trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 227 bài
  1 - 20 / 227 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Văn họcVăn học nước ngoàiDịch thuật
14.7.2005
Shuyu Kong
Dịch văn học nước ngoài ở Trung Quốc
Lê Quỳnh dịch
 1   2 
 
3. Yilin quảng bá tiểu thuyết Ulysses

Nhà xuất bản Yilin không chỉ in các tác phẩm đã xuất hiện trong tạp chí chị em của nó. Nhà xuất bản có ba sê-ri văn học chính, chia thành hai phạm trù tiếp thị căn bản: tác phẩm cổ điển và sách ăn khách hiện đại. Loạt Văn học cổ điển thế giới tập hợp các kiệt tác trước Thế chiến Hai, nhiều trong số này là dịch lại các tác phẩm từng được Nhà xuất bản ngoại văn Thượng Hải in. Ý tưởng đằng sau loạt sách này là độc giả Trung Quốc thích thú với mọi thứ “cổ điển”; ngoài ra, bản quyền đã hết hạn đối với phần lớn các tác phẩm này, nên chỉ tốn ít tiền để in. Đến năm 2001, hơn 100 tựa sách trong sê-ri này đã được in trong kế hoạch in 200 tác phẩm. Sẽ-ri thứ hai có tiêu đề tương tự: Văn học cổ điển thế giới: Hiện đại và Đương đại. Nó tập trung vào giai đoạn hậu chiến và gồm các tác giả như Graham Greene, Kenzaburo Oe, và Carlos Fuentes. Trong 10 năm qua, hơn 70 tựa sách đã được in trong loạt này. Sê-ri thứ ba và ăn khách nhất là Thư viện sách ăn khách thế giới – chủ yếu gồm các ấn bản vốn ban đầu in trong tạp chí Yilin.

Nhà xuất bản Yilin thường xuất bản các ấn bản khác nhau của cùng một tựa sách, và in đồng thời. Cách “tiếp thị đa chiều” này thể hiện khuynh hướng quảng cáo sách đến thật nhiều loại độc giả. Ví dụ, cùng trong sê-ri Văn học cổ điển thế giới, các tựa sách được in thành ba dạng: sách bìa cứng, bìa mềm và phổ thông. Ngoài ra, độc giả còn có thể đặt hàng loại “sách đặc biệt đóng hộp”. Chất lượng giấy và trình bày bìa cũng khác nhau, mặc dù nội dung sách thì vẫn thế. Loại bìa cứng có các tranh minh hoạ của hoạ sĩ nước ngoài, và tên tác giả được in theo lối thư hoạ cầu kỳ. Loại này rõ ràng nhắm đến những người chơi sách giàu có. Loại bìa mềm in các bức tranh sơn dầu thế kỷ 19, trong khi ấn bản phổ thông lại in các bức hình chụp từ các bộ phim dựa theo truyện. Chiến lược “tiếp thị đa chiều” cũng áp dụng cho sê-ri Văn học cổ điển thế giới: Hiện đại và Đương đại.

Riêng sê-ri Thư viện sách ăn khách thế giới lại chỉ in theo ấn bản bìa mềm. Bìa sách in các cảnh trong phim Hollywood. Các bìa sách có tính chất dễ gần, thân mật này là một sáng tạo lớn trong việc in ấn sách nước ngoài ở Trung Quốc – mặc dù rõ ràng chúng chịu ảnh hưởng từ các kỹ thuật Phương Tây. Các sách dịch ở Trung Quốc trước đó luôn có các hình bìa đơn giản và điềm đạm. Giá sách rẻ của những ấn bản này cũng là một điểm thu hút. Sự khôn ngoan của chiến lược kinh doanh này trở nên rõ ràng trong thập niên 1990, khi giá sách tăng chóng mặt khiến nhiều độc giả không thể mua các sách có giá thị trường trung bình. Các ấn bản giá rẻ của Yilin cũng khiến các ấn bản in lậu khó cạnh tranh.

Giống như tạp chí Yilin, nhà xuất bản Yilin đạt được thành công thương mại nhờ việc xuất bản sách thu hút đông đảo độc giả. Tuy nhiên, nhà xuất bản còn đi xa hơn tạp chí khi họ dùng các kỹ thuật tiếp thị thông minh để đại chúng hoá những tác phẩm “cổ điển thế giới”. Diễn biến này cần được minh hoạ chi tiết hơn, vì nó cho thấy rõ sức mạnh của tiếp thị và quảng bá trong việc tạo nhu cầu trong độc giả đối với các sản phẩm văn học xa lạ. Nhà xuất bản Yilin là người tiên phong trong lĩnh vực này, và trong những năm gần đây, các kỹ thuật của họ đã được các nhà xuất bản khác bắt chước và phát triển tinh tế hơn. Tôi sẽ mô tả cách nhà xuất bản Yilin in và quảng bá cho bản dịch mới của tiểu thuyết Ulysses của James Joyce năm 1995.

Thành công của tạp chí Yilin và việc lập nên nhà xuất bản đã không thể xảy ra nếu thiếu Li Jingduan, tổng biên tập của tạp chí Yilin và là giám đốc nhà xuất bản cho đến năm 1999. Trước khi tiến vào ngành xuất bản năm 1975, Li làm việc trong ngành ngoại thương và báo chí; điều này giúp ông có kinh nghiệm kinh doanh nhiều hơn đa số các tổng biên tập ở Trung Quốc thời kì ấy. Đến đầu thập niên 1990, nhà xuất bản Yilin đã xác lập danh tiếng là nơi xuất bản văn học phổ thông nước ngoài và là nơi nhập khẩu lớn nhất các sách ăn khách của Mỹ và châu Âu. Nhưng Li nhận ra rằng để thật sự thách thức các nhà xuất bản lâu đời hơn và tăng thị phần, họ cũng phải lấn sân vào khu vực văn học tinh tuý. Ông quyết định tạo tiếng vang bằng cách “bổ sung cho những lỗ hổng lớn nhất của lịch sử văn học dịch Trung Quốc”; để làm điều đó, ông cho dịch hai tuyệt tác của văn học Phương Tây: Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust và Ulysses của James Joyce.

Việc dịch tác phẩm đồ sộ của Proust được 15 dịch giả tiến hành đồng thời, họ dịch các phần khác nhau, và hoàn tất năm 1991. Bản dịch này, tuy không thành một best-seller, đã được in lại bốn lần trong ba năm, bán được tổng cộng 40.000 bản. Quan trọng hơn, dự án đem về một giải thưởng toàn quốc về văn học dịch, và giúp Yilin củng cố danh tiếng là một nhà xuất bản chất lượng cao. Được khuyến khích, Li Jingduan quyết định cho dịch Ulysses, nổi tiếng là vô cùng khó hiểu. Ông tin rằng nhà xuất bản Yilin có thể tạo ra bản dịch hoàn hảo, tin đến mức ông không chịu từ bỏ dự án cả sau khi biết rằng nhà xuất bản Văn học Nhân dân ở Bắc Kinh đã mời học giả nổi tiếng về James Joyce, ông Jin Ti, thực hiện dịch cùng tác phẩm này.

Jin Ti, một giáo sư ở Viện Ngoại ngữ Thiên Tân, là một dịch giả kinh nghiệm, đã tự phát triển một lý thuyết dịch của riêng mình. Ông lần đầu dịch Ulysses từ năm 1979, khi ông được mời dịch chương thứ hai của Ulysses để in trong Hợp tuyển tác phẩm hiện đại phương Tây. Sau đó, ông cho in trích đoạn từ chương thứ ba trong tạp chí Văn học Thế giới. Năm 1987, một nhà xuất bản ở Thiên Tân ấn hành bản dịch Ulysses đã rút lược của Jin Ti. Nhà xuất bản Văn học Nhân dân sau đó mời ông dịch toàn bộ tác phẩm trong ba năm. Vì nhiều lý do – bao gồm độ khó của các chương còn lại và chuyến thăm Mỹ kéo dài của Jin Ti vào cuối thập niên 1980 – dự án ̣đến năm 1994 vẫn chưa hoàn thành. Vào lúc đó, chỉ mới có tập một là sẵn sàng để in.

Sự chậm trễ này khiến nhà xuất bản Yilin có khả năng vượt lên trước với bản dịch của riêng họ. Ngay từ đầu, dự án được coi là ưu tiên số một. Năm 1990, đích thân Li Jingduan nắm chức điều hành dự án, và bày tỏ quyết tâm tìm ra một dịch giả cũng nổi danh như Jin Ti để thực hiện dự án. Nhiều thế hệ dịch giả văn học tiếng Anh lớn tuổi từ chối nhận một nhiệm vụ khó như thế. Trong số này, Xiao Qian có vẻ là ứng viên số một. Xiao, người cũng là một nhà văn có tiếng, đã học về kỹ thuật dòng ý thức và chủ nghĩa hiện đại khi học tại Cambridge thập niên 1930. Xiao đã hơn 80 và nói ông không có sức khoẻ để làm; tuy nhiên, Li lại thuyết phục được vợ của Xiao, một biên tập viên văn học nước ngoài ở nhà xuất bản Văn học Nhân dân, thực hiện phần dịch căn bản, và Xiao làm công tác trợ giúp. Như Li Jingduan dự đoán, khi công việc đã bắt đầu, ông Xiao càng lúc càng tham gia nhiều hơn, và cuối cùng tuyên bố ông là đồng dịch giả.

Khi cuộc cạnh tranh đã thật sự bắt đầu, Li Jingduan nhận ra rằng một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến lợi nhuận sẽ là bản dịch nào ra mắt thị trường trước tiên. Vì lý do này, ông phá bỏ mối quan hệ vốn thường xa cách giữa nhà xuất bản và dịch giả, và dành sự giúp đỡ chi tiết cho Xiao và Wen. Ông giúp họ liên hệ với các nhà nghiên cứu ở Trung Quốc và nước ngoài, mua cho họ sách tham khảo, các ấn bản in khác nhau của tiểu thuyết, bao gồm cả các bản dịch tiếng nước khác. Ban đầu kế hoạch của nhà xuất bản Yilin là sẽ ấn hành toàn bộ tác phẩm vào cuối năm 1994, chưa đầy bốn năm sau khi hai vợ chồng Xiao và Wen bắt đầu dịch. Tuy nhiên, đầu năm 1994, nhà xuất bản Jiuge ở Đài Loan ấn hành tập đầu tiên bản dịch của Jin Ti. Cùng lúc đó, nhà xuất bản Văn học Nhân dân ở Bắc Kinh loan báo họ cũng sẽ ấn hành tập một vào tháng Năm năm đó, theo lối chữ giản thể. Li phản ứng tức thời, bằng cách đẩy nhanh ngày in tập một bản dịch của vợ chồng Xiao. Sau vài tháng chạy đua, nhà xuất bản Yilin đã ấn hành tập một cũng vào tháng Năm. Lượng in đầu tiên là 80.000. Yilin ấn hành nốt hai tập khác vào cuối năm 1994, đi trước tập hai bản dịch của Jin Ti.

Thái độ đủng đỉnh của Jin Ti và nhà xuất bản Văn học Nhân dân ở Bắc Kinh mang tính điển hình cho cho các nhà xuất bản và dịch giả trước giai đoạn giữa thập niên 1990. Không ai quá bận tâm về khả năng lợi nhuận – họ đơn giản cho rằng đã là văn học tinh tuý thì chắc chắn bán ế. Nhưng họ cũng cảm thấy có trách nhiệm phải bảo đảm một bản dịch chất lượng cao. Thái độ này hơi lỗi thời một chút, mặc dù chắc chắn trong hệ thống xuất bản trước đây của Trung Quốc, một hệ thống độc quyền xây dựng trên thái độ coi trọng tính tinh hoa về văn hoá, thì một thái độ như vậy là điều dễ hiểu. Vì thế khi được phỏng vấn vào mùa xuân năm 1995, ngay cả khi bản dịch Ulysses của Yilin đã có trên thị trường và đang thu lời, biên tập viên của nhà xuất bản Văn học Nhân dân phụ trách bản dịch chưa hoàn tất của Jin Ti vẫn bình tĩnh giải thích:

“Sau khi tập một được xuất bản [mùa xuân 1994], người đọc trông chờ tập hai. Nhưng bản dịch quá phức tạp, phong cách thay đổi nhiều, và có những vấn đề kỹ thuật. Nói thật, tôi chả quan tâm lắm quyển sách này, và tôi cũng không hiểu nó. Nhưng Jin Ti là một học giả kiểu cổ, rất nghiêm khắc về chất lượng bản dịch, và ông liên tục nhấn mạnh ông sẽ không gấp rút dịch cho xong để in. Vì ông sẽ cảm thấy có tội với cả nhà văn và độc giả. Đến nay vẫn có một chương ông chưa gửi, và vì có nhiều bảng biểu và nốt nhạc trong phần hai tập sách, nên có những vấn đề kỹ thuật. Nên ngay cả tôi cũng không chắc bao giờ tập tiếp theo sẽ xuất bản”.

Tập cuối cùng chỉ được xuất bản vào tháng Ba 1996, hai năm sau tập một. Đến lúc này, ấn bản của Yilin đã chiếm phần lớn thị phần của sách.

Thành công của cuốn Ulysses của Yilin không chỉ phụ thuộc vào tốc độ in. Thực ra, yếu tố quan trọng nhất là chiến dịch quảng cáo của nhà xuất bản, bắt đầu trước khi bản dịch hoàn tất và còn tiếp tục hai năm sau đó. Trong suốt chiến dịch, Yilin chứng tỏ sự nhạy bén kinh doanh, nhấn mạnh đến hiệu năng, tính chuyên nghiệp và sự thực tế lấy độc giả làm trọng – tất cả trái ngược với phong cách của nhà xuất bản Văn học Nhân dân.

Chiến dịch tiếp thị của Yilin bao gồm các chiến lược sau. Thứ nhất, Li quảng bá bản dịch của nhà xuất bản của ông bằng cách nhấn mạnh tiếng tăm của nhà văn và dịch giả. Các tài liệu quảng cáo phân phát trong quá trình dịch thuật cho biết nguồn gốc của “tuyệt tác”, và nhấn mạnh vai trò trung tâm của Joyce trong lịch sử văn học; họ cũng liên tục ca ngợi tài năng dịch thuật và viết văn của Xiao Qian. Cả trước và sau khi sách đã in, Li khuyến khích Xiao tự viết các bài báo giới thiệu tác phẩm, giải thích nội dung, và giải thích độ khó của tác phẩm. Sau khi sách đã ấn hành, Xiao Qian tham gia buổi ký tặng ở nhà sách Tân Hoa ở Thượng Hải. Tháng Năm 1995, nhà xuất bản Yilin tổ chức một hội thảo, “Joyce và Ulysses” với sự tham dự của nhiều học giả và dịch giả nổi tiếng, cùng với đại sứ Ireland và giám đốc Trung tâm Văn hoá Joyce ở Dublin. Diễn biến này được tường thuật trên các báo văn học.

Thứ hai, để làm tăng sự hiếu kỳ của độc giả, nhà xuất bản Yilin nhắc lại những tai tiếng quanh việc in tác phẩm này lần đầu tại châu Âu. Năm 1993, Li Jingduan cho in các lá thư trao đổi giữa ông với Xiao Qian, trong đó họ thảo luận liệu tác phẩm – đặc biệt ở chương 18 gây tranh cãi – có bị cấm vì sự mô tả tâm lý tình dục của nhân vật nữ Molly. Xiao kết thúc lá thư với tuyên bố: “Khác với nửa thế kỷ trước ở châu Âu, chính phủ sẽ không đưa chúng ta ra toà vì cuốn sách này”.

Sau đó, Li mở rộng bình luận này trong một bài báo: “Một cuốn sách tuyệt vời, một cuốn sách khó, và một cuốn sách bị cấm”. Trong đó, ông kể lại phiên toà xử tội tục tĩu ở châu Âu sau khi sách in, và nhắc đến nội dung tính dục, kỹ thuật dòng ý thức và văn phong hiện đại của sách. Độc giả đã cảm thấy thèm trước khi bản dịch xuất hiện.

Thứ ba, nhà xuất bản Yilin rất cố gắng đưa tác phẩm trở nên dễ tiếp thu và hấp dẫn hơn đối với độc giả bình thường. Li Jingduan nhờ Chen Shu, giáo sư môn văn học Ireland ở Đại học Ngoại ngữ Bắc Kinh, viết cuốn Hướng dẫn đọc Ulysses, nhắm tới độc giả Trung Quốc; sách được in cùng lúc với bản dịch. Các quảng cáo thì nhấn mạnh tính chất dễ đọc trong bản dịch, đặc biệt nếu người đọc sử dụng cả sách hướng dẫn của Chen Shu. Quả thực, nếu xét đến tính chất thách thức của nguyên bản, thì bản dịch của Yilin tỏ ra thân thiện với độc giả hết mức. Ông Xiao đã dùng các phương ngữ của người Hoa nhiều hơn Jin Ti, và cách dịch của ông rõ ràng uyển chuyển hơn. Sự khác biệt giữa hai người dịch lớn đến mức báo chí tranh cãi bản dịch nào trung thành hơn với nguyên tác. Nhiều người cảm thấy Jin Ti duy trì cốt cách của nguyên tác tốt hơn so với Xiao.

Xiao đi xa khỏi nguyên bản rõ nhất trong chương cuối cùng. Dòng độc thoại ý thức của Molly được Joyce diễn tả mà không dùng một sự chấm câu nào. Xiao “đánh dấu chấm câu” bằng cách để khoảng trống giữa mỗi câu. Theo Li Jingduan, chính ông đề nghị kiểu này, biện luận yếu ớt rằng tiếng Anh có chữ hoa và trật tự từ nghiêm chỉnh, và rằng nếu không có chấm câu, tiếng Hoa sẽ không thể cho biết câu văn bắt đầu và kết thúc ở đâu. Cuốn sách khó hiểu này sẽ gần như không thể hiểu nổi nếu Xiao không dùng cách thức trên.

Một sáng tạo khác trong bản in của Yilin, cũng nhằm khiến tác phẩm dễ hiểu hơn, là việc họ dùng rất nhiều chú giải ở cuối sách. Bản dịch của Xiao có hơn 6000 chú giải – mỗi chương có hàng trăm giải thích thêm. Ngoài việc giải thích các ẩn dụ, phong tục nước ngoài, tên đặc biệt, thì nhiều dòng chú giải rõ ràng nhắm đến việc giúp người đọc hiểu câu văn. Ví dụ, có dòng chú giải là “Ở đây, anh ta là nhắm chỉ Bloom,” và “Câu này lấy từ dòng thơ trong Hamlet”. Các nhà phê bình đồng ý là Xiao đã hoàn thành một tác phẩm đồ sộ nhưng họ chia rẽ quanh việc liệu các chú giải chi tiết của ông có vi phạm tinh thần của tiểu thuyết hay không – bản thân Joyce không thích việc cung cấp các chú giải như thế. Nhưng ở đây, và trong suốt dự án dịch thuật, Xiao và nhà xuất bản Yilin quyết định đặt nhu cầu của độc giả ở trên sự trung thành toàn diện với tác giả.

Cuối cùng, nhà xuất bản Yilin cung cấp thêm nhiều tư liệu tham khảo trong sách, bao gồm lời nói đầu của dịch giả và phần phụ lục so sánh Ulysses và The Odyssey, Niên biểu về James Joyce. Những tư liệu này cung cấp thông tin nền tảng về tác phẩm, cho phép người đọc Trung Quốc trở thành các nhà bình luận thông hiểu chứ không chỉ kính nhi viễn chi. Nhà xuất bản Yilin thậm chí còn kêu gọi độc giả gửi các bài bình luận về sách, và đăng chúng trong tạp chí Yilin từ năm 1996. Họ cũng tổ chức một hội nghị dành cho người đọc Ulysses tổ chức năm 1995 ở Thượng Hải.

Cuộc “thi tài” này giữa hai nhà xuất bản và các bản dịch Ulysses trở thành một trong những
sự kiện truyền thông được tranh luận nhiều nhất trong năm 1994 và 1995. Báo chí tô vẽ nó thành một cuộc “nội chiến” giữa Bắc (nhà xuất bản Văn học Nhân dân Bắc Kinh) và Nam (nhà xuất bản Yilin của Nam Kinh). Số lượng các bài điểm sách, các đánh giá học thuật về chất lượng bản dịch, và những bình luận khinh thường của các dịch giả về tác phẩm của nhau đã trở thành chất liệu hấp dẫn cho báo chí. Như nhà xuất bản Yilin đã dự đoán khi họ quyết định mở trận chiến, sự tranh cãi đã trở thành quảng cáo miễn phí và giúp tăng doanh số của cuốn sách nổi tiếng khó đọc này. Bằng các kỹ thuật tiếp thị khéo léo, Yilin tranh thủ được vị trí của họ ở thị trường phía nam và phía đông, bán được gần 70.000 bản của tập một trong vòng một tuần tại Thượng Hải, Nam Kinh và Quảng Châu. Những tranh luận cũng giúp cho việc bán tập một của nhà xuất bản Văn học Nhân dân Bắc Kinh, với lần in đầu 10.000 bản bán hết ngay, khiến họ in thêm 40.000 bản khác. Nhưng với lợi thế thời gian khi in toàn tập chỉ trong một năm, và tính chất dễ hiểu của ấn bản đối với độc giả bình thường, Yilin nhanh chóng vượt lên trên về doanh thu. Ulysses bán chạy đến mức năm 1996, Yili in thêm một ấn bản đặc biệt của tác phẩm, và bán được 40.000 bản. Theo một bài báo năm 1996, tổng cộng hai ấn bản của Yilin bán được 150.000 cuốn, đưa tác phẩm vào khu vực sách best-seller.


4. Mở rộng việc dịch sách

Quá trình phát triển của nhà xuất bản Yilin minh hoạ cho sự biến đổi đã diễn ra trong hai thập niên trong lĩnh vực văn học nước ngoài. Mục đích của việc dịch, đối tượng độc giả nhắm đến, lựa chọn sách, tiếp thị và thậm chí bản thân quá trình dịch tất cả phản ánh sự biến đổi này. Ngày hôm nay rõ ràng là, giống như các khu vực văn chương khác ở Trung Quốc, tâm lý hướng tới thị trường ngày càng chi phối việc dịch và in văn học nước ngoài.

Ngoài ra, do việc cởi trói giúp đưa các lực lượng thị trường vào ngành xuất bản sách ở Trung Quốc, văn học nước ngoài không còn là sự độc quyền của một vài nhà xuất bản. Nhiều nhà xuất bản nay tiến vào thị trường sách ngoại văn, từ các nhà mới hình thành như Yilin, đến những nơi trước đây chỉ xuất bản sách Trung Quốc.

Những điều này khiến các nhà xuất bản phải cải tiến chiến lược kinh doanh của họ. Điều này trở nên đặc biệt gấp rút kể từ năm 1992, khi Trung Quốc gia nhập Công ước Berne về bản quyền; kể từ đó, việc in sách ngoại mà không trả tác quyền trở nên khó khăn hơn. Trong hoàn cảnh mới, các nhà xuất bản phải làm việc cật lực hơn để bảo đảm một số tiền lời nhất định khi đầu tư vào các sản phẩm nước ngoài. Vì thế các nhà xuất bản ngoại văn kể từ thập niên 1990 đã có nhiều cách tiếp cận mới để tăng hiệu suất và lợi nhuận.

Đầu tiên, công việc dịch và tiếp thị văn học nước ngoài ở Trung Quốc trở nên toàn cầu hơn, theo nghĩa là các nhà xuất bản giờ đây theo dõi danh sách tác phẩm bán chạy ở nước ngoài sát sao hơn trước đây, và đồng thời bắt chước các mô hình kinh doanh phương Tây khi giới thiệu sách ở Trung Quốc. Một văn bản thuộc dạng này là bản dịch tiếng Hoa năm 1988 của cuốn sách best seller: Popular Fiction of the 1970s của John Sutherland. Cuốn sách này được dùng như một thư mục các tác phẩm ăn khách ở nước ngoài, mà các nhà xuất bản tranh đua để dịch. Nó cũng trở thành một dạng kim chỉ nam cho các nhà xuất bản Trung Quốc trong việc ấn hành các cuốn sách “kiểu Mỹ”.

Thói quen tìm danh sách các tác phẩm ăn khách càng trở nên thông dụng từ giữa thập niên 1990. Kết quả là các bản dịch tiếng Hoa xuất hiện nhanh hơn – đôi khi chỉ vài tháng sau tác phẩm gốc. Một số ví dụ các bản dịch đã khuấy động thị trường Trung Quốc là The Bridges of Madison County (600.000 bản in); The Horse Whisperer (230.000), và Tuesdays with Morrie (300.000). Đối với hầu hết các nhà xuất bản Trung Quốc hiện nay, việc dịch các best seller là lối đi tắt giúp có lợi nhuận cao. Việc sử dụng các best seller có thể giúp giải quyết việc thiếu các bản thảo ăn khách của Trung Quốc và đồng thời giảm rủi ro của việc giới thiệu các tác giả nước ngoài không quen thuộc.

Thập niên 1990 cũng chứng kiến ngày càng có nhiều liên lạc giữa các nhà xuất bản Trung Quốc và nước ngoài thông qua các chuyến thăm, triển lãm sách, và các cơ quan bản quyền đặt tại Trung Quốc và nước ngoài, và có thêm giao tiếp với các nhà xuất bản Đài Loan và Hồng Kông, những nơi cũng in sách dịch phương Tây. Điều này giúp các nhà xuất bản Trung Quốc theo sát thị trường nước ngoài hơn. Một khi nghe về một tác phẩm hấp dẫn, họ có thể trả tiền ngay tức thì bằng Dollar Mỹ - một điều trước đây đòi hỏi thủ tục nhiêu khê. Thường diễn ra các cuộc chiến tranh đua giữa các nhà xuất bản Trung Quốc để giành bản quyền tác phẩm nước ngoài.

Các nhà xuất bản cũng áp dụng các chiến lược quảng cáo như ở phương Tây để giúp các tác phẩm dịch thu hút người đọc ở Trung Quốc. Điều này dễ dàng hơn nhờ họ đã quen với ngành công nghiệp xuất bản phương Tây. Một trong những trường hợp gần đây nhất là việc dịch bộ truyện Harry Potter.

Ngay khi các cuốn truyện của J. K. Rowling làm rung chuyển thị trường phương Tây, nhiều nhà xuất bản lớn của Trung Quốc cùng tham gia giành giật bản quyền bộ truyện. Nhà xuất bản Văn học Nhân dân Bắc Kinh, với danh tiếng lâu đời và khả năng tài chính, đã chiến thắng vào tháng Tám năm 2000. Nơi này thành lập một Nhóm Dự án Harry Potter để phụ trách việc dịch và quảng cáo bộ sách. Đến tháng Mười, chưa đầy ba tháng sau đó, tập một đã đem ra thị trường. Một loạt các sự kiện khuếch trương được thực hiện trên toàn quốc, trong đó có các buổi trình diễn ở các ngày ra mắt sách, tặng quà lưu niệm Harry Potter khi mua sách. Đến mùa hè năm 2001, khi tập bốn phát hành, tổng cộng ba tập đầu tiên đã bán được 13 triệu bản.

Thành công này chắc chắn nhờ vào danh tiếng của cuốn sách ở hải ngoại, nhưng cũng còn nhờ vào sự hoạch định của ban giám đốc mới của nhà xuất bản Văn học Nhân dân, nơi vẫn có truyền thống là bảo thủ và làm ăn kém. Các bản dịch Harry Potter được một nhóm dịch giả nữ hoàn tất với tốc độ nhanh. Nhà xuất bản chọn người nữ để dịch vì họ tin rằng phụ nữ sẽ có thể nắm bắt phong vị của nguyên tác và bắt chước ngôn ngữ thiếu niên thuần thục hơn. Để chống các bản in lậu – vấn đề nghiêm trọng nhất cho các nhà xuất bản sách ăn khách ở Trung Quốc – nhà xuất bản đã đầu tư nhiều cho việc in và trình bày sách. Vì thế sách có bìa mạ vàng, giấy in màu đặc biệt và kèm theo các thẻ đánh dấu trang sách cầu kỳ. Trong việc phát hành, ngoài việc đi qua các kênh chính thức, nhà xuất bản tổ chức một hội nghị đặc biệt của các nhà phát hành sách tư nhân – tại đây, họ giới thiệu sách và kế hoạch quảng cáo. Nhà xuất bản còn dùng công cụ bán hàng mới, internet, nhờ đến các hiệu sách trên mạng của Trung Quốc như BOOK800.com và Bookoo.com quảng cáo và nhận bán sách.

Gần đây, nhà xuất bản Văn học Nhân dân đã ký thoả thuận độc quyền với Time Warner để phát triển các sản phẩm Harry Potter ở Trung Quốc. Đây là ví dụ của việc khai thác một sản phẩm ở nhiều thị trường. Khi phim Harry Potter and the Philosophers’ Stone chiếu ở Trung Quốc năm 2001, trước khi phim bắt đầu là một đoạn quảng cáo trên màn ảnh với dòng chữ: “Bản tiếng Hoa của Harry Potter có thể mua từ nhà xuất bản Văn học Nhân dân” và sách được bán ở hàng lang các rạp chiếu.

Một khía cạnh thứ hai của việc xuất bản sách ngoại văn trong thập niên 1990 là sự cải tiến chất lượng và vỏ ngoài của sản phẩm, đặc biệt trong lĩnh vực sách phổ thông. Trong thập niên 1980, khi các nhà làm sách tư nhân chủ yếu in các truyện rẻ tiền, vấn đề chất lượng sách rất kém. Kể từ đó, các nhà xuất bản bắt đầu in sách ngoại văn và tiêu chuẩn được nâng lên. Như trường hợp của nhà xuất bản Yilin đã chứng tỏ, các nhà xuất bản sách ngoại văn trong thập niên 1990 bắt đầu xem trọng các tác phẩm phổ thông hơn, và đồng thời cũng mở rộng sức thu hút của văn chương nghiêm túc.

Sự thay đổi này là kết quả của các cải tổ chính sách văn hoá và sức ép thị trường. Sau chiến dịch chống xuất bản phẩm bất hợp pháp và khiêu dâm năm 1989-90, khi toàn bộ các nhà xuất bản phải đăng ký lại và nhiều tổ hợp xuất bản phi chính thức bị đóng cửa, cơn sốt xuất bản các truyện giật gân giảm xuống. Các nhà xuất bản quốc doanh nhận ra rằng nếu họ muốn tiếp tục thu lãi từ thị trường sách ngoại văn, và nếu muốn tránh rắc rối với chính quyền, họ sẽ phải cải thiện chất lượng và việc chọn sách dịch. Một số nhà xuất bản tân tiến hơn như Yilin đã giành lấy quyền ấn hành các tác phẩm, thay vì phó mặc cho các nhà làm sách tư nhân.

Về phần người đọc, sau khi sự tò mò của họ về nước ngoài đã được thoả mãn trong thập niên 1980, và khi họ đã có hiểu biết tinh tế hơn về các xã hội khác thông qua kinh nghiệm cá nhân và truyền thông, người đọc bớt say mê mua các cuốn sách được in ẩu tả. Họ đòi hỏi các tác phẩm đa dạng và in ấn đàng hoàng hơn giúp soi sáng và cho họ những trải nghiệm mới.

Trong phần trên, tôi đã mô tả làm thế nào Yilin thành công trong việc đại chúng hoá Ulysses và đưa tác phẩm khó đọc này thành sách ăn khách. Để minh hoạ cho trào lưu ngược lại – việc nâng một tác phẩm phổ thông lên thành một tác phẩm “kinh điển hiện đại” nhờ tiếp thị thông minh – tôi sẽ mô tả một trong những ví dụ quan trọng nhất, ấn bản tiếng Hoa của cuốn Những cây cầu ở quận Madison.

Tiểu thuyết của Robert Waller lần đầu đứng nhất danh sách best seller ở Mỹ vào mùa hè 1993. Sau đó có bản phim của Hollywood, giúp tác phẩm được biết đến nhiều hơn. Nhà xuất bản Văn học Nhân dân mua bản quyền để dịch vào cùng năm đó. Bản in của họ là một sản phẩm chất lượng cao hơn so với đa số các sách ngoại văn được in trước đó. Không giống nhiều bản dịch được thực hiện vội vã, cuốn sách này có văn phong nhuần nhị, đẹp, thể hiện tính chất hồi tưởng lãng mạn của bản gốc. Đây chủ yếu là nhờ người dịch, Zi Zhongyun, một chuyên gia văn học Mỹ tại Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, một người được lựa chọn cẩn thận. Thứ hai, bản in được trình bày sáng tạo. Ấn bản bỏ túi có bìa mềm màu vàng nhạt điểm xuyết các ngôi sao vàng; hình bìa là một bức tranh sơn dầu vẽ chiếc cầu quận Madison. Góc trên phía trái là dòng chữ quảng cáo màu trắng trên nền xanh, như thế độc giả dễ dàng liên hệ đến lá cờ Mỹ khi họ đối chiếu nó với các ngôi sao ở bìa. Dòng quảng cáo cho hay đây là tác phẩm đã “quấy đảo thị trường Mỹ”. Bìa sau lại cám dỗ hơn: “Tại sao người Mỹ yêu thích tác phẩm này? Nó nói gì về tâm lý người Mỹ hiện đại? Đọc sách này sẽ giúp bạn tìm câu trả lời”. Cách trang trí sách hoà hợp với giọng điệu chung của tiểu thuyết, khai thác tình cảm hồi tưởng của sách. Ví dụ, trước mỗi chương là một trang riêng dùng thư hoạ cổ điển ghi lại nhan đề; mỗi trang này cũng lại đi kèm với một tấm hình đen trắng nhỏ chụp một cây cầu ở quận Madison. Chắc chắn ấn bản của Mỹ đã ảnh hưởng đến một số ý tưởng trang trí; nhưng dù vậy, với Trung Quốc thời kì đó, chúng rất sáng tạo và “trang nhã”.

Lượng in đầu tiên năm 1994 là 100.000 – cao bất thường tại một nhà xuất bản bảo thủ như Văn học Nhân dân. Cuốn sách không ăn khách ngay, có lẽ một phần vì chiến dịch tiếp thị không thật nhiệt tình của nhà xuất bản. Tuy nhiên, việc rỉ tai nhau và đặc biệt việc chiếu bộ pihm Hollywood có Meryl Streep và Clint Eastwood – một trong 10 phim nước ngoài được nhập năm 1996 – đã làm doanh số tăng mạnh. Đến cuối 1996, hơn 600.000 bản đã bán hết. Một yếu tố quan trọng khác giúp tăng doanh số là một cuộc tranh luận toàn quốc bất ngờ nhanh chóng lan rộng trên truyền thông quanh giá trị mỹ học và đạo đức của cuốn tiểu thuyết và bộ phim. Nhiều người đọc Trung Quốc cảm thấy các giá trị tình yêu và lòng trung thành gia đình mà họ ghi sâu đang bị thách thức và đảo lộn trong thời kì chuyển tiếp xã hội. Họ muốn có một tình yêu sâu sắc và xứng đáng giữa các nhân vật chính trong truyện, muốn có sự đơn giản cho việc giải quyết mối quan hệ ngoài hôn nhân, và họ đối lập điều này với thực tại trong xã hội Trung Quốc. Độc giả từ mọi nhóm xã hội đã tham gia tranh luận, và trong đa số trường hợp họ ca ngợi cuốn sách là hình mẫu nâng cao giá trị tình yêu và gia đình.

Những cây cầu ở quận Madison là một tác phẩm lãng mạn phổ thông điển hình tại phương Tây, không được các nhà phê bình nghiêm túc đánh giá thật cao; nhưng nhà xuất bản Trung Quốc lại có thể tiếp thị nó như một “tác phẩm cổ điển”. Các nhà xuất bản ở Trung Quốc cũng đã quảng cáo các tiểu thuyết phổ thông phương Tây như là tác phẩm kinh điển thật sự, như trường hợp Cuốn theo chiều gió Tiếng chim hót trong bụi mận gai. Rõ ràng họ khai thác sự yêu chuộng các sản phẩm “kinh điển” của người Trung Quốc và sự kém quen thuộc truyền thống văn học phương Tây để giúp tăng doanh thu bán sách.

Một trong những ví dụ đáng chú ý nhất của xu hướng này là loạt sách Các kiệt tác nước ngoài và phần tiếp theo, của nhà xuất bản Dịch thuật Thượng Hải. Loạt sách kết hợp các tác phẩm nghiêm túc và những sách ăn khách ở nhiều giai đoạn và quốc gia khác nhau. Các tựa sách, cộng thêm cả phần tiếp theo của chúng, gồm những sách như Jane Eyre, Kiêu hãnh và Định kiến, Những người khốn khổ, Chuyện tình, và Cuốn theo chiều gió. Đa số các phần tiếp theo không dính dáng gì đến nguyên tác, và nói chung có chất lượng đáng ngờ vì do các cây bút hoàn toàn khác viết ra; tuy nhiên, chúng thường bán chạy không kém nguyên tác. Đặc biệt trong trường hợp cuốn Scarlet – phần tiếp theo của Cuốn theo chiều gió, do Alexandra Ripley chấp bút – nhà xuất bản đã biết tận dụng cơn sốt truyền thông ở phương Tây quanh phần tiếp theo này cũng như bộ phim cổ điển dựa trên nguyên tác. Kết quả là tác phẩm bán được hơn 160.000 bản sau khi ấn hành năm 1996, mặc dù có giá cao lên đến 25,80 Nhân dân tệ.

Dĩ nhiên không phải best seller nào ở phương Tây cũng có thể ăn khách ở Trung Quốc. Có những thể loại thường bán rất chậm. Ví dụ, các tiểu thuyết của Stephen King vẫn chưa “cất cánh” được trên thị trường Trung Quốc, có lẽ bởi vì Trung Quốc không có truyền thống truyện kinh dị. Truyện khoa học cũng là một lĩnh vực rủi ro; độc giả bình thường ở Trung Quốc có vẻ thích những câu chuyện “gần với đời sống” hơn.

Các sách dịch của Trung Quốc nói chung đã cải tiến cả về chất lượng và sự đa dạng. Tuy nhiên, việc có mặt của cơ chế thị trường trong lĩnh vực xuất bản sách ngoại văn cũng dẫn đến nhiều vấn đề. Hai trong số các than phiền phổ biến nhất ở những dịch giả và độc giả là chất lượng dịch không bảo đảm và việc xuất bản chồng chéo. Hiện nay nhiều nhà xuất bản cùng lấn sân trong khu vực sách dịch, nhưng nhiều nơi không dùng các biên tập viên có trình độ, và họ cũng thường không tiếp cận được các dịch giả chuyên nghiệp. Kết quả là mặc dù số đầu sách ngoại văn tăng lên, nhưng nhiều bản dịch không chuẩn, thậm chí sai lạc.

Việc xuất bản chồng chéo là một hiện tượng liên quan khác. Vì thiếu các dịch giả giỏi, và không thể trả quá nhiều tiền cho vấn đề bản quyền, nhiều nhà xuất bản cứ in lại các bản dịch cũ của các tác phẩm cũ không còn thời hạn bảo hộ bản quyền. Xu hướng này thấy rõ nhất trong khu vực sách “cổ điển” trước thế kỷ 20. Việc mua lại hoặc thậm chí “cắt và dán” các bản dịch cũ rất hay xảy ra. Các bản dịch cũ được tái sinh qua những bìa sách và nhan đề khác nhau. Chuyện này khiến thị trường bị bão hoà; nó cũng không cho người đọc có chọn lựa thật sự và khiến họ bị nhầm lẫn mua phải những cuốn mà mình đã có.

Shakespeare là một ví dụ điển hình cho việc xuất bản chồng chéo. Trước năm 1995, nhà xuất bản duy nhất in Shakespeare ở Trung Quốc là nhà xuất bản Văn học Nhân dân, với bộ Toàn tập tác phẩm Shakespeare in năm 1978, dựa trên bản dịch của Zhu Shenghao thực hiện hồi thập niên 1930 và 1940. Năm 1996, năm năm sau khi Zhu qua đời và bản quyền bản dịch hết hạn, nhiều nhà xuất bản lập tức ấn hành các bản in khác nhau. Vào tháng Giêng, có hai nhà xuất bản cùng ấn hành bộ Toàn tập tác phẩm Shakespeare – đều chỉ in lại bản dịch của Zhu. Sự khác biệt duy nhất là một bản thì có sự chỉnh lý và sửa đổi đôi chút do một nhóm chuyên viên thực hiện. Đến tháng Ba, nhà xuất bản Nhân dân Nội Mông nhập về bản dịch Shakespeare của Liang Shiqiu từ Đài Loan; ấn bản này gồm cả thơ và kịch, trong bộ tám tập, cũng đặt tựa là Toàn tập tác phẩm Shakespeare. Đến năm 1997, nhà xuất bản Yilin công bố bộ Toàn tập tác phẩm Shakespeare, bốn quyển, dựa trên bản dịch của Zhu nhưng do Qiu Ke’an sửa chữa. Cùng lúc đó, nhà xuất bản Điện ảnh Trung Quốc và nhà xuất bản Văn nghệ Quần chúng cùng ấn hành Tuyển tập Shakespeare, và một nhà khác cho in Toàn tập thơ Shakespeare. Chúng cũng lại chỉ là in lại từ bản dịch của Zhu. Bản dịch thật sự mới duy nhất trong thời kì này là Bản dịch mới các tác phẩm của Shakespeare của nhà xuất bản Giáo dục Hồ Bắc.

Thị trường sách dịch, cả sách phổ thông và nghiêm túc, tiếp tục mở rộng trong thập niên vừa qua, và nhìn chung, chất lượng của việc chọn sách và tính hiệu quả trong quảng cáo đã cải thiện nhiều. Việc tiếp thị khéo léo đã giúp các nhà xuất bản bán được các sách khó đọc cho độc giả bình thường với số lượng chưa từng thấy, và việc theo dõi thị trường sách ăn khách và bắt chước các kỹ thuật xuất bản phương Tây đã giúp tăng mức độ thành công khi đưa sách nước ngoài vào Trung Quốc.

Giống như các lĩnh vực khác của ngành xuất bản, tuy còn nhiều vấn đề, nhưng việc thương mại hoá thị trường sách dịch nói chung đã có ảnh hưởng tích cực giúp tạo nên sự phong phú đầu sách và có thêm lựa chọn cho những độc giả quan tâm đến thế giới bên ngoài Trung Quốc.


© 2005 talawas
Nguồn: Trích từ chÆ°Æ¡ng Năm, tác phẩm Consuming Literature: Best Sellers and the Commercialization of Literary Production in Contemporary China của Shuyu Kong (Stanford, CA: Stanford University Press, 2005)