trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 227 bài
  1 - 20 / 227 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Văn họcVăn học Việt NamDịch thuật
21.7.2005
Bùi Hoằng Vị
Bản dịch
 
Au rez-de-chaussée du Paradis. Récits vietnamiens 1991-2003
Tháng Giêng tôi nhận được sách của nhà Philippe Picquier, quyển Au rez-de-chaussée du paradis – tuyển tập 14 truyện ngắn Việt Nam do Ðoàn Cầm Thi tuyển chọn và chuyển Pháp ngữ. Sách in lịch sự, giá bìa 19 euro, truyện của tôi ở cuối, nhà xuất bản lấy tựa làm tựa chung cho tuyển tập (theo lời dịch giả [1] ).

Dư luận đánh giá quyển sách là một thành công về dịch thuật. Hiển nhiên, nắm bắt và chuyển tải được 14 văn cách khác nhau của 14 người viết khác nhau là một việc đáng khâm phục. Không rõ 13 tác giả còn lại đã có thể nói hài lòng với dịch giả như thế nào, phần tôi, sẵn lòng xác nhận bản dịch đã tái hiện một tỉ lệ lớn phần trăm diện mạo của truyện, mặc dù nó chưa hẳn đã là văn bản chuyển ngữ vừa ý người dịch nhất trong số 14 cái của tuyển tập.

Một lời cảm ơn là điều tôi còn nợ đối với dịch giả, và hẳn tôi nên thực hiện nó ở đây. Tôi cảm ơn chị vì nhiều lẽ. Thứ nhất, chị đã làm một việc đòi hỏi hi sinh nhiều công sức và thời gian. Dịch văn, đúng vậy, ai đã trải qua đều rõ, là một công việc khổ sai. (Giữa năm 2002 tôi cũng đã dịch cùng một cái truyện ấy, do đề nghị của Nguyễn Hưng Quốc và Hoàng Ngọc-Tuấn, để sử dụng trong một bộ phận của tuyển tập văn học khu vực mà hai anh được/bị mời phụ trách; qua đó, tôi biết thế nào là dịch. Mặc dầu kết quả ghi nhận là được rồi, tôi vẫn nhớ ngày đó đã tìm, dù không thành công, mọi cớ để thoái thác khỏi cái việc dịch ấy. Tôi không là người thích việc, chưa nói việc khổ sai.) Lý do thứ hai tôi cảm ơn Ðoàn Cầm Thi là qua bản dịch của chị, tôi có thể học hỏi nhiều kinh nghiệm nghề nghiệp – những thủ pháp chuyển ngữ linh hoạt, không lệ thuộc vào cấu trúc bề mặt của ngôn ngữ gốc. Cụ thể, ngay tựa đề, một cấu trúc danh ngữ, người dịch đã thay thế bằng một giới ngữ [2] , cũng như sau đó, một danh ngữ khác lại được chuyển hẳn thành câu, thay vì duy trì một cấu trúc tương đương [3] . Có chỗ, một câu sẽ chỉ còn lại là một giới ngữ, hay đúng hơn, một câu elliptique [4] , và ở chỗ khác, một thành phần câu có thể được cắt bỏ [5] , hoặc thêm vào [6] , hoặc biến đổi [7] . Cũng có lúc cùng một từ trong bản gốc, ngưòi dịch đã xử lý khác nhau theo ngữ cảnh [8] , tạo những khác biệt bất ngờ và không gây tổn hại. Các thủ pháp phổ biến khác, phép cộng và phép chia, cũng đã được sử dụng: Vài câu trong bản gốc có thể được tổng hợp thành một trong bản dịch [9] , hay ngược lại, một câu gốc cũng có thể được cắt thành hai hay ba [10] . Vân vân. Cố nhiên, cũng có lúc kỹ thuật transformation được dịch giả đẩy đi xa, nhưng tôi không phản đối hay đề nghị dịch lại cho gần hơn với câu gốc [11] ; tôi chấp nhận các biện pháp transformation với mục đích bảo đảm sự trôi chẩy tự nhiên cho dịch phẩm, bao lâu nó không làm hỏng tinh thần bản gốc.

Một điều vẫn khiến tôi rất tiếc, là đã không kịp gửi dịch giả văn bản truyện trước khi chị bắt đầu công việc, và bản dịch dường như đã được tiến hành trên cơ sở một văn bản khác với cái tôi đang có [12] . Kết quả là có một câu tôi đã cắt bỏ nhưng vẫn được dịch [13] . Mặt khác, trong bản tiếng Việt được dịch giả sử dụng có khả năng tồn tại những lỗi do đánh máy, và điều đó đã tạo ra những khoảng cách đôi khi ngoài dự liệu về nghĩa cũng như về cách hiểu giữa bản dịch và bản gốc của truyện, chẳng hạn:

Trang 231: Qu’est-ce que le temps? Est-ce cette durée mesurée par les fuseaux horaires, que les humains se contentent de dévorer? (Lại thời gian! Cái gì vậy? Có phải mớ khái niệm gắn liền với từng múi giờ, mà bầy hữu thể có đuôi nào đó cam lòng chia nhau gặm nhắm?)

Trang 231: Que son temps soit illimité ou défini, il ne veut pas l’exprimer par ce langage imparfait et vulgaire. Ce temps doit être prouvé et interprété selon des critères transcendentaux, au-delà de sa conscience et de son imagination. (Thời gian của anh là mênh mang vô bờ bến, hay co xoắn đậm đặc, theo cách nào đó, anh không thể diễn tả bằng ngôn ngữ phàm tục bất toàn; nó phải được thể nghiệm và diễn giải theo những phạm trù siêu việt hẳn, vượt khỏi tầm với của ý thức lẫn tưởng tượng anh.)

Trang 232: Il est prouvé qu’en bas, les fémelles restent plusieurs heures devant leur miroir à peindre et repeindre les contours de leur visage à l’aide de produits de luxe. Elles doivent être bien laides. (Ðã được chứng minh là ở dưới ấy những hữu thể có đuôi, giống cái, phải ngồi trước gương hàng giờ và tô đi tô lại đường viền những lỗ thủng trên mặt bằng những mỹ phẩm thượng thặng. Họ hẳn phải xấu xí.)

Trang 232: Septième station. Cliquetis de verres. Rires. Voeux. Une fête. Tchin-tchin! À l’occasion du 1991e anniversaire de ... (Kênh bẩy. Tiếng cốc tách chạm nhau. Tiếng cười. Tiếng chúc tụng. Một buổi liên hoan. Nào, nào, xin cạn ly, nhân kỷ niệm lần thứ 1991 ngày qua đời của ...)

. . . . . . .

Dù sao, khoảng cách là điều chúng ta đã quen; nó có gốc rễ ngay trong bản thân ngôn ngữ, trong tính hai mặt của ngôn ngữ, và không thể khắc phục; kết quả là hai cá thể khác nhau không phải lúc nào cũng nắm bắt trọn vẹn những thông điệp gửi cho nhau qua lời nói hay chữ viết. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu xẩy ra có những bằng hữu dù thâm giao vẫn không xóa bỏ được khoảng cách ấy. Trường hợp Ðinh Linh chuyển ngữ bài thơ “Sân khấu quay” của Nguyễn Quốc Chánh chẳng hạn, là một thí dụ [14] , qua đó, từ đầu tiên [15] đã được hiểu thành một nghĩa xa lạ [16] ; nguyên do cũng không ở ngoài bản chất nhị nguyên cố hữu của ngôn ngữ.

Thành công của một bản dịch có thể được ghi nhận khác nhau từ những góc nhìn khác nhau. Người nhìn vào số lượng độc giả bị thu hút, người khác – các bài báo khen chê của các nhà phê bình, nghiệp dư hay chuyên nghiệp; với người khác nữa, là những tiêu chí khác nữa, và dường như tất cả đều có lý. Với tôi, ở góc độ nghề nghiệp, có thể nhìn vào mức độ nó giảm thiểu được khoảng cách đến văn bản gốc, không chỉ về ngữ nghĩa, mà còn các ý đồ văn học cùng các phương tiện ngôn ngữ đặc thù nhằm thể hiện những ý đồ ấy trên văn bản. Quyển Au rez-de chaussée du paradis của Ðoàn Cầm Thi, nói chung, tôi tin là một thành công đáng kể, dù nhìn từ góc độ nào.

Nhưng, nếu lao động và tài năng của dịch giả là nguyên nhân chủ yếu đem lại thành công cho quyển sách, thì vẫn phải ghi nhận một yếu tố tích cực nữa, tuy không là quan trọng nhất, song thật sự gây cho tôi ấn tượng lớn lao: Cách thức tiến hành công việc chuyên nghiệp và hiệu quả của chị – tiếp cận tác giả, thông tin, cũng như hỗ trợ các thủ tục liên quan đến nhà xuất bản, từ ký hợp đồng, nhuận bút, đến sách tặng, vân vân, đã giúp mọi việc trôi chẩy tốt đẹp, lịch sự và văn minh, ở mức cao nhất có thể. Và điều đó cũng là lý do thứ ba tôi cảm ơn chị.

Sài Gòn, 17/ 07/ 2005

© 2005 talawas



[1]http://evan.com.vn/Functions/WorkContent/?CatID=11&TypeID=38&WorkID=1394&MaxSub=1394
[2]Tầng trệt → Au rez-de-chaussée (tr. 229)
[3]“Hai hữu thể có cánh” → “Deux êtres portent des ailes” (tr. 229), thay vì “Deux êtres ailés” chẳng hạn.
[4]“Không thể vui thế được!” → “A cette joie !” (tr. 230)
[5]như trạng từ “bất giác” trong “Hữu thể kia bất giác ngẩng đầu” được cắt bỏ → “L’autre lève la tête” (tr. 230)
[6]như phân từ “répétés” trong danh ngữ “Grincements répétés d’un lit” (tr. 232)
[7]như tính từ “nghiêm túc” → “raisonnables” trong mệnh đề “Ces choses, si raisonnables soient - elles” (tr. 231)
[8]đại từ nhân xưng “anh” → “il”, ”le”, ”lui”, ở phần lớn các đoạn → “l’homme” (tr. 229) → “vous” (tr. 230)
[9]như hai câu “Anh vẫn không buồn nghe. Sự chú ý của đôi tai anh đột ngột được dành cho những âm thanh đang vọng xuống từ những tầng trên ...“ → “Il n’écoute toujours pas et soudain s’intéresse aux bruits provenant des étages supérieurs ...” (tr. 230)
[10]như câu “Anh dừng bút, nhưng không có ý lắng nghe, chỉ lơ đãng đưa mắt nhìn sang phải, ở đó, một mảng vôi xám nữa vừa rơi xuống từ cái vách ố bẩn, la liệt những chữ Dieu, Love, Rai, ... viết nguệch ngoạc bằng phấn và than, chung quanh những nét vẽ, còn nguệch ngoạc hơn, phác thảo chân dung của Thượng Ðế, vẻ mặt vừa đáng kính vừa đáng ngờ, với một vòng hào quang mầu hoen rỉ.” → “Il cesse d’écrire, mais sans avoir l’air d’écouter, il regarde avec négligence un morceau de plâtre gris qui vient de tomber du mur à droite, entaché et constellé de graffitis à la craie et au charbon – Dieu, Love, Rai ... A côté, un dessin encore plus confus represente Dieu au visage à la fois respectable et suspet, son auréole est comme couverte de rouielle.” (tr. 230)
[11]như câu “Cũng như có thể nào tìm thấy một điều gì khác hơn là cây bút xấu xí này, để cho anh trang trải hết cái chiều kích ghê gớm của Thiên Thu?” → “De même, que pourrait - il écrire avec cet affreux stylo sinon les formidables dimensions de l’Eternité?” (tr. 234)
[12]http://vannghe.free.fr/buihoangvi/tttd/index.html
[13]“Ce cercle doré, n’est-il pourtant pas considéré comme une valeur infrangible et éternelle?” (tr. 230)
[14]http://www.tinfishpress.com/vietnamese.pdf
[15]“Cột sống”
[16]“The life column”