trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 177 bài
  1 - 20 / 177 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tủ sách talawas
6.10.2005
Milovan Djilas
Giai cấp mới
10 kì
Phạm Minh Ngọc dịch
 1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11 
 
5.

Mâu thuẫn này cùng với việc người cộng sản luôn luôn coi nhà nước là và chỉ là cơ quan chuyên chính đã dẫn đến kết quả là nhà nước cộng sản không thể trở thành nhà nước pháp quyền, nghĩa là nhà nước với toà án không phụ thuộc vào chính quyền còn pháp luật thì được tôn trọng trên thực tế.

Hệ thống không chấp nhận một nhà nước như thế. Ngay cả khi các lãnh tụ cộng sản muốn xây dựng một nhà nước pháp quyền thì họ cũng không thực hiện được vì nó sẽ là mối đe doạ cho chế độ toàn trị của họ.

Sự độc lập của toà án và tuân thủ pháp luật nhất định sẽ dẫn tới đối lập. Không có điều luật nào của cộng sản cấm, thí dụ, tự do tư tưởng hay tự do lập hội. Trên cơ sở các nguyên tắc độc lập của toà án, luật pháp phải đảm bảo các các quyền tự do công dân khác nữa.

Nhưng trên thực tế những điều đó chưa bao giờ được thực hiện.

Công nhận về mặt hình thức các quyền tự do công dân, chế độ cộng sản lại đặt ra điều kiện tiên quyết: chỉ được sử dụng các quyền ấy vì mục đích của “chủ nghĩa xã hội” mà các lãnh tụ cổ xuý nghĩa là ủng hộ cho quyền lực của họ.

Tương tự như vậy, không thể nào tách quyền lực của cảnh sát khỏi quyền lực của tư pháp. Người ra lệnh bắt giam, khởi tố trên thực tế cũng là người nắm quyền kết án và thi hành án. Một vòng tròn khép kín: chính quyền hành pháp và lập pháp chỉ là một, các cơ quan điều tra, xét xử và trừng phạt cũng là một nốt.

Thế thì tại sao chuyên chính cộng sản lại cần pháp luật, tại sao họ lại che đậy bằng sự tuân thủ pháp luật?

Ngoài lí do chính trị, lí do tuyên truyền, nếu chế độ muốn tồn tại nó phải đảm bảo tính pháp lí cho những kẻ mà nó dựa vào, nghĩa là tính pháp lí cho giai cấp mới.

Luật pháp được soạn thảo do nhu cầu và quyền lợi của đảng, của giai cấp mới. Về mặt hình thức pháp luật bảo vệ quyền lợi của tất cả công dân nhưng trên thực tế nó chỉ bảo vệ quyền lợi của những người không bị coi là “kẻ thù của chủ nghĩa xã hội”. Vì vậy những người cộng sản luôn bị đau đầu vì trò chơi luật pháp do chính họ viết ra nhưng rồi lại bị họ phủ nhận ngay khi cần. Sau một thời gian, khi đã nhận ra nguyên nhân “đau khổ” của mình, để đơn giản hoá trò chơi pháp luật họ thường sáng tác ra những luật lệ “vá víu” có thể giải thích thế nào cũng được.

Thí dụ ở Nam Tư luật ghi rằng không thể kết án một người nếu hành vi của người đó không được xác định rõ ràng theo các khung pháp lí. Nhưng đa số các vụ án chính trị lại được thực hiện theo cách gọi là “tuyên truyền xuyên tạc”. Người ta không dựa vào luật để giải thích khái niệm này, nó được trao cho các quan toà với lực lượng cảnh sát mật đứng đằng sau.

Như vậy là các vụ án chính trị trong chế độ cộng sản chỉ là những cuộc trình diễn, nghĩa là toà án được giao nhiệm vụ chứng minh “tội lỗi” của bị cáo phù hợp với yêu cầu của những kẻ đương quyền. Nói các khác, toà án có trách nhiệm đưa những kết luận chính trị đã được chuẩn bị trước vào trong khung pháp luật hiện hành.

Trong cách xử này việc thú nhận của bị cáo đóng một vai trò quan trọng (có thể là quan trọng nhất). Bị cáo phải tự nhận là kẻ thù. Không cần chứng cớ gì hết, chứng cớ được thay bằng lời thú tội của chính bị cáo.

Cái gọi là “Những vụ án Moskva” chỉ là những thí dụ lố bịch và đẫm máu nhất của trò hề về pháp luật trong chế độ cộng sản mà thôi. Các vụ việc cụ thể cũng như mức án chỉ đóng vai trò thứ yếu.

Các vụ án chính trị được bày đặt như thế nào?

Đầu tiên cảnh sát mật, theo “gợi ý” của cán bộ đảng, “phát hiện” được một người nào đó là kẻ thù của chế độ, là cái gai của chính quyền vì anh ta công khai bảo vệ một quan điểm nào đó hoặc anh thảo luận quan điểm đó với bạn bè của mình. Nếu việc “phát hiện” thành công thì sẽ đến giai đoạn hai, giai đoạn đưa nạn nhân vào bẫy. Người ta sẽ sử dụng một kẻ khiêu khích để thu thập những “bằng chứng có tính chất phá hoại” hoặc doạ dẫm một kẻ nào đó và bắt phải kí những tài liệu vu khống mà cảnh sát đưa cho. Đa số các tổ chức bí mật là do chính cảnh sát lập ra để bẫy các phần tử bất đồng ý kiến. Chế độ cộng sản không tìm cách ngăn chặn mà ngược lại còn cố tình đẩy các công dân “không đáng” tin đến những hành động sai trái và tội lỗi khác nhau để trừng phạt họ.

Stalin đã làm như vậy, có cả tra tấn và không cần toà án. Ngay cả trong trường hợp có toà án và không tra tấn thì thực chất cũng vẫn thế: cộng sản thanh toán những người chống đối mình không phải vì họ vi phạm pháp luật mà chỉ vì họ là những phần tử chống đối. Vì vậy có thể nói rằng: đa số tù nhân chính trị thực chất là những người chống đối chế độ, nhưng theo quan điểm của luật pháp thì họ không phải là tội phạm. Nhưng người cộng sản lại cho rằng họ đáng bị trừng phạt dù không có cơ sở pháp lí để làm chuyện đó.

Khi có các cuộc nổi dậy của quần chúng, chính quyền cộng sản đã thẳng tay đàn áp mà không cần để ý đến tính hợp hiến và hợp pháp của những hành động đó. Lịch sử hiện đại chưa từng biết đến những vụ đàn áp dã man đến như thế. Vụ đàn áp ở Poznan gây nhiều tai tiếng nhưng chưa phải là vụ đẫm máu nhất. Quân đội chiếm đóng cũng như chính quyền thuộc địa dù là người ngoài, dù hành động theo những biện pháp khẩn cấp cũng ít khi sử dụng những biện pháp dã man như thế. Những nhà cầm quyền cộng sản đã chà đạp pháp luật và tiến hành khủng bố ngay chính nhân dân mình.

Trong chế độ cộng sản, các lí thuyết về luật pháp bị bóp méo cho phù hợp với hoàn cảnh và nhu cầu của nhóm chóp bu đương quyền.

Ngay trong những vấn đề không liên quan gì đến chính trị, luật pháp cũng thường bị vi phạm. Giai cấp toàn trị vẫn hàng ngày hàng giờ can thiệp cả vào những lĩnh vực này.

Bài báo ngắn trên tờ Chính sách được trích dẫn dưới đây đủ nói lên vai trò và vị trí của toà án ở Nam Tư, nơi luật pháp nói chung được tôn trọng hơn so với các nước cộng sản khác.

“Trong cuộc hội thảo kéo dài hai ngày dưới sự chủ trì của công tố viên liên bang, đồng chí Brana Evremovich, khi thảo luận các vấn đề liên quan đến tội phạm kinh tế, các công tố viên các nước cộng hoà và hai tỉnh Voevodin và Belgrad đều nhất trí cho rằng muốn ngăn chặn hữu hiệu các tội phạm kinh tế cần phải kiên quyết và sự phối hợp giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan kinh tế và tất cả các tổ chức chính trị…

Mọi người đều nhất trí rằng cho đến nay xã hội chưa phản ứng đúng mức đối với các loại tội phạm kinh tế…

Các công tố viên đều cho rằng xã hội cần phản ứng một cách hữu hiệu hơn nữa. Họ cho rằng cần phải xử lí nghiêm khắc về mặt pháp luật, bên cạnh những biện pháp hành chính khác….

Các sự kiện được dẫn ra trong các báo cáo đã chứng minh một cách thuyết phục rằng những lực lượng bị thất bại trên trường chính trị đang cố gắng báo thù trong lĩnh vực kinh tế. Như vậy vấn đề tội phạm kinh tế trong giai đoạn hiện nay không chỉ là vấn đề pháp lí mà còn là vấn đề chinh trị, đòi hỏi sự phối hợp của công tố với các cơ quan chính quyền và tổ chức xã hội…

Tổng kết buổi thảo luận, công tố liên bang, đồng chí Brana Evremovich, nhắc lại rằng cần phải tuân thủ pháp luật cũng như sự nghiêm khắc mà các đồng chí lãnh đạo cấp cao đã phê phán những cá nhân phạm các tội về kinh tế» (Chính sách, ngày 23 tháng 2 năm 1955)

Như vậy là các công tố đã quyết định đường lối xử án và cách thực thi án phát cho các quan toà trên cơ sở tâm trạng của “lãnh đạo cấp cao”.

Sự độc lập của toà án và tinh thần thượng tôn pháp luật ở đâu?

Trong chế độ cộng sản, lí thuyết về pháp luật được cải biến theo hoàn cảnh và nhu cầu của nhóm chóp bu nắm quyền. Hình phạt theo nguyên lí của Vưshinski phải được quyết định trên “nguyên tắc đích xác”, nghĩa là không được để cho các tính toán chính trị làm ảnh hưởng đến quyết định của toà. Nhưng cho dù người ta có áp dụng các nguyên lí nhân bản và khoa học hơn thì thực chất vẫn không thay đổi nếu quan hệ giữa chính quyền, toà án và luật pháp vẫn giữa nguyên như trước.


6.

Trật tư pháp luật cộng sản không thể tránh khỏi bệnh hình thức, vai trò của các tổ chức đảng và cảnh sát trong thủ tục tố tụng cũng rõ ràng như trong hệ thống bầu cử và các lĩnh vực khác. Thế vẫn chưa hết. Càng lên cao thì sự thượng tôn pháp luật càng có tính cách trang trí và ảnh hưởng của chính quyền đối với toà án và các cuộc bầu bán càng tăng.

Mọi người đều biết sự trống rỗng và phô trương của các cuộc bầu cử dưới chế độ cộng sản, nói theo Clement Rechard thì là: “cuộc đua một ngựa”. Tôi nghĩ rằng cũng cần thảo luận về việc tại sao những người cộng sản lại cần những cuộc bầu bán không hề có ý nghĩa gì đối với việc phân bố lực lượng cũng như tại sao họ lại cần cái quốc hội khá tốn kém mà chẳng được tích sự gì.

Ngoài lí do tuyên truyền, lí do đối ngoại và những lí do khác tương tự, có một việc mà không chính quyền nào, kể cả chính quyền cộng sản có thể bỏ qua, đấy là mọi sự đều phải được hợp pháp hoá. Trong điều kiện hiện nay thì hợp pháp hoá là thông qua các đại diện dân cử. Nhân dân có trách nhiệm ủng hộ mọi quyết định của những người cộng sản, dù chỉ là hình thức.

Bên cạnh đó còn một nguyên nhân sâu xa nữa giải thích lí do vì sao các lãnh tụ cộng sản lại phải “nuôi” quốc hội: các chính sách của chính phủ-giới chóp bu của giai cấp mới phải được giới chức đảng ủng hộ. Không cần quan tâm tới dư luận xã hội, nhưng tất cả các chính phủ cộng sản đếu phải quan tâm tới dư luận trong đảng, dư luận trong các đảng viên cộng sản.

Đấy là lí do vì sao bầu cử chẳng có ý nghĩa gì nhưng việc chọn người lại được các cấp lãnh đạo thực hiện một cách vô cùng thận trọng. Hàng loạt khía cạnh được cân nhắc: đóng góp, vai trò và chức năng trong xã hội, nghề nghiệp, vv... Đối với lãnh đạo thì các cuộc bầu cử có ý nghĩa rất lớn vì họ có thể xếp bên cạnh mình những lực lượng mà họ coi là có giá trị, cũng có nghĩa là tạo cho chính mình tính hợp pháp trước đảng, trước giai cấp và nhân dân.

Những thử nghiệm nhằm đưa hai ba ứng viên cho một ghế đại biểu trong các cuộc bầu cử quốc hội đều thất bại. Nam Tư đã tiến hành các cuộc bầu cử như vậy nhưng sau đó đã bị lãnh đạo gán cho nhãn “chia rẽ”. Có những tin tức nói rằng tại các nước Đông Âu cũng đang tiến hành việc có nhiều ứng viên cho một ghế đại biểu. Giả sử chuyện đó có xảy ra thì tôi cho rằng khả năng thành công là rất thấp, mặc dù đây là một bước tiến hay có thể nói là sự khởi đầu của quá trình dân chủ hoá. Tôi nghĩ rằng Đông Âu rồi cũng đi theo mô hình “tự quản” của Nam Tư chứ chưa thể dẫn đến quá trình dân chủ hoá hoặc phân hoá trong hàng ngũ đảng cầm quyền được. Hạt nhân chuyên chế nhận thức được rằng nó sẽ gặp nhiều rắc rối nếu không giữ vững sự thống nhất truyền thống và vì vậy vẫn nắm giữ chặt quyền điều khiển. Mọi sự tự do, kể cả tự do trong đảng, đe doạ không chỉ quyền lực của các lãnh tụ mà đe doạ ngay chính chế độ toàn trị.

Quốc hội cộng sản không chỉ không đưa ra các quyết sách quan trọng, thực ra nó không có khả năng làm việc đó. Biết trước rằng sẽ được bầu, hả hê vì được tham gia vào toàn bộ tiến trình kể từ lúc lập danh sách ứng viên, các đại biểu, dù có muốn cũng không có sức lực và dũng khí để có thể tranh luận. Hơn nữa họ được uỷ quyền không phải bởi cử tri cho nên họ cũng không phải chịu trách nhiệm với cử tri. Họ chỉ có mỗi một quyền là thỉnh thoảng lại ủng hộ một trăm phần trăm những quyết định đã được giải quyết sau hậu trường. Hệ thống cũng cần chính một quốc hội như thế, cho nên nếu có trách thì chỉ trách là nó quá tốn kém và vô tích sự.

Nhà nước cộng sản được xây dựng trên cơ sở bạo lực và đàn áp, luôn luôn xung đột với nhân dân, cho nên ngay cả khi không có tác nhân bên ngoài thì vẫn là một bộ máy nhà nước quân phiệt. Không ở đâu sự tôn sùng sức mạnh, đặc biệt là sức mạnh quân sự, lại được đề cao như trong các nhà nước cộng sản. Chủ nghĩa quân phiệt là nhu cầu nội tại của giai cấp mới, là một trong những hình thức tồn tại của nó và đồng thời cũng là tác nhân củng cố đặc quyền đặc lợi của nó.

Là một tổ chức mang tính bạo lực, và khi cần thì chỉ thực hiện vai trò bạo lực, nhà nước cộng sản khởi kì thuỷ là một nhà nước quan liêu. Hoàn toàn phụ thuộc vào một nhóm nhỏ những kẻ cầm quyền chóp bu, cơ quan nhà nước, không ở đâu bằng chế độ cộng sản, tràn ngập đủ các thứ văn bản pháp qui. Ngay từ khi vừa xuất hiện nó đã lập tức tạo ra một khối lượng văn bản pháp qui nhiều đến nỗi các luật sư và quan toà bị ngập lụt. Ngay những việc tầm phào nhất cũng phải được phê duyệt, mặc dù trên thực tế chẳng có ý nghĩa gì. “Tác phẩm” của các nhà làm luật cộng sản thường có động cơ chính trị và vì vậy mà bỏ qua hiện thực của đời sống. Chìm trong những công thức pháp lí “xã hội chủ nghĩa” trừu tượng, lại không bị các lực lượng đối lập phê phán, họ đã “nhốt” cuộc sống sinh động vào những điều khoản cứng nhắc. Và tất cả đều được quốc hội thông qua.

Nhưng chủ nghĩa quan liêu cộng sản lại không hề ảnh hưởng đến nhu cầu và cách thức làm việc của các lãnh tụ cộng sản. Giới cầm quyền chóp bu của nhà nước, cũng là của đảng, ít khi chịu tự giới hạn bởi các nguyên tắc. Trong tay nó là chính sách, là các quyết định mang tính chính trị, không thể chờ đợi và không chịu bất kì giới hạn nào. Chính những người sáng lập ra bộ máy quan liêu nhất và tập trung nhất lại không phải là những người quan liêu hoặc chịu tự giới hạn bởi các tiêu chuẩn pháp lí nào. Stalin không quan liêu. Tito cũng thế. Vì vậy các văn phòng của các lãnh tụ cộng sản thường rất lộn xộn và cẩu thả.

Điều đó cũng không ngăn cản các “ông chủ” thỉnh thoảng lại tổ chức các phong trào “đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu” nghĩa là chống lại sự cẩu thả và chậm trễ của bộ máy hành chính. Nhưng đây không phải là ý định loại bỏ chủ nghĩa quan liêu thực sự đã ăn sâu, bén rẽ vào xã hội mà bản chất của nó là sự phụ thuộc toàn diện của đời sống xã hội vào bộ máy chính trị.

Các lãnh tụ cộng sản thường nhắc đến Lenin khi tiến hành đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu.

Nhưng nếu nghiên cứu kĩ Lenin thì ta sẽ thấy ông không thể nào tiên đoán được rằng bộ máy quan liêu sẽ nuốt chửng hệ thống mới. Khi chạm trán với sự quan liêu, một phần là sản phẩm của chế độ do Sa Hoàng để lại, ông cho rằng tai hoạ là do “không có bộ máy gương mẫu gồm toàn những người cộng sản hoặc những người đã học qua trường đảng” [1] . Dưới thời Stalin những quan chức cũ đã không còn, chỉ còn “toàn” đảng viên cộng sản nhưng tệ quan liêu thì lại tăng lên. Ngay ở Nam Tư, nơi tệ quan liêu có ít hơn, nhưng bản chất của nó, nghĩa là sự độc quyền chính trị và các quan hệ do độc quyền này tạo ra thì vẫn vững như bàn thạch.


7.

Nhà nước cộng sản, đúng hơn phải nói chính quyền, tìm mọi các để phi cá tính hoá không những từng người mà còn toàn thể dân tộc, thậm chí phi cá tính hoá ngay chính những người bảo vệ chế độ.

Người ta định biến cả dân tộc thành một nòi quan chức. Tiền lương, diện tích nhà ở và nói chung tất cả nhu cầu về mặt tinh thần đều được phân phối, đều bị kiểm soát một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Sự phân biệt không chỉ theo tiêu chuẩn là viên chức hay không (tất cả đều là viên chức) mà theo mức lương và đủ mọi loại ưu tiên ưu đãi khác. Sau khi tập thể hoá thì ngay tầng lớp nông dân cũng ngày càng bị lôi kéo vào tổng liên đoàn những kẻ quan liêu.

Nhưng đấy chỉ là bề ngoài. Nếu người công nhân khác nhà tư sản, dù cả hai đều được tự do bán món hàng của mình, một bên là phương tiện sản xuất, còn bên kia là sức lao động, thì trong chế độ cộng sản giữa các tầng lớp xã hội cũng có sự khác nhau rất lớn. Nhưng mặc dù có những mâu thuẫn và khác biệt như thế xã hội cộng sản vẫn là xã hội cố kết nhất. Điểm yếu của sự cố kết này chính là tính chất cưỡng chế và mâu thuẫn của nó. Tất cả các bộ phận phụ thuộc lẫn nhau, không khác gì các chi tiết của một cỗ máy khổng lồ.

Giống như mọi chế độ chuyên chế khác, chính quyền cộng sản coi cá nhân chỉ như là một đơn vị trừu tượng. Những người thuộc phái trọng thương đã đẩy nền kinh tế vào sự bảo trợ hoàn toàn của nhà nước, còn chính nhà vua (thí dụ Ekaterina) thì cho rằng nhà nước có trách nhiệm cải tạo các thần dân của mình. Đấy cũng là đường lối tư duy của các lãnh tụ cộng sản. Nhưng lúc đó chính quyền chỉ cải tạo về tư tưởng các chủ sở hữu, còn bây giờ, trong chế độ cộng sản chính quyền vừa là chủ sở hữu vừa là nhà tư tưởng. Nhưng điều đó không có nghĩa là cá nhân đã biến mất, đã trở thành một chiếc đinh ốc vô hồn di chuyển theo quyết định của một mụ phù thuỷ toàn năng trong lòng của bộ máy to lớn nhưng vô hồn của nhà nước. Con người vừa có xu hướng tập quần, vừa có xu hướng cá nhân cho nên ngay cả trong hệ thống này nó vẫn tìm mọi cách bảo vệ cá tính mình. Chưa bao giờ cá tính con người lại bị đè nén đến như thế cho nên nó phải thể hiện bằng những cách khác.

Thế giới của cá nhân đã trở thành thế giới của những lo toan thường nhật, không có tương lai nào. Nhưng những lo toan thường nhật đó cũng luôn luôn đụng độ với hệ thống, một hệ thống muốn đè bẹp tất cả nhu cầu vật chất và tinh thần của con người nên ngay cái thế giới nhỏ bé đó của cá nhân cũng không được tự do, không được bảo vệ. Trong chế độ cộng sản cá nhân buộc phải học được cách sống mà không có bất kì sự đảm bảo nào. Nếu nó chịu khuất phục thì nhà nước sẽ để cho nó lay lắt qua ngày. Nó luôn bị giằng xé giữa ước muốn và khả năng. Nó phải chấp nhận phục tùng quyền lợi tập thể, nhưng cũng như trong mọi hệ thống khác nó luôn luôn chống đối các đại diện độc đoán của tập thể. Đa số công dân của chế độ cộng sản không chống lại chủ nghĩa xã hội, nhưng họ bất bình cách thực hiện, thực ra những người cộng sản đâu có xây dựng chủ nghĩa xã hội cho nên từng thần dân của họ phải bất bình với những hạn chế không phải vì quyền lợi của toàn xã hội mà chỉ nhân danh quyền lợi của nhóm đương quyền. Những người thuộc các hệ thống khác không thể nào hiểu được vì sao các dân tộc dũng cảm và đầy tự hào lại có thể chấp nhận để người ta tước đoạt tự do tư tưởng và tự do lao động kiếm sống.

Cách giải thích khá chính xác và đơn giản: bộ máy đàn áp dã man và bao trùm lên tất cả. Nhưng còn có những nguyên nhân khách quan sâu sắc hơn.

Một trong những nguyên nhân đó, nguyên nhân lịch sử, đã được chúng tôi nói tới: khao khát cải tạo nền kinh tế đã buộc nhân dân phải chấp nhận mất tự do.

Nguyên nhân thứ hai là nguyên nhân trí dục và đức dục. Ước mơ chủ nghĩa xã hội-chủ nghĩa cộng sản, ước mơ đạt được mức sống lí tưởng, niềm hi vọng, sự phấn khích có thể nói sánh ngang với niềm phấn khích tôn giáo không chỉ đối với những người cộng sản mà cho cả một bộ phận dân chúng nữa. Trong quan niệm của đa số người không thuộc các giai cấp cũ thì việc vùng dậy có tổ chức nhằm chống lại chính quyền, chống lại đảng đồng nghĩa với sự phản bội tổ quốc, phản bội những lí tưởng cao đẹp nhất.

Phong trào đối lập có tổ chức không thể xuất hiện trong các chế độ cộng sản dĩ nhiên là do tính chất bao trùm, tính chất toàn trị của các nhà nước đó. Tính chất toàn trị thâm nhập vào mọi tế bào của xã hội, vào từng cá nhân, vào những nghiên cứu của các nhà bác học, vào cảm hứng của các thi sĩ, vào ước mơ của các đôi tình nhân. Chống lại nó không chỉ có nghĩa là tự đưa mình đến giá treo cổ mà còn chuốc lấy sự khinh bỉ và né tránh. Không một chút ánh sáng nào, không một chút khí trời nào có thể lọt vào được dưới gót sắt của nó.

Cả hai phong trào đối lập, sinh ra từ các giai cấp cũ và xuất hiện ngay trong lòng chế độ cộng sản đều không có khả năng tạo ra được đường lối đấu tranh. Đại diện của phong trào thứ nhất sẽ biến mất, còn đại diện của phong trào thứ hai thì quay ra phê phán chế độ bằng những thuật ngữ giáo điều vô nghĩa lí. Điều kiện cho những con đường mới chưa xuất hiện.

Bên cạnh đó nhân dân, bằng bản năng của mình, đã phát hiện ra các phương pháp khác, họ luôn phản kháng, ngay cả chỉ vì những tiểu tiết. Phong trào phản kháng này chính là mối đe doạ cụ thể nhất, lớn nhất đối với chế độ. Các lãnh tụ cộng sản không biết nhân dân đang nghĩ gì, muốn gì. Biết rằng lòng dân không yên, họ không thể tự tin như xưa nữa.

Nếu lịch sử chưa từng thấy một hệ thống nào có thể vô hiệu hoá những người chống đối như chế độ chuyên chính vô sản thì nó cũng chưa từng thấy một trật tự xã hội nào lại bị người dân chối bỏ đến như thế. Có vẻ như lương tâm càng bị cầm tù và khả năng cho những hành động có tổ chức càng bị giới hạn quần chúng càng thêm ta thán, oán ghét.

Toàn trị cộng sản đưa tới oán cừu toàn diện, mọi tình cảm của con người đều bị nung cháy trong ngọn lửa oán hận đó, chỉ còn lại nỗi tuyệt vọng và lòng hận thù.

Sự chống đối một cách tự phát, từng ngày từng giờ, bùng lên vì những “việc vặt” của hàng triệu người là hình thức phản kháng mà cộng sản không thể nào dập tắt được. Có thể thấy điều đó ngay trong cuộc chiến tranh Xô-Đức. Có cơ sở để tin rằng tinh thần chiến đấu của người Nga không phải đã cao đến thế ngay khi quân Đức tràn vào Liên Xô. Nhưng Hitler đã để lộ mục đích: tiêu diệt nhà nước Nga và biến tất cả người Slav thành nô lệ. Chỉ khi đó lòng yêu nước sâu xa không gì dập tắt được mới bùng dậy. Trong suốt cuộc chiến tranh, Stalin không một lần nào nhắc tới chính quyền Xô Viết hay chủ nghĩa xã hội cả, ông ta chỉ dùng danh từ Tổ quốc. Người ta sẵn sàng chết vì tổ quốc ngay cả khi bên cạnh đó là chủ nghĩa xã hội của Stalin.



Nền kinh tế bao cấp

1.

Trong chế độ cộng sản, quá trình phát triển kinh tế không chỉ là cơ sở mà còn là tấm gương phản chiếu con đường chuyển hoá của chế độ từ chuyên chính cách mạng sang chuyên chế phản động. Quá trình phát triển đầy chông gai và mâu thuẫn đó cho ta thấy đồng thời nhu cầu can thiệp của nhà nước vào kinh tế trong những giai đoạn đầu và dần dần biến thành chính sách liên quan trực tiếp đến quyền lợi của bộ máy quan liêu nắm quyền. Khởi kì thuỷ nhà nước giành tất cả các phương tiện sản xuất: viện cớ là cần đầu tư cho quá trình công nghiệp hoá; và kết quả là sự phát triển kinh tế được quản lí phù hợp với quyền lợi của giai cấp nắm quyền.

Tứ xưa đến nay tất cả những người hữu sản đều làm như thế, họ chỉ quan tâm đến lợi ích của mình mà thôi. Nhưng giai cấp mới khác với các chủ sở hữu cũ ở chỗ họ nắm trong tay tất cả tài nguyên của đất nước, sức mạnh kinh tế được họ tăng cường một cách tự giác hơn và có tổ chức hơn. Tính tổ chức được thực hiện thông qua các tổ chức chính trị, kinh tế và các tổ chức khác cũng đã được các giai cấp cũ áp dụng. Nhưng vì trong các hình thái kinh tế trước đây giai cấp hữu sản là rất nhiều cá nhân riêng lẻ cũng như tồn tại những hình thức sở hữu đối lập nhau cho nên trong điều kiện bình thường nền kinh tế phát triển một cách tự phát.

Nền kinh tế cộng sản cũng không tránh được điều đó mặc dù khác với các nền kinh tế kia, loại bỏ tính tự phát được coi là một trong các nhiệm vụ đầu tiên của nó.

Cách làm đó dựa trên cơ sở lí luận như sau: các lãnh tụ cộng sản tin tưởng rằng họ nắm được các qui luật kinh tế và có thể quản lí sản xuất trên cơ sở các qui luật đó. Nhưng sự thật lại không phải như thế, sự thật là: họ đã chiếm được nền kinh tế và cũng giống như họ đã giành được thắng lợi của cách mạng, một lần nữa điều đó tạo cho họ ảo tưởng dường như tất cả mọi chuyện xảy ra đều là kết quả của phương pháp khoa học tuyệt vời của họ.

Tin vào sự đúng đắn của các lí thuyết của mình, họ đã áp dụng ngay những lí thuyết ấy vào quản lí kinh tế. Đầu tiên những người cộng sản so sánh những biện pháp kinh tế của mình với các luận điểm của Marx và sau đó thì đem áp dụng. Ở Nam Tư, người ta từng tuyên bố rằng kế hoạch hoá là theo Marx, mặc dù Marx không những không phải là một nhân viên kế hoạch và nói chung ông hoàn toàn không phải là chuyên gia trong lĩnh vực này. Nhưng điều quan trọng là lương tâm của các lãnh tụ vẫn trong sáng, và điều quan trọng hơn là sự đàn áp và bóc lột được biện hộ bằng các “mục đích cao cả” và có “cơ sở khoa học”.

Hệ thống cộng sản không thể tránh khỏi các giáo điều trong kinh tế.

Nhưng sẽ là sai lầm nếu cho rằng người ta làm kinh tế theo đúng các quan điểm giáo điều vốn là đặc trưng chủ yếu của hệ thống kinh tế cộng sản, đúng ra đó là một căn bệnh mãn tính. Chính trong kinh tế chứ không ở đâu khác, các lãnh tụ cộng sản đã thể hiện sự khéo léo cực kì trong việc “áp dụng” lí thuyết cho các nhu cầu của mình và nếu cần thì lờ luôn lí thuyết đi.

Ban lãnh đạo cộng sản buộc phải tiến hành công nghiệp hoá nhanh chóng là do nhu cầu lịch sử như đã nói ở trên, nhưng bên cạnh đó họ còn phải xây dựng nền kinh tế bảo đảm cho sự tồn vong của chính mình. Dường như để xây dựng xã hội phi giai cấp và thủ tiêu quan hệ người bóc lột người mà nó đã dựng lên hệ thống quản lí kinh tế khép kín, dựng lên hình thức sở hữu do nó độc quyền thống trị. Ban đầu chính các nguyên nhân khách quan đã buộc những người cộng sản phải lựa chọn hình thức sở hữu tập thể. Nhưng sau đó việc củng cố hình thức sỡ hữu này (không cần biết có phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế và quá trình công nghiệp hoá hay không) đã trở thành mục đích tự thân và hoàn toàn tuân theo quyền lợi giai cấp của những người cộng sản. Dường như ban đầu người ta đã tiếm đoạt quyền điều khiển nền kinh tế vì lí tưởng, nhưng sau đó họ tiếp tục làm thế nhằm nắm giữ toàn bộ sở hữu và quyền thống trị, đấy chính là thực chất của các biện pháp chính trị đã được tiến hành có lớp lang và rộng khắp; đấy chính là thực chất các biện pháp quản lí kinh tế không phải do nhu cầu của nền kinh tế, cũng không phải do nhu cầu của quốc gia mà hoàn toàn tuân theo các nhu cầu chính trị ích kỉ của tầng lớp nắm quyền.

Trong một cuộc phỏng vấn hồi năm 1956, Tito đã phải công nhận rằng các nền kinh tế phương Tây cũng hàm chứa các “thành tố xã hội chủ nghĩa”, nhưng thiếu cái gọi là “tính tự giác”. Thế là đủ: vì “tự giác” xây dựng chủ nghĩa xã hội trong nước mà những người cộng sản buộc phải chuyên quyền, phải giữ độc quyền sở hữu tài sản.

Việc những người cộng sản gán cho “tính tự giác” trong các tiến trình phát triển kinh tế và xã hội một ý nghĩa to lớn đã cho ta thấy bản chất bạo lực và khát vọng chiếm hữu của họ. Nếu không thế thì họ nhấn mạnh nhân tố này để làm gì?

Việc người cộng sản kiên quyết phủ nhận tất cả các hình thức sở hữu khác ngoài hình thức mà họ cho là xã hội chủ nghĩa trước hết nói lên sự hám quyền và lòng tham vô đáy của họ. Nhưng họ sẵn sàng từ bỏ thái độ như thế nếu nó không đáp ứng quyền lợi, họ coi lí thuyết của mình chẳng khác gì một cái giẻ lau có thể xài hoặc quẳng đi bất cứ lúc nào. Thí dụ ở Nam Tư người ta đã thành lập các hợp tác xã nông nghiệp, nhưng sau đó lại giải tán (vì sự trong sáng của chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa xã hội) và hiện nay quan niệm về vấn đề này rất mù mờ. Những thí dụ tương tự như vậy có thể tìm thấy ở tất cả các nước cộng sản khác. Nhưng xu hướng tiêu diệt tất cả các hình thức sở hữu, trừ hình thức do họ dựng lên vẫn là mục đích bất di bất dịch của những người cộng sản.

Mọi đường lối kinh tế đều thể hiện ý chí của những lực lượng kinh tế nhất định và là ước muốn quản lí các lực lượng này. Ngay những người cộng sản cũng không thể đặt được quyền thống trị tuyệt đối đối với quá trình sản xuất. Nhưng họ thường xuyên áp bức, luôn luôn buộc nó phải tuân thủ những mục đích chính trị và tư tưởng của mình. Đấy là khác biệt của họ với tất cả những đường lối khác.


2.

Tính chất toàn trị của sở hữu cũng như hệ tư tưởng thường đóng vai trò quyết định trong chính sách kinh tế còn do vị trí đặc biệt của người sản xuất trong chế độ cộng sản nữa. Ở Liên Xô, quyền tự do lao động đã bị hạn chế ngay sau cách mạng. Nó đã không bị bãi bỏ hoàn toàn ngay cả khi nhu cầu công nghiệp hoá là rất cao. Điều đó chỉ xảy ra sau khi cuộc cách mạng công nghiệp đã hoàn thành cũng như vị trí của giai cấp mới đã được củng cố. Luật pháp qui định mọi người đều phải làm việc theo sự phân công của “tổ chức” được áp đặt vào năm 1940. Trong giai đoạn này cũng như sau chiến tranh đã xuất hiện các trại lao động, thực chất là một hình thức bóc lột nô lệ. Lao động trong các nhà máy và lao động khổ sai gần như không còn sự cách biệt nào.

Các trại lao động và những hình thức lao động “tình nguyện” khác chính là những hình thức lao động khổ sai nặng nề nhất. Các trại lao động hoặc phong trào tình nguyện có thể chỉ mang tính giai đoạn nhưng sự mất tự do trong lao động kiếm sống là hiện tượng cố hữu ở Liên Xô.

Trong các nước cộng sản khác sự mất quyền tự do lao động không đạt đến mức như vậy nhưng hoàn toàn tự do lao động thì cũng không nước nào có cả.

Mất quyền tự do lao động trong các chế độ cộng sản là hậu quả của việc chiếm hữu tất cả hay hầu như tất cả nguồn lực quốc gia. Người lao động bị đặt trước một sự kiện là sức lao động, cũng là hàng hoá duy nhất của anh ta, phải được bán cho chỉ duy nhất một người, theo những điều kiện bất khả tương nhượng vì không còn người mua nào khác. Nếu chỉ có một người mua là nhà nước thì người công nhân chỉ còn một cách là chấp nhận mọi điều kiện nếu không muốn chết đói. Thị trường sức lao động xấu xa, bỉ ổi của giai đoạn tiền tư bản đã bị quan hệ sở hữu độc quyền của giai cấp mới tiêu diệt hoàn toàn. Nhưng người lao động thì không vì thế mà được tự do hơn.

Người lao động trong chế độ cộng sản (kể cả ở các trại lao động khổ sai) không phải là người nô lệ thời cổ đại, không bị coi là một loại đồ vật. Ngay một nhà tư tưởng vĩ đại thời đó cũng cho rằng một số người được sinh ra là người tự do, còn số khác là nô lệ. Dù luôn kêu gọi cải tạo hệ thống chiếm nô và đối sử nhân đạo với nô lệ, ông cũng chỉ coi nô lệ như một loại công cụ lao động. Không thể nào đối xử với một người công nhân hiện đại có kiến thức khoa học kĩ thuật và tay nghề như vậy được. Lao động cưỡng bức trong chế độ cộng sản khác với thời cổ đại và cũng khác với mọi thời đại khác. Nó không liên quan (hoặc rất ít liên quan) với trình độ kĩ thuật mà là kết quả của một chính sách và quan hệ sở hữu nhất định.

Trong khi đó trình độ kĩ thuật hiện nay lại cần những người công nhân tự do cho nên anh ta luôn luôn mâu thuẫn, khi thăng khi giáng, với chế độ lao động cưỡng bức, với độc quyền sở hữu và chế độ chính trị toàn trị cộng sản.

Về mặt hình thức thì người công nhân trong chế độ cộng sản là người tự do, nhưng mức độ tự do của anh ta vô cùng hạn chế. Nói chung, về mặt hình thức chế độ cộng sản không hạn chế tự do. Nó làm điều đó trên thực tế. Lao động và sức lao động cũng chịu cảnh tương tự.

Trong một xã hội khi mà tất cả tài sản đều nằm trong tay một nhóm người thì sức lao động không thể có tự do. Nó cũng là một loại tài sản gián tiếp của nhóm đó mà thôi. Dĩ nhiên là nhóm cầm quyền không thể sở hữu một trăm phần trăm sức lao động của con người vì mỗi người lao động là một cá thể, mỗi người làm chủ sức lao động của mình; nhưng đến lượt nó cái sức lao động ấy lại chỉ là một nhân tố của toàn bộ nền sản xuất xã hội. Giai cấp hữu sản mới sử dụng sức lao động ấy cũng bằng một cách thức như với tất cả các nguồn lực quốc gia và các phương tiện sản xuất khác.

Vì vậy nhà nước, đúng hơn phải nói bộ máy đảng, có thể giữ độc quyền ấn định điều kiện lao động, quyết định mức lương và những vấn đề liên quan khác. Nắm giữ độc quyền tài sản, thực thi chuyên chế trong lĩnh vực chính trị, bộ máy đảng đã nắm giữ luôn quyền quyết định điều kiện làm việc của người lao động.

Như vậy là đối với bộ máy quan liêu chỉ có khái niệm sức lao động trừu tượng, chỉ có những người công nhân như là một nhân tố của quá trình sản xuất. Điều kiện làm việc trong từng nhà máy, trên từng công trường, trong từng lĩnh vực cụ thể, việc gắn tiền lương với lợi nhuận của xí nghiệp, đối với bộ máy quan liêu, tất cả những điều đó đều không tồn tại và không thể tồn tại được.

Khi toàn bộ sở hữu đã nằm trong tay của một nhóm người thì kết quả và ý nghĩa của nền sản xuất cũng trở thành vô giá trị đối với ngay chủ nhân của nó. Tiền lương và điều kiện lao động cũng như sức lao động trở thành những khái niệm trừu tượng, vô hồn, chỉ là các định mức và hệ số mà thôi. Kết quả hoạt động của từng xí nghiệp hoặc lĩnh vực không có hoặc có rất ít ý nghĩa đối với thu nhập của người lao động. Đấy là nói chung, tuỳ vào điều kiện và nhu cầu, dĩ nhiên là có những trường hợp ngoại lệ. Cách đặt vấn đề như thế nhất định sẽ dẫn tới sự bàng quan của người lao động và cuối cùng là dẫn đến chất lượng kém, lãng phí tài nguyên, v.v... Những người cộng sản luôn luôn kêu gọi nâng cao năng suất lao động nhưng họ đã bỏ qua không thèm nghĩ đến việc sử dụng có hiệu quả sức lao động nói chung.

Trong tình hình như thế cần phải có rất nhiều biện pháp khen thưởng. Người lao động bàng quan được động viên bằng mọi cách. Nhưng nếu không thay đổi toàn bộ hệ thống, nếu vẫn nắm giữ toàn bộ tài sản và quyền lực, họ không thể tạo được sự quan tâm thường trực của từng người công nhân và của tất cả người lao động đối với kết quả sản xuất nói chung.

Ngay những cố gắng nghiêm túc nhằm chia cho công nhân một phần lợi tức, như ở Nam Tư và các nước Đông Âu khác, cũng đã kết thúc, bị bộ máy quan liêu chiếm đoạt, lấy cớ là do lạm phát và để hợp lí hoá đầu tư cơ bản. Người lao động chỉ được nhận một phần mang tính tượng trưng và quyền được phân phối số tiền nhỏ nhoi đó thông qua các tổ chức đảng hoặc công đoàn mà thực chất vẫn là thông qua bộ máy quan liêu đó. Không được quyền đình công cũng như quyền sở hữu, người công nhân không được nhận và không được tham gia vào việc phân chia lợi nhuận. Tất cả những quyền này liên quan mật thiết với nhau cũng như liên quan mật thiết với tự do chính trị, không thể có cái này mà thiếu cái kia được.

Trong hệ thống như thế không thể tồn tại tổ chức công đoàn độc lập, còn các cuộc đình công là những hiện tượng cực kì đặc biệt, là biện pháp chẳng đặng đừng, là sự bùng nổ của bất bình của quần chúng lao động (Đông Đức năm 1953, Poznan – Ba Lan năm 1956)

Người cộng sản giải thích việc không được tự do bãi công như sau: giai cấp công nhân nắm chính quyền và thực hiện quyền làm chủ thông qua nhà nước, bãi công thì hoá ra tự chống lại mình à! Quá trẻ con, dĩ nhiên rồi. Người ta lấy cớ là không có tư hữu, nhưng thực tế là người chủ sở hữu thật sự đã khoác lên mình một cái mặt nạ tập thể và không được xác định một cách chính thức.

Lí do chính của việc không được bãi công là chủ sở hữu, dù khoác nhiều bộ mặt, vẫn chỉ là một chủ thể duy nhất, nắm toàn bộ tài nguyên mà chủ yếu là nắm sức lao động cho nên mọi hành động chống lại nó, nếu không mang tính toàn diện, đều rất khó thực hiện. Bãi công trong một hoặc một vài xí nghiệp, đấy là giả sử chế độ toàn trị cho phép, cũng không tạo ra một mối nguy nào cho chủ sở hữu vì tài sản của nó không nằm trong một xí nghiệp cụ thể mà là toàn bộ nền sản xuất nói chung. Mất một vài xí nghiệp không phải là vấn đề, hơn nữa chính người sản xuất nghĩa là toàn bộ xã hội sẽ phải làm bù. Như vậy là đình công, nếu có, cũng chỉ là vấn đề chính trị chứ không phải là vấn đề kinh tế.

Những cuộc đình công lẻ tẻ trên thực tế là không tổ chức được và cũng không có ý nghĩa, điều kiện chính trị lại không cho phép tổng đình công. Nhưng trong những trường hợp đặc biệt đã từng xảy ra đình công. Các cuộc đình công lẻ tẻ thường biến thành tổng đình công và mang ý nghĩa chính trị.

Ngoài ra chế độ cộng sản còn tiến hành đấu tranh chống lại các biểu hiện bất mãn, chia rẽ phong trào công nhân bằng cách thăng tiến cho các cán bộ từ chính công nhân. Những cán bộ này sẽ thực thi việc “giáo dục”, “rèn luyện tư tưởng” và “hướng dẫn” quần chúng.

Các tổ chức công đoàn và các tổ chức nghề nghiệp khác thực chất chỉ là những người giúp việc bộ máy đương quyền, và cũng là ông chủ duy nhất của tất cả mọi loại tài sản. Điều đó quyết định các xu hướng chủ yếu trong hoạt động của các tổ chức này: thúc đẩy việc “xây dựng chủ nghĩa xã hội” nghĩa là nâng cao năng suất lao động cũng như tuyên truyền ảo tưởng và lòng trung thành trong giai cấp công nhân. Nâng cao trình độ văn hoá của công nhân có thể coi là điểm tích cực duy nhất của các tổ chức này.

Không phải ngẫu nhiên mà công nhân luôn luôn là mối quan tâm lớn nhất của chế độ nhưng đây không phải là vấn đề tư tưởng hay nhân đạo hoặc các vấn đề nào khác tương tự, mà chỉ bởi vì công nhân chính là người sản xuất ra của cải vật chất, sự thịnh suy, thậm chí tồn vong của giai cấp mới phụ thuộc trực tiếp vào họ.


3.

Dù lao động mang tính nô lệ, dù không có các tổ chức công đoàn độc lập, việc bóc lột trong chế độ cộng sản cũng có một giới hạn nhất định. Đây là vấn đề rất lớn, chỉ xin khảo sát những điểm quan trọng nhất.

Bên cạnh lí do chính trị, thí dụ nỗi sợ trước sự bất bình của quần chúng, người ta vẫn phải xác định các giới hạn bóc lột: những hình thức có thể đe doạ sự tồn vong của chế độ trước sau cũng bị huỷ bỏ hoặc hạn chế.

Thí dụ ngày 25 tháng 4 năm 1956 Liên Xô đã ra nghị định bãi bỏ việc truy tố người có hành vi đi muộn về sớm. Các trại lao động, nơi con người bị đối xử không khác gì tội phạm và là một hình thức bóc lột lao động nô lệ rẻ tiền, đã dần dần bị bãi bỏ. Sức lao động không phải nhờ thế mà thành tự do hơn, nhưng dù sao đây cũng một bước thay đổi tích cực to lớn sau cái chết của Stalin.

Lao động nô lệ cưỡng bách không chỉ tạo cho chế độ nhiều khó khăn về mặt chính trị mà còn vô cùng tốn kém. Sau khi Liên Xô có những máy móc phức tạp thì lao động cưỡng bách trở thành gánh nặng. Dù chi phí cho một người lao động cưỡng bách là không đáng kể nhưng bộ máy hành chính để quản lí anh ta lại quá cồng kềnh, lao động của người đó trở thành vô giá trị và vì thế mà bị xoá bỏ.

Nền sản xuất hiện đại cũng đặt ra những giới hạn cho sự bóc lột: người lao động kiệt sức không thể tạo ra sản phẩm có chất lượng trên những máy móc hiện đại. Tương tự như vậy, nếu muốn có sản phẩm người ta phải đáp ứng cả các yêu cầu khác như về văn hoá, y tế, vệ sinh, v.v...

Trong chế độ cộng sản bên cạnh việc bóc lột, do bản chất quyền lực và sở hữu mà sức lao động còn bị hạn chế tự do. Khi chưa có sự thay đổi về quyền lực và sở hữu thì sức lao động không thể nào có tự do, dù ít dù nhiều nó vẫn nằm dưới sự áp chế về kinh tế hoặc hành chính.

Đồng thời, do nhu cầu của sản xuất, chế độ cộng sản có thể tiến hành thay đổi điều kiện lao động, thay đổi vị trí của người công nhân bắng những biện pháp mạnh như: thời gian lao động, quyền nghỉ ngơi, học hành, bảo hiểm xã hội, điều kiện lao động nữ, lao động trẻ em. Nhiều biện pháp sẽ nằm trên giấy, nhưng đôi khi cũng sẽ có những biến đổi tích cực.

Xu hướng cải thiện quan hệ sản xuất, hướng đến sự ổn định và trật tự trong sản xuất là công việc thường xuyên của các chính quyền cộng sản. Người chủ sở hựu tập thể duy nhất giải quyết vấn đề một cách tổng thể. Hình thức sở hữu không chấp nhận “vô chính phủ” trong lĩnh vực này. Sức lao động cũng như mọi thành tố khác của quá trình sản xuất phải “luôn ổn định”. Quyền lợi sống còn của người lao động chỉ đóng vai trò thứ yếu.

Nếu xem xét kĩ thì ta thấy việc người ta vẫn tuyên truyền rằng trong chế độ cộng sản mọi người đều có việc làm cũng chứa đựng nhiều khiếm khuyết.

Ngay khi toàn bộ tài sản vật chất được tập trung vào tay chỉ một nhóm người thì lập tức xuất hiện nhu cầu kể hoạch hoá, kể cả nhu cầu về sức lao động. Các đòi hỏi về chính trị nhất định sẽ dẫn đến việc một số lĩnh vực bị lạc hậu và sống bám vào những lĩnh vực khác. Thất nghiệp trên thực tế được che giấu bằng cách đó. Nếu các lĩnh vực được tự do sản xuất không có sự can thiệp của chính quyền trong việc nâng đỡ ngành này làm thiệt hại cho ngành khác thì thất nghiệp sẽ xuất hiện ngay lập tức. Việc liên kết chặt chẽ với thị trường thế giới sẽ làm cho quá trình này càng rõ ràng và mở rộng thêm.

Như vậy việc mọi người đều có việc làm không phải là kết quả của chủ nghĩa xã hội mà là một chính sách kinh tế, nó chỉ chứng tỏ sự mất cân đối và năng suất lao động thấp mà thôi. Nó không phải là mặt mạnh mà chính là điểm yếu của nền kinh tế bao cấp. Nếu Nam Tư chuyển sang nền kinh tế có hiệu quả hơn thì tình trạng thất nghiệp sẽ xuất hiện và nền kinh tế càng hiệu quả thì tỉ lệ thất nghiệp sẽ càng tăng.

Trong chế độ cộng sản việc ai cũng có việc làm che giấu hiện tượng thất nghiệp. Sự nghèo khổ chung làm mờ đi hiện tượng thất nghiệp của một bộ phận dân chúng, cũng như sự phát triển nhanh của một vài lĩnh vực che đậy sự lạc hậu của những lĩnh vực khác.

Tương tự như vậy, hình thức sở hữu đó cũng như hình thức chính quyền đó giữ cho nền kinh tế không bị phá sản nhưng không thể cứu nó khỏi cuộc khủng hoảng trường kì. Sự độc quyền sở hữu tạo điều kiện xử lí để tránh đổ vỡ toàn diện nhưng quyền lợi ích kỉ của giai cấp mới cũng như bản chất của nền kinh tế không thể làm cho nó trở thành lành mạnh và cân đối được.


© 2005 talawas





[1]V. I. Lenin, Toàn tập, Tập 29, trang 425. In lần thứ 3.

Nguồn: Bản tiếng Nga, tại http://dzhilas-milovan.viv.ru/index.htm