trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
Tư tưởng
Triết học
  1 - 20 / 177 bài
  1 - 20 / 177 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tư tưởngTriết học
27.10.2004
Ngô Văn Tao
Immanuel Kant: Phê phán lý tính thuần túy, Bùi Văn Nam Sơn dịch nghiên cứu và chú giải
 


Mỗi thời đại đều có những nghi vấn phải giải đáp, những thử thách phải vượt qua. Mỗi xã hội đều có “những ước mơ giáo điều” (Thái Kim Lan), những nghịch lý mù quáng, ý đồ sai lệch, tư tưởng của những kẻ mạn nhận là tiếng nói của lương tri. Câu hỏi luôn luôn cập thời: Đâu là lương tri của thời đại? Thế nào là lý tính của con người hiện đại, của công dân?

Giải cấu và phản tỉnh” - như Jacques Derrida (1930-2004), triết gia cuối thế kỷ thứ 20 đã nhấn mạnh- là những điều triết gia, thi nhân, nghệ sĩ phải làm để thấy ra hư vô nằm giữa hai hàng chữ viết, thực thể đằng sau những mặt nạ và như thế mới thật là đảm nhận trách nhiệm của mình đối với xã hội, đối với cuộc đời. Tôi nghĩ chính trong dư duy đó học giả Bùi Văn Nam Sơn (BVNS) đã tận tụy dịch ra tiếng Việt tác phẩm của I. Kant Phê phán lý tính thuần tuý(Kritik der reinen Vernunft), và cốt yếu là nghiên cứu, chú giải dẫn nhập vào vấn đề “phê phán lý tính” của Kant, hơn hai thế kỷ trước như là sứ mệnh phải làm. Thật vậy, đọc BVNS, hay đúng hơn đọc Kant trong ngôn ngữ Việt, dưới cái nhìn cặn kẽ tổng quát của BVNS, chúng ta cũng sẽ biết tự đặt những câu hỏi của I. Kant:

Tôi có thể biết gì?
Tôi có thể làm gì?
Tôi có thể hy vọng gì?

ba câu hỏi, bao nhiêu là cấp bách trong giai đoạn lịch sử giao thời này.

Đã từ lâu, chúng ta chỉ muốn như vọng về thuở sống động, dồn dập trào lưu văn học: Thơ Mới, Tự Lực Văn Đoàn, Nguyễn Tuân, Nam Cao… Đã từ lâu chúng ta như bị đẩy chìm vào một thế giới mà ở đó không có lời văn và ngôn ngữ. Những nhà thơ, những nhà văn phải cảm thấy cô đơn, tuyệt vọng rằng ngôn ngữ của chính mình và củanhững người xung quanh như đã khô cạn, không có âm hưởng, không có ngõ triển khai. Ngôn ngữ là “Sống”, cảm năng và giác tính tương quan trong vũ trụ xoay vần đối tượng và chủ thể. Trong một xã hội giả tạo, tư tưởng lần theo một đường rày, ngôn ngữ như mất hết sinh lực, thoi thóp chỉ nói lên được nỗi buồn luẩn quẩn của nội tâm, đời sống tỉnh lẻ xã hội rập khuôn.

Công trình của BVNS, nghiên cứu và dịch thuật, thật là tiếng chuông đánh thức chúng ta ra khỏi tiêu cực bi quan. Cái phần tối ưu của dịch thuật là ngôn ngữ, thì tác phẩm của BVNS trước hết là những lời, những chữ thận trọng cân nhắc phản ảnh sự chân thành nghiêm túc đối với những nguồn tư tưởng đa dạng của con người. Chữ nghĩa của I. Kant nguyên tác cổ điển, lời văn của BVNS lưu loát hiện đại, dù dịch thuật phải đối chiếu phong cách văn học giáo trường, ngôn ngữ đột phá hiện sinh nhưng vẫn tàng lưu dư âm của quá khứ, quá khứ như thượng nguồn của dòng suối ngôn ngữ luôn luôn chảy dài.

“Phê phán lý tính thuần tuý” là quyển sách phải có trong mọi thư viện. Nó là dấu mốc của văn học Việt Nam chứng tỏ sự tiến triển không ngừng của ngôn ngữ Việt Nam, với tiềm năng tiếp xúc những vấn đề sâu xa triết học Đông Tây. Đọc đi đọc lại BVNS -những lúc chỉ một hai đoạn- chúng ta sẽ cảm nhận được sự tư tưởng hành văn. Cốt yếu nữa là chúng ta sẽ thể hiện được rằng vẫn tiềm tàng trong chúng ta một nguồn sinh lực -tiếp thu từ thuở nào, đến tự tiền thân?- luôn luôn sẵn đấy để chúng ta suy diễn nói lên được mọi khúc chiết của cảm năng và giác tính. Một niềm tin tràn đầy hy vọng rằng mạch sống tư tưởng, ngôn ngữ của chúng ta mãi mãi chảy mạnh, vượt qua những chướng ngại nghịch lý,“những mâu thuẫn lịch sử tức thời”.

I. Kant là giáo sư triết học sống -trong cái nhìn thế tục- một đời thật buồn tẻ và tận cùng cô đơn; nhưng chính vì cho riêng một ý chí nhất định đi tìm rõ ra lý tính của con người và suy tưởng với lý tính đến được tận đâu cho chân lý và đạo đức của nhân loại. Ông tận tụy nghiên cứu, nghiêm túc suy tư quá nửa đời mới nghĩ rằng ông có điều để nói: Phê phán lý tính thuần tuý của ông chỉ xuất bản năm 1781, khi ông đã 57 tuổi. Nhưng triết luận của ông là một cuộc cách mạng tư duy triết lý, một cuộc cách mạng Copernic ngay sau thời Khai Sáng, mà các triết gia trên thế giới đến bây giờ vẫn thấy cần phải học hỏi, tìm hiểu và bình luận. Hơn nữa, theo tôi được biết, những tác phẩm của ông đều là những áng văn chương Đức ngữ bất hủ, mà những văn nhân đương thời như Goethe, Schiller… công khai tìm đọc.

Tương xứng với tầm thước vĩ đại cao siêu đó, công trình của BVNS dịch thuật nghiên cứu và chú giải chỉ trên một tác phẩm triết học của I. Kant đã là một văn phẩm đồ sộ hơn 1.300 trang sách, mà hầu hết các câu đều hàm ý bắt người đọc phải suy tư. Đó là sự đúc kết của hàng chục năm đèn sách. Một gương sáng của sự tận lòng học hỏi, hy sinh nghiêm túc “tìm đến gốc rễ của triết học”( T.T. Kim Lan). Tôi không ngần ngại khẳng định rằng việc làm của BVNS là một cống hiến lớn lao vô giá cho nền văn học và triết học Việt Nam.

BVNS có viết: “Đọc Kant là một sự vất vả cần thiết, hiểu biết ít nhiều về Kant là hành trang bắt buộc phải mang theo trên mọi nẻo đường suy tưởng”. Nhưng người Việt chúng ta được đọc Kant qua công trình dịch thuật và chú giải của BVNS thì thật là “một niềm hỷ lạc trí thức” (Thái Kim Lan). Những ý thức căn bản của triết học qua đây trở nên sáng tỏ. Những thuật ngữ chủ chốt đều được phiên dịch chính xác ra thuật ngữ Hán Việt hàm xúc và có căn cơ. Hơn nữa những lời chú giải của BVNS mở rộng ra chân trời triết học xưa và nay. Chúng ta dễ dàng hiểu rõ Siêu Hình Học của Kant, từ bỏ những nghịch lý của Siêu Hình Học tu viện. Ý thức rằng mọi đối tượng (mọi hiện tượng) chỉ nhận thức được một khi đã quy nạp vào những phạm trù (những khái niệm) tiên nghiệm của lý tính, qua chú giải của BVNS chúng ta cũng biết đó là mầm mống của hiện tượng luận Husserl, của hữu thể luận “thử tại” Heidegger. Công trình của BVNS thật là một cơ sở mà chúng ta vẫn hằng chờ đợi, một cơ sở vững chắc để mở đầu cho nền triết học Việt Nam chính đáng của ngày mai.

Triết học Kant, chính nó như thường biết là một kho tàng triết luận để khai thác, với bao nhiêu ý niệm (lý tính thuần tuý, lý tính thực hành, phạm trù tiên nghiệm, vật tự thân…) cần phải trở lại, trong sự đổi thay tư duy trí thức của nhân loại, để bình luận, triển khai hay bài bác. Trong phương diện đó, việc làm của BVNS đủ có một giá trị vô song là mở cửa cho triết học Việt Nam đi vào lãnh vực vô cùng sinh động và phong phú. Lãnh vực triết học Kant, lãnh vực của ba câu hỏi mà tôi đã nhắc tới: ta có thể biết gì? ta có thể làm gì? ta có thể hy vọng gì? Ba câu hỏi cũng là những câu ngàn đời của nhân loại: Sống là gì? Sống làm sao cho xứng danh làm người? Triết học Kant tự nó đưa đến ý niệm Tự Do và Đạo Đức, hai ý niệm mà bây giờ hơn bao giờ hết trong lịch sử chúng ta phải suy tưởng. Theo tôi được biết, I. Kant đã triết lý suy luận sâu xa trên hai ý niệm này trong: Kritik der praktischen Vernunft (Phê phán lý tính thực hành), tác phẩm xuất bản năm 1788. Chúng ta thật ước mong học giả BVNS sẽ tiếp tục nỗ lực hy sinh cống hiến cho văn học Việt Nam công trình dịch, nghiên cứu và chú giải tác phẩm tiếp theo này của I. Kant. Chính BVNS như đã thầm hứa hẹn, trân trọng nhắc lại những câu sau đây của Kant, trích từ Phê phán lý tính thực hành:

“Hai điều tràn ngập tâm tư với sự ngưỡng mộ và kính sợ luôn luôn mới mẻ và gia tăng mỗi khi nghĩ tới:

Bầu trời đầy sao trên đầu tôi
Và quy luật đạo đức ở trong tôi”

Những câu văn Đức ngữ, mà BVNS đã dịch lại như ở trên, đã được khắc trên bia mộ Immanuel Kant (1724-1804), những câu mang mang một niềm tin bất tận ở tâm linh trí tuệ của con người.

(Immanuel Kant, Phê phán lý tính thuần tuý, Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải. Nhà xuất bản Văn Học – Việt Nam 2004, hơn 1300 trang. Đặc biệt có bài dẫn luận dài 30 trang của Tiến sĩ Triết Thái Kim Lan, mục lục vấn đề và nội dung thuật ngữ dài 40 trang.)

Tháng 10. 2004

© 2004 talawas