trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 227 bài
  1 - 20 / 227 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Dịch thuật
24.11.2005
Lê Kim N.
Chữ, nghĩa và từ điển
 
Sau khi đọc bài của ông Dương Tường‚ „World cup hay nạn ‚Tây bồi’“‚ talawas ngày 22.11.05, về việc dùng sai từ và câu chữ tiếng nước ngoài (“Pour avoir amour, on doit aventure quelque chose” để dịch câu tiếng Việt: “Muốn có tình yêu, người ta phải mạo hiểm tí chút”), tôi nghĩ có lẽ tìm được câu trả lời tạm cho vài thắc mắc của mình chung quanh những vấn đề chữ, nghĩa, dịch thuật lâu nay được bàn cãi.

Giả dụ sau nhiều ngày tháng dùi mài học văn phạm, từ vựng, khi cần viết một câu trong ngoại ngữ đang học, tôi sẽ ứng dụng những mẫu câu đã biết, ráp lại, chia động từ cho chỉnh, chữ nào thiếu, chưa học thì tìm trong từ điển rồi chêm vào. Nếu may mắn có thầy, cô chỉ bảo, rằng chữ này dùng chưa đúng, vì sao không thích hợp, hoặc người Anh, người Đức… diễn tả ý này bằng câu cú, thành ngữ gì khác, rằng nếu ta dịch thế này người ta sẽ hiểu nhầm ra thế khác, v.v... thì tôi sẽ dần dần luyện được tính nhậy bén để dịch cho sát, đúng và tinh thông sau một thời gian khá dài, như tôi đã học tiếng mẹ đẻ của mình từ lúc sơ sinh cho đến khi diễn tả được tâm tư, ý tưởng thành câu cú, bài bản.

Còn nếu không có thầy cô mãi bên cạnh để hướng dẫn, tôi sẽ phải dựa vào từ điển là chính. Thế nhưng hiện nay có hiện tượng những cuốn từ điển ra đời với những lỗi sơ đẳng đến mức khó hiểu. Xin nêu quyển Từ điển Việt-Đức 80.000 từ do ông Nguyễn Văn Tuế chủ biên, Nhà xuất bản Văn hoá-Thông tin, 2003, với một vài thí dụ:


Về từ vựng

Trang 15: ái ân 1) lieben vt, liebhaben vt, gern haben, gern mögen; 2) Liebe f, Dämen m

Những động từ dẫn ở tiểu mục 1) có nghĩa thương, yêu, quí mến, ưa thích, ở tiểu mục 2) danh từ Liebe cũng được dùng trong nghĩa tương tự, nhưng từ Dämen thì không có trong tiếng Đức!

Trang 36: bà nhà quê: Weib n.

Das Weib là từ cổ, chỉ người đàn bà nói chung, ngày nay nếu dùng thường trong ý châm biếm, khinh thị,… không hề được dùng để chỉ một bà nhà quê nào cả.

Trang 36: bà nội trợ: Frau des Haus

Viết đúng văn phạm sẽ là Frau des Hauses, nhưng tiếng Đức chỉ có từ Hausfrau.


Về cú pháp

Trang 32: ập đến: Einbruch m; einbrechen vt… mùa đông đột ngột ~ der Winter plötzlich einbrechen

Viết đúng văn phạm sẽ là: Der Winter bricht plötzlich ein.

Trang 67: bất cộng đái thiên: unter einem Himmel zusammen leben nicht; tödliche Feinde sein; unmöglich zusammen sein

unter einem Himmel zusammenleben nicht nếu dịch mot-à-mot rập theo cấu trúc ra tiếng Pháp sẽ là: sous un Firmament vivre ensemble ne pas, trong khi cấu trúc câu tiếng Đức nếu cũng dịch từng chữ sẽ là: nicht unter demselben Himmelsgewölbe zusammenleben können.

Khi tình cờ tra đến những mục từ như:

Trang 99: bộ hạ: Untergebene m/pl, Unterstellte m/pl, Gefolge n; (ngb) Geschlechtsorgan n

trong đó tiểu mục (ngb): nhầm với từ Hán-Việt hạ bộ!),

Trang 26: ăn thề: schwören vt, beschwören vt, uống máu ăn thề beim Blute schwören

uống máu ăn thề phải là Blutsbrüderschaft schliessen,

Trang 64: bấm độn: aus Fingerspitzen wahrsagen

mà nếu tạm dịch từng chữ ra tiếng Pháp sẽ là: faire des propheties à l’aide / à partir du bout des
doigts, ra tiếng Anh là: predict from / by means of fingertips!

hoặc những thành ngữ như:

Trang 27: ăn trên ngồi trốc: übertreffen vt an, hervorragend sein; quen thói ăn trên ngồi trốc: sitzen auf dem Kopf der Welt

trong khi übertreffen an, hervorragend sein có nghĩa cao tài, vượt trội hơn; còn sitzen auf dem Kopf der Welt tạm dịch ra tiếng „Tây bồi“ là: s’ asseoir sur la tête du monde entier hay tiếng „Anh bồi“: to sit on the the head of the whole world,

thì tôi thử hình dung cảnh phải dùng các loại từ điển tương tự để dịch một bài tiếng Việt có những từ kể trên ra các thứ tiếng Đức, Anh hay Pháp. Kết quả hẳn sẽ là một mẩu chuyện thuộc thể loại thần kỳ hay khôi hài „xám“ (unfreiwillige Komik / unintentional humor).

Vì thế tôi thấy thông cảm với những người hằng ngày phải đánh vật với chữ và nghĩa, như những người thợ học việc, trong tay là những dụng cụ cũ, mòn không thích ứng, trên một công trường vắng bóng đàn anh có tay nghề, đốc công có bản lãnh. Và họ cứ phải tô vôi trát vữa, xây tường để tính công điểm lãnh lương. Người ta có thể hỏi, thế sao không chọn nghề khác? Rất tiếc câu trả lời hoàn toàn nằm ngoài phạm vi bài viết này, vì thuộc lãnh vực chính sách, quốc gia đại sự, rất mong các cao nhân đồng tâm cộng sức lý giải.

© 2005 talawas