Alexandre), văn hoá Hy Lạp, văn hoá Phật Đạo [2] .

(…)

Toàn thế giới hiện đại nằm trong mạng lưới của “văn hoá truyền thống”. Lý tưởng là con người có “học thuyết” [3] , với những thiết bị càng ngày càng tinh xảo, ra sức khảo cứu tìm tòi, tận tụy vì khoa học. Con người điển hình, con người thần tượng nguyên thủy, chính là Socrate! Nền giáo dục phổ biến trong xã hội loài người bây giờ là hướng về hay dẫn đến lý tưởng đó. Nếu một ai có nhân sinh quan khác, sống ngoài vòng lý tưởng khoa học trên, thì người đó thật là dấn thân liều lĩnh, không có ngày mai, và có tồn tại thì chỉ vì xã hội tạm thời khoan hồng dung thứ.

(…)

Nhưng cũng đến lúc, chúng ta phải tự nhủ “văn học Socratic” trong căn bản tiềm ẩn ảo vọng tuyệt cùng “lạc quan chủ nghĩa” [4] . Và chúng ta không được ngạc nghiên hay kinh dị nữa! Nếu cái ảo vọng lạc quan đang mang đến những tệ hại, xã hội suy đồi từ hạ tầng, nhân loại bịnh hoạn kiêu mạn, điên rồ tham muốn muôn ngàn vật chất ở cõi tục. Người ta bạo nghĩ có thể xây dựng một địa đàng hạnh phúc cho tất cả mọi người. Đặt lòng tin vào hệ thống lý thuyết khoa học, người ta nhắm mắt đeo mang một ý chí đầy hiểm hoạ, xếp đặt hạnh phúc con người theo lý thuyết của bọn hương nguyện trường quy chắc cũng để rồi chỉ còn biết cầu mong “sự giáng sinh của một thánh sống, ban thưởng ban phạt cho chúng sinh”[5] ,những thằng hề đeo mặt nạ cưỡi ngựa máy từ cao rơi xuống giữa màn kết của vở bi hí kịch, một vở tuồng mệnh danh là “có hậu” [5] .

(…)

Con người hiện đại suy tư, nhận thức cái hiểm hoạ ẩn tàng trong nền văn minh lý thuyết khoa học, hoang mang nhìn lại tất cả những thành quả và mong tìm ra con đường cứu vãn. Nếu con người hiện đại bắt đầu thức tỉnh nhìn ra hậu quả của sự ngu muội đã lao mình vào mạng lưới của lý thuyềt khoa học, những nhân vật xuất chúng, những đầu óc lớn đã nhìn thấy trước rồi, xa và rộng, dựa ngay trên những lý thuyết khoa học và biết luận ra cái hạn hẹp, cái thực trạng vô hiệu lực của “những cái biết”; họ chứng nhận khoa học lý thuyết chỉ là ảo mộng đòi đạt tới cái chân cái thật trong càn khôn. Thực tế càng ngày càng cho chúng ta thấy rõ, với lý thuyết:“nguyên lý yếu tố và hậu quả” [6] , chúng ta không thể nào thấu triệt được thể tại của sự vật. Kant và Schopenhauer là hai triết gia có can đảm và kiến thức, đã biết nhìn ra trước, phủ nhận “lạc quan chủ nghĩa”, lý tính lôgic của văn minh thế giới. Lạc quan chủ nghĩa đặt tiên đề là con người có thể đi đến một số “sự thật vĩnh hằng” [7] và giải định mọi câu hỏi về thiên nhiên vũ trụ; Kant vạch ra sự thật là với những khái niệm của lý thuyết khoa học: không gian, thời gian, nguyên lý yếu tố và hậu quả…, con người vẫn không ra khỏi màn “vô minh ảo ảnh” [8] chỉ nhìn thấy được những hình những bóng, mà thật càng u muội xa dần cái chân nguyên của vật thể, nhưng lại cứ như thế chìm đắm - theo lời của Schopenhauer - vào trong cuộc mộng du.

Kant và Schopenhauer đã viết những lời tiểu dẫn cho nền “văn học bi tráng”, một nền văn học mà cứu cánh căn bản không phải là những cái biết của lý thuyết khoa học mà là tìm đạt đến “cái tâm thức của hiền giả” [9] . Có tâm thức hiền triết để khắc phục cái ảo ảnh phù hoa khoa học, để biết tâm định và trí định nhìn thế gian một cách toàn diện và tổng quát, nhận ra cái bể khổ muôn kiếp của loài người, và để có lòng từ bi bác ái, khi mỗi người chúng ta đều an nhiên tự thấy mình cũng trầm luân trong bể khổ.

(...)

Giờ đây chúng ta hãy biết đợi một thế hệ mới, trưởng thành hiên ngang nhìn thẳng, dấn thân liều mình tìm đến một cái gì lớn “thật rùng rợn thật phi thường” [10] . Một thế hệ gan dạ “phá huỷ mọi thần tượng phi nhân tính” [11] , từ bỏ những tư tưởng tầm thường yếu hèn già nua lạc quan chủ nghĩa, để sống thật, sống tràn đầy và táo bạo. Có lẽ tất cả chúng ta phải biết đảm nhận trải qua những thử thách tàn khốc và ác liệt để có lòng bi tráng và ý chí đi đến nghệ thuật của ngày mai. Cái nghệ thuật biết an ủi con người và “dẫn độ đến một cõi thanh tĩnh siêu hình” [12] .

Sự thống chế của lý thuyết khoa học không còn tuyệt đối nữa, lung lay từ căn bản với những thành quả mang đầy bóng tối, niềm tin ấu trĩ lạc quan đã tiêu tan… Con người học thuyết hoang mang vô vọng khi tất cả hệ thống tư tưởng của mình đang sụp đổ, họ không còn ý chí để lao mình vào dòng suối thác của cuộc sống và xây dựng lại trên những lâu đài đổ nát. Họ múa may không biết nghĩ gì, không biết làm gì. Họ không còn thật muốn một cái gì khi tất cả như đều có mặt trái bí ẩn đầy hiểm hoạ. Nền “văn minh lý thuyết khoa học” mang sẵn những điều phi lý, mầm mống của sự suy đồi; con người học thuyết chỉ biết bó tay, nhảy lùi trước sự mâu thuẫn tiềm ẩn. “Nghệ thuật ngày mai”, nghệ thuật của chúng ta, sẽ biết nói lên cái khủng hoảng tinh thần của thời đại...

© 2004 talawas



[1](Một số từ ngữ đặc thù, phiên dịch ra Pháp văn, của Nietzsche)
culture socratique, culture artistique, culture tragique
[2]culture alexandrine, culture hellénique, culture boudhique
[3]l’homme théorique
[4]l’optimisme
[5]l’intervention d’un deus ex machina “à l’Euripide”
[6]la causalité
[7]les eternae veritates
[8]le voile de Maia
[9] la sagesse instinctive
[10]cette impulsion vers le monstrueux et l’extraordinaire
[11]tueur de dragons
[12] l’art de la consolation métaphysique