trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 235 bài
  1 - 20 / 235 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tư tưởngChiến tranh nhìn từ nhiều phíaVăn họcThơ và Thơ Trẻ
29.9.2006
Phan Nhật Nam
Về những người viết nên Thơ
 
Như đã nói thành lời nhiều lần, tôi là một người có rất nhiều bạn; nếu ai đấy làm một cuộc thống kê chính thức, so sánh về số lượng bằng hữu, kết luận về điều trên hẳn sẽ được chứng minh. Gần hết một đời, tổng kết lại, bản thân vẫn không có một “sự nghiệp” nào, và cũng chẳng muốn điều gì hơn ngoài việc được huynh đệ, bằng hữu đối xử chân thành thương mến. Tôi rất hãnh diện, trang trọng gìn giữ tình thế cảm động nầy. Nhưng nay, tôi phải viết về một người bạn với cách thức đặt lại vấn đề với bạn cũng đồng nghĩa xét lại bản thân - lại là một người bạn tôi hằng quý trọng, đã đánh giá đấy là “một hào kiệt” – cụm từ không dùng quá độ, vì hơn bốn mươi năm trước, người bạn nầy quả có những tính chất, hành vi cao thượng ấy. Nhưng nay thời, thế đã hoàn toàn thay đổi, tính cách cao thượng, trong sáng trước kia của đối tượng được đánh giá “Bạn”, và chủ thể đánh giá “Tôi” đã trở nên yếu tố tương tác trong một mối liên hệ khắc nghiệt ngang trái – Mà phải từ, với một đại tâm nhân hậu bình thản họa may mới nhận ra được điều chung quyết: Sự thật ở nơi đâu?

Cũng phải nên nói rõ, chẳng phải vì hôm nay anh đang giữ vị thế cao cấp trong chính quyền (tất nhiên là chính quyền cộng sản ở Việt Nam) nên tôi mới nói câu tán tụng như trên để cầu thân. Không phải thế, tôi đã nói chính thức lời ca ngợi kia từ năm 1970 trong một cuốn sách, Ải trần gian”. Tôi đã viết cuốn sách ấy để phần lớn nói về nhân vật hào kiệt của mình, và cũng đã chịu nhiều khốn đốn vì hàng chữ đề tặng nơi trang đầu: “Tặng Phan Duy Nhân, Kẻ Hào Kiệt”. Nhân viên cao cấp của Sở Phối hợp Nghệ thuật Bộ Thông tin Chiêu hồi thời ấy đã bắt tôi đục bỏ dòng chữ kia với lý do (mà khách quan nghĩ ra quả tình chính đáng): “Ðấy là một cán bộ cộng sản nằm vùng quan trọng đã bị lộ mặt”. Lẽ tất nhiên tôi không chịu – cách phản ứng của người “chiến sĩ văn hóa độc lập ở miền Nam Tự do”, sống chết cho Tình bạn và Sự thật (!), tương tự như khi Mai Thảo phản đối Chu Tử, khi ông Chu tố cáo Vũ Hạnh nằm vùng (mà là nằm vùng thiệt sự hiểm độc). Mai Thảo đã có lời rộng lượng, hào hiệp: “Anh em văn nghệ với nhau đừng làm cho tụi cầm quyền nó coi thường chúng ta”! Vâng, ở miền Nam, có gì đi chăng nữa, người làm văn hóa, văn nghệ không hề kiêm chức cảnh sát, công an, chính ủy. Cho dù một người cầm đầu chính quyền (năm 1964) đã từng vuốt ve, tán dương: “Một cây bút là một sư đoàn!”, hoặc mời đến ăn sáng, tặng bao thơ có xấp giấy bạc năm trăm. Và nếu như có nhận khoản tiền biếu kia chăng, những kẻ viết văn, viết báo ấy (cho dù viết bài cho Bộ Thông tin, Tổng cục Chiến tranh Chính trị Bộ Quốc phòng) sau đó cũng không hề viết nên những câu: “Tổng thống anh minh Nguyễn Văn Thiệu đã ban chỉ đạo…” như cách mà hệ thống văn công, văn lại, trí thức, học giả… nơi miền Bắc đã phải viết: “Phần nhập đề của Marx, phần kết luận của Bác Hồ… Xin chỉ đọc phần giữa của tôi” - mà chúng ta nay đọc tới phải ngượng mặt. Hồi ký của một người viết văn (của miền Bắc) được miền Nam trước đây (trước 1975) đánh giá là “tay bản lãnh - bản lãnh hàng đầu”, Trần Dần (Ghi, NXB tdmemoire, Paris, 2001) có những câu “xưng tội” nghe đến thảm: “Tội mình có gì đâu mà (bị) đánh nặng quá”. Và ông đã ta “tự khai” với Tố Hữu: “Tôi đã đến với đồng chí Tố Hữu… Thế (nhưng) tại sao đồng chí THữu là người quản lý việc học của Ðảng (Trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương) lại không mở cửa cho người đã đến thành tâm gõ cửa?” Cho dù là một tay viết văn hạng xoàng của vùng tỉnh lẻ nam vĩ tuyến 17 cũng chưa hề phải thở than, cầu lụy với kẻ cầm quyền như thế. Chưa bao giờ. Thế nên, chúng ta quả đã thắng, và thua cũng từ ưu - khuyết điểm tốt lành nầy. Chẳng phải chỉ riêng giới viết văn làm báo, mà chung cho cả miền Nam rõ ràng không biết “sợ” và “nịnh” ai. Có ai ở Sài Gòn đã “lấy điểm với lãnh đạo” bằng cách xếp hạng: Bốn thi sĩ lớn của dân tộc: Bác Hồ, Trường Chinh, Lê Ðức Thọ, Tố Hữu? Cũng may, giới nghiên cứu, phê bình văn học miền Bắc không “tiến lên nền văn hóa hiện thực xã hội chủ nghĩa” với những “tác giả lớn” như Ðỗ Mười, Lê Khả Phiêu…


Khi Thơ bị lấy mất những nội dung đích thực

Trở lại chuyện Phan Duy Nhân. Chúng tôi bắt đầu với khung cảnh của bốn mươi lăm năm trước, nơi căn phòng nhỏ góc đường Khải Ðịnh - Nguyễn Hoàng, Ðà Nẵng...

Ðem tình thương dựng nên đời
Không tro tàn bếp lạnh
Mỗi độ xuân sang
Rộn tiếng trẻ thơ cười

Mắt anh rực sáng ánh lửa nhiệt tình khi đọc những lời thơ đằm đằm cảm xúc - ngọn lửa chân thật mà người ta chỉ có được lúc đang tuổi trẻ, chưa bị vướng bận những hệ lụy, lo toan, mưu định bẩn chật của cuộc sống - những câu thơ của Thủy Thủ (trung uý Thái Trần Trọng Nghĩa, binh chủng biệt động quân, khoá 14 Trường Võ bị Ðà Lạt, theo viên chỉ huy, đại uý Phan Lạc Tuyên trốn vào mật khu cộng sản sau biến cố quân sự 11 tháng 11, 1960) đăng ở trang đầu số Xuân nguyệt san Chỉ đạo của Cục Tâm lý chiến QLVNCH được Dinh đọc nhiều lần, tóc anh xòa xuống trán, những ngón tay đưa lên, run rẩy nhiều kịch tính. Ðám chúng tôi, tuổi 16, 17 ngồi nghe, nhìn anh thán phục, chen lẫn tự hào. Có thể nào như thế. Là con của một gia đình nghèo, nghèo nhất trong các bậc thang xã hội: Cha gác cổng xe lửa, mẹ bị bệnh lao phổi thời kỳ cuối cùng, em bị chứng tật nguyền bẩm sinh không ngồi dậy được. Thế tại sao trong cảnh khốn cùng nầy, con người bản lãnh kia vẫn không hề có chút mặc cảm, suy sụp bởi khốn khổ của bản thân, gia đình? Anh tự học Pháp văn để dịch Condition humaine của André Malraux; đọc, viết nên những lời thơ bừng bừng sức mạnh cao thượng nhân bản.

Ðộc lập, hòa bình, công bằng, nhân đạo
Mắt em thơ hớn hở nụ cười tròn
...
Nòi giống Việt thương yêu đời sống Việt
Triệu con người vươn lên từ cõi chết
Yêu anh em, yêu xã hội công bằng
Người yêu người xây dựng đến muôn năm
(“Tiếng hát của người đi tới”)

Những câu thơ như trên chỉ được hình thành từ trái tim chân thật của tuổi mườI tám, và cũng chỉ với một lần ở buổi thanh xuân trong sáng, người ta mới có thể viết nên lời cảm kích hào hùng như sau:

Vẫn còn đó anh em hàng triệu đứa
Yêu thương nhau cùng mở rộng vòng tay
Khi chết đi tim người xin để lại
Anh mang theo khoảng trống lấp không đầy
Thân băng hoại nhưng niềm tin hiện hữu
Cùng anh em đi đốt lửa mặt trời
Chúng ta sống bằng máu người đã chết
Người nối người dĩ vãng nối tương lai
Vì trên mặt đất nầy cây đã mọc
Vì hoa đời anh hái cả hai tay
Nên cuộc sống khác ngày giờ hý viện
Vô duyên như giấc mộng chẳng tròn đầy

Thân xác ấy thôi rồi tan rã hết
Vào hư vô không giọt máu hồng tươi
Tôi đã dặn khi giã từ cuộc sống
Nhớ cho tôi xin lại trái tim người
(“Trái tim còn lại”)

Phan Duy Nhân không chỉ làm cách mạng với chữ nghĩa, anh hiện thực nên hành động với chính máu của mình và bằng hữu. Nguyễn Văn Thụy, Trần Quang Long, Ngô Kha (em rể Trịnh Công Sơn), và một lớp tuổi trẻ của Ðà Nẵng - Huế trong suốt những năm từ 1963, qua 1966, đến Mậu Thân, 1968. Anh đóng góp phần lớn nhất, cụ thể nhất, sớm sủa hơn bất cứ ai với xác thân bị đánh đập, cùm xiềng, lâm cảnh tù tội khắc nghiệt cho cuộc đấu tranh của phía cộng sản (ẩn danh dưới những phong trào nhân dân ở miền Trung, mà cao điểm là lần bạo loạn ly khai chính phủ trung ương Sài Gòn, mùa Hè 1966). Và khâm phục biết bao sau khi bị bắn ngã trong lần dẫn đầu đám biểu tình xông ra đường Hoàng Diệu, Ðà Nẵng dịp Tổng công kích Mậu Thân (1968), rồi dẫu bị thương, bị đánh gãy xương sườn, anh cũng không chịu khuất phục đứng chào cờ vàng ba sọc đỏ. Cuối cùng nhân cơ hội được nằm nhà bệnh viện (do bị trọng thương), anh cố trốn thoát, bị bắt lại, và đày đi Côn Ðảo.

Nửa đêm cởi áo lội qua hào
Cớ sao tư bản bắn người cần lao?

Nên dẫu là người đối nghịch toàn diện với anh qua tất cả mọi vị thế, “Người lính quân đội cộng hòa - Người viết văn nơi vùng đất quốc gia” nhưng quả thật, tôi vẫn hằng kính phục anh như trong ngày tuổi trẻ khi nghe anh đọc những lời thơ cách mạng, thúc giục con người xuống đường dựng cờ chính nghĩa.

Tuy nhiên, tôi vẫn tin một điềukhông tin một điều mà chưa hề nói, viết ra trọn vẹn.

Ðấy là: Tôi không tin rằng anh là người cộng sản thuần thành mà chỉ là người mang nhiệt tình vào cuộc đấu tranh cho độc lập, hòa bình, công bằng, nhân đạo, để anh em, bằng hữu yêu thương nhau, thế hệ trẻ thơ chào đón tương lai vui hòa hạnh phúc. Cảnh tượng lý tưởng mà Thơ anh đã viết nên lời. Và, tôi cũng tin rằng: Cuộc chiến đấu của chúng tôi, lực lượng Tự do - Dân chủ (nơi miền Nam - của cả Việt Nam từ 1930, 1945) là cuộc Chiến đấu Chính nghĩa cho dẫu bị xuyên tạc, mạ lỵ đến thế nào, kể cả những kết thúc thất bại, hoặc phải chịu cái chết - như đã thật xẩy ra trong chiến tranh (1945-1975), và sau 30 tháng Tư, 1975 với từng cá nhân, tập thể quân dân, cán chính miền Nam và thế hệ con cháu họ bị đọa đày, khinh miệt.

Phải, chúng tôi, những người chiến dấu cho nền Tự do - Dân chủ là lực lượng của Ðộc lập - Hòa bình -Công bằng - Nhân đạo, chứ không phải lực lượng của phía anh, những người cộng sản. Ba mươi mốt năm qua kể từ 1975 đã, đang minh chứng điều đơn giản cao thượng nầy.

Hai điều trên có vẻ đối nghịch, khó dung hợp được cùng nhau, và quả tình, tôi cũng không mấy chắc vào điều tin thứ nhất, dẫu luôn nhắc nhở: Anh là Bạn tôi, người bạn thời niên thiếu, người đã sống cùng nhau thật dạ thương yêu, tin cậy như “trái tim còn lại”, không thể mang đi theo cùng cái chết.

Tôi chưa có cơ hội để nói với anh điều trên thì xẩy ra kết thúc 30 tháng Tư, 1975, và câu trả lời cho hai vấn đề trên cùng lần được giải tỏa: Thơ đã bị tước đoạt giá trị của những chữ, nghĩa do người tên gọi Phan Duy Nhân hằng viết nên. Tôi tiếp tục chứng minh qua những câu chuyện sau đây với những sự kiện gây mối nặng lòng, làm trầm trọng thêm mối đau không cơ hội hồi phục. Nỗi đau lớn hơn cái chết. Tai họa thương tâm hơn sự chết.

Không cần phải đợi đến ngày 30 tháng Tư, 1975, chỉ một ngày sau khi mất Ðà Nẵng, đầu tháng Tư, 1975, Phan Chánh Dinh, hay Phan Duy Nhân, đã xuất hiện ngay tại những cơ sở cộng sản nằm vùng ở Ðà Nẵng, cho gọi những người mà hơn mườI lăm năm trước anh giao thiệp, quen biết. Qua nhân sự của những tổ chức nầy, Dinh ra lệnh cho Trần Gia Phụng (hiện ở Toronto, Canada, giáo sư Phan Châu Trinh, cũng là học sinh của trường, niên khoá trước 1960, cùng thời với Dinh, và chung lớp với tôi) phá kho thuốc của hội Hồng thập tự, cơ sở Ðà Nẵng. Ðúng tác phong nhà giáo, gốc cương trực Quảng Nam, Phụng từ chối với lẽ:“Kho thuốc Hồng thập tự chỉ xuất ra trong trường hợp khẩn cấp theo lệnh từ Sài Gòn; nay chỉ mới mất Ðà Nẵng mấy ngày, tôi không thể muối mặt làm trái lẽ được”. Không phải đợi chờ lâu, ngày 1 tháng 5, Dinh ra mặt công khai, chủ trì buổi họp toàn bộ trí thức, giáo chức, những người làm công tác văn hóa của thị xã với tư cách uỷ viên văn hóa Khu uỷ Quảng Nam - Ðà Nẵng (Dinh được trao trả về phía cộng sản theo điều khoản Hiệp định Paris, tháng 3, 1973 tại Lộc Ninh - người trao trả chính lại là bản thân tôi chứ không ai khác). Trong buổi họp, Phụng có đưa câu hỏi liên quan đến tình hình, nhân sự của thời buổi mới: “Giả sử như anh bắt được Phan Nhật Nam thì sao?”. Phụng muốn dò xem sự thay đổi nơi con người nầy, bởi anh cũng như nhiều người thuộc lớp tuổi ở Ðà Nẵng đều biết mối thâm tình giữa Dinh và tôi từ những năm trước. Không ngần ngại, Dinh trả lời:“Ðối với trường hợp như Phan Nhật Nam là Giết! Giết! Giết!”. Chữ“giết” được nói lên rõ ràng dứt khoát. Sau nầy, nghe Phụng kể lại, tôi không tin rằng anh đã dựng chuyện (để làm gì?); nhưng đồng thời cũng không muốn tin nội dung độc ác kia đã xuất phát từ một người mà tôi gọi nên với danh tự hàm súc: Người Bạn. Năm 1995, Nguyễn Bá Trạc (San José) khi viết lại câu chuyện không mấy tốt lành nầy, cũng tỏ ý nghi ngờ câu nói “đáng sợ và vô ích kia” với cách nhìn đôn hậu: “Ngày nay, Dinh là đồng chí Nguyễn Chính phụ trách tôn giáo trong Trung ương Ðảng, đã trở về Ðà Nẵng xa xưa của chúng tôi như Pacha Antipov đổi thành Trelnikov trở về Matxcơva. Tôi vẫn hy vọng câu chuyện không đúng như vậy. Nhưng nếu câu chuyện là đúng như vậy, thế giới nầy là một tàu ngầm thiếu dưỡng khí. Làm sao ngoi lên được?”. Riêng bản thân, sau tháng năm dài đày đọa nơi chốn ngục tù của những người cộng sản, chạm tới sự chết có thật nơi những hầm tử hình cấm cố ở miền Bắc, giá như cái chết (xác thân) nếu xẩy ra, cũng không là điều quá lo sợ. Thế nên, khi nghe câu chuyện, tôi chỉ có phản ứng phiền muộn: “Giết (bạn mình) để làm gì?” và, phải chăng câu nói chỉ là nói như một “nhu cầu phát biểu” của kẻ đang trong cơn say chiến thắng?”. Tôi tự an ủi với ý nghĩ không nói ra. Nhưng, quả thật chỉ nghĩ thôi cũng đã thấy xót xa. Trần Gia Phụng kể thêm chi tiết: Sau buổi họp anh được “lưu dung cho ở lại trường”, nhưng chỉ được làm những công tác “lưu dung”. Có nghĩa, văn bằng Ðại học Sư phạm của anh chỉ xứng với chức năng của một lao công, cách ứng xử được đánh giá là “biện pháp khoan hồng” của Dinh đối với một người quen biết cũ thuộc chế độ “phản động” vừa bị đánh sụp.

Dinh không chỉ biểu lộ uy quyền ở Ðà Nẵng, với những người quen biết, anh ra lệnh truy lùng viên cảnh sát đã khảo cung anh ngày trước. Cuối cùng, Dinh tìm được tung tích người nầy tại một trại tỵ nạn ở Long Khánh. Một ngày sau 1975, Dinh, nay đã là đồng chí Nguyễn Chính, thành phần lãnh đạo Ban Tôn giáo Trung ương, dừng xe command car trước cửa căn lều của người nầy, bước xuống với hai cận vệ súng AKA cầm tay. Cả gia đình người cảnh sát, vợ, các con, những đứa cháu nhỏ đồng nằm bẹp xuống đất chắp tay lạy van xin tha tội. Hai người cận vệ đưa nòng súng nhắm vào đầu đám người nằm dưới đất, trẻ con lẫn người lớn đợi lệnh hành quyết. Người tranh đấu Phan Chánh Dinh, thi sĩ Phan Duy Nhân, phó Ban Tôn giáo Trung ương Nguyễn Chính đưa tay lên ra lệnh hạ nòng súng. Anh nói lời tha tội, cao cả chen lẫn khinh miệt. Cả gia đình người cảnh sát quỳ xuống lạy tạ thêm lần nữa cho đến khi xe Nguyễn Chính đi khỏi. Chuyện kể theo mô tả trong bài viết của Nguyễn Chí Thiệp (Houston,Texas) đăng ở tập san Kỷ niệm 50 Trường Phan Châu Trinh, Ðà Nẵng. Thiệp đã ngồi cạnh Dinh suốt sáu năm ở ngôi trường nầy. Qua bài viết, Thiệp đặt thêm cho Dinh nhiều vấn đề như: “liêm sỉ của người cầm bút; khí tiết bản lãnh của người làm cách mạng”. Nhưng thôi. Tôi nghĩ đã quá đủ.

Ngày tôi đi tù về, khoảng giữa năm 1991, họa sĩ Hồ Thành Ðức (cũng người Ðà Nẵng, đồng quen thân với Dinh và tôi) chuyển giao cho một thiệp cưới của Phan Dương Triều Tân (con gái Phan Duy Nhân), nhưng không viết thêm một chữ nào. Tôi hiểu ý của hành vi nầy: “Anh muốn chối từ gặp người bạn cũ”. Tôi trao trả (qua Hồ Thành Ðức) tấm ảnh anh tặng hồi 1959; cũng không một chữ viết trở lại.

Kết thúc tất cả câu chuyện dài vừa kể trên, tại Mỹ, năm 2004, Dinh gởi cho tôi lá thư, và tập san Thơ, Huế những dòng sông, trong đó có đăng bài thơ “Tình khúc tháng Giêng” của anh. Thư có những hàng chữ thân tình trân trọng (có phần xã giao, khách sáo khác với lá thư dày đến 20 trang ngày trước –1961 - anh gởi cho khi tôi đang ở Trường Ðà Lạt) và tôi đọc được những lời:

Thanh thản những tháng ngày treo ngược
Không chỉ kẻ thù
còn nữa
giữa anh em!

A, cuối cùng là đây. Anh đang ở những trong “những tháng ngày treo ngược” ngay “giữa anh em (cộng sản) của mình”. Và anh lại trở về chốn trú ẩn đầu tiên (như anh đã bày tỏ cùng tôi) - về tình yêu với tiếng lời một lần thắm thiết:

Thèm ăn một chút hoa ngâu tím
Và nuốt hồn em vô trái tim

Ðể hôm nay, dừng lại tại kết thúc:

Ðời dẫu nung ta ngàn độ nhiệt.
Tim người thành thép được đâu em?
Vẫn nguyên thủy tình yêu tự tại
Nơi bốn mùa nắng gió hồn nhiên

Hôm nay, sau một trận biển dâu kinh hoàng mà mỗi cá nhân gọi là người Việt Nam đồng phải dự phần qua những hoàn cảnh khắc nghiệt mà không ai có thể lường trước được, hoặc nghĩ ra cho dù trí tưởng tượng phong phú nhất. Trong khối người Việt sống sót kia, từ câu chuyện dài gần nửa thế kỷ vừa kể ra trên, với số tuổi “sáu mươi”, chúng tôi nhận ra đôi điều mà chắc không hề là quan điểm (chính trị) quyết đoán, cố chấp; càng không là hậu quả của cách suy nghĩ do tác động của phản ứng thù hận. Ðiều oán hờn cay đắng ấy là: Hóa ra, Phan Chánh Dinh (cũng tương tự như những người cộng sản dụng chữ, nghĩa vào trận đấu tranh mà họ đã tham dự với tất cả nhiệt tình tin tưởng - những Tố Hữu, Huy Cận, Văn Cao, Trần Dần, Nguyên Ngọc, Nguyễn Duy…) không phải một người làm Thơ chân thật như anh (thật lòng) mong muốn, mà chỉ là một cá nhân thực hiện bạo lực - bạo lực cách mạng thuộc tập thể những người (gọi là) cộng sản hằng hiện thực (phản ảnh đầy đủ trong những dòng chữ viết) trên đất nước Việt suốt hơn nửa thế kỷ vừa qua. Anh và tập thể của anh “không để lại trái tim” mà chỉ trải dài “những ác độc bất nhẫn ngay với trái tim mình”. Họ, những người cộng sản Việt không hành xử bạo lực đơn lẻ nơi địa phận nước Việt, trong chiến tranh (gọi là Quốc - Cộng) mà có đủ, có rất nhiều đồng chí khắp nơi trên quả đất, nơi đang diễn tiến những cuộc “cách mạng rung chuyển thế giới” – những người cộng sản thần thánh, điển hình như một Abakumov, Bộ trưởng An ninh của Liên bang Sô-Viết nghiêm chỉnh ghi chú, lắng nghe Stalin chỉ đạo cách thanh toán tầng lớp thanh niên đã một lần được đánh giá là “thành phần xung kích cách mạng”: “Anh phải canh chừng cẩn mật cung cách của bọn sinh viên – Dẹp chúng thẳng tay – không phải một vài tên đơn lẻ mà là cả bọn. Và cho chúng lãnh hình phạt tối đa pháp luật cho phép – Phải là hai mươi lăm năm, chứ không là mười năm. Mười năm không thể gọi là nhốt tù, chỉ là đi nghỉ mát. Mười năm tù chỉ nên để phạt tụi học trò con nít, nhưng khi chúng trở thành bọn thanh niên gây rối thì phải nhốt đủ hai mươi lăm năm. Chúng nó còn trẻ, sống sót được (sau hạn hai mươi lăm năm tù) không hề gì." Lệnh “thanh toán” vừa kể không chỉ xẩy ra qua chữ nghĩa trong Tầng đầu địa ngục của Alexander Sozhenitsyn, ở Nga, ở Tiệp…, mà được thực hiện triệt để (và sáng tạo) nơi các “Trường vừa học vừa làm”, cũng là cơ sở của trại giam Phố Lu, Thanh Phong, Thanh Cẩm… Những trung tâm “giáo dục cải tạo” do công an thuộc Cục Quản lý trại giam điều hành “quá trình cải tạo (vô hạn định) thanh thiếu niên phạm pháp” dành cho những tội danh ”phá hoại tài sản xã hội chủ nghĩa", tức ăn cắp dăm cân sắn của hợp tác xã. Những địa danh nầy đã được một trong những “người viết văn cách mạng”, Nguyễn Công Hoan ca ngợi:

Ra đi cứ tưởng rừng hoang
Tới nơi mới biết Phong Quang đẹp giàu

Chủ nghĩa, chế độ cộng sản không phải chỉ tồn tại, phát triển, thâu đoạt thắng lợi qua thực hiện bạo lực không khoan nhượng (riêng đối với kẻ thù) mà ngay cả những thành phần nhân dân (vô tội) bị quy kết, đánh giá là “thành phần phản cách mạng” như tầng lớp tiểu nông, hào dịch của nông thôn miền Bắc trong chiến dịch Cải cách Ruộng đất 1953; hoặc khối đông thanh niên, trí thức Nga khi Stalin củng cố quyền lực ở Liên bang Sô-Viết trước, sau Thế chiến lần thứ Hai (1939-1945). Nhưng chủ nghĩa, chế độ ấy còn củng cố sức mạnh chuyên chế của mình trên thân phận của chính mỗi con người (gọi là) cộng sản, cho dù cá nhân kia là kẻ nắm giữ chức vụ, quyền thế lớn đến bao nhiêu (Lẽ tất nhiên không phải là Lãnh tụ Số 1- Cá nhân đồng nghĩa với Tổ chức - Ðảng Cộng sản – Những người tên gọi Stalin, Mao Trạch Ðông, Hồ Chí Minh). Ðấy là thân phận (bi thảm) phổ quát như Arthur Koestler đã miêu tả qua tình thế của Rubashov trong Darkness at Noon: “Trong thoáng ngắn, như một lượn sóng ào ạt mãnh liệt, ông ta nhớ lại toàn thể những gì của bốn mươi năm qua. Những điều (thiêng liêng) đã khiến ông rất đỗi tin tưởng, cầu mong, và nhiệt thành chiến đấu. Ðảng là tất cả; cá nhân không là gì cả… như cành lá khô kiệt khi lìa khỏi thân cây...”

Vâng, Tổ chức là tất cả! Ðảng là tất cả! Nên, các anh không còn quyền yêu thương (đối với bạn). Các anh cũng không được quyền biểu lộ lòng thù hận (đối với kẻ thù). Tôi không xem việc Phan Chánh Dinh – Nguyễn Chính đi truy lùng người cảnh sát đã một lần hỏi cung, tra tấn anh ngày trước là một hành vi trả thù cá nhân nhỏ nhen, nhưng đánh giá đấy là cung cách tự nâng mình lên cao hơn hẳn (nỗi khổ đau, cơn bất hạnh, lòng yêu thương, sự hận thù của chính mình) với lòng kiêu hãnh đáng sợ (triệt tiêu bản thân của người cộng sản) như đã manh nha qua lần anh đùa cợt với đứa em tật nguyền bại liệt: “Nầy, ông Phù Ðổng Thiên Vương của tôi…”. Phải, chỉ có thế. Và chắc là như thế. Cơn mộng du sôi lửa của cả tập thể - mỗi cá nhân (cộng sản) nầy phải chấm dứt. Chấm dứt qua ngưỡng cửa Khổ Ðau, để chia sẻ cùng nhau về lần lâm tử thê thiết của mỗi người Việt Nam. Của bất kỳ ai. Huynh trưởng Nguyễn Mạnh Côn bị kiên giam, bỏ đói, chết với tiếng kêu thương đau, khắc khoải lịm dần. Khát quá! Khát quá! vang vọng suốt đêm nơi Trại Z 30D, Hàm Tân, Thuận Hải. Chúng tôi quả đã kiệt lực dưới khối nặng tàn nhẫn của sự Ác gọi là xã hội chủ nghĩa, nên đến lúc phải chấm dứt câu chuyện với lời mô tả đúc kết của Trần Vàng Sao:

Nhiều khi tôi quá chán
chân tay rã rời
đầu óc đau nhức
không muốn làm chi hết

giụi mắt nghĩ hết chuyện nầy chuyện nọ
nói chi những đứa đã chết trên rừng ngoài phố
bạn bè có đứa giàu có đứa nghèo
đứa ngụy đứa cách mạng
đứa tiền của ăn tiêu mấy không hết
đứa không có cái áo lành
đứa đi kinh tế mới ba bảy tám năm trở về
xách cái bị lát mặt cắt không còn hột máu
đứa đạp xe thồ ngồi vắt chân ăn củ sắn chở khách ở bến xe
đứa vô tích sự ở nhà không có việc chi làm
đứa râu tóc dài che kín mặt
có đứa tàng tàng không nhớ mình tên chi
có đứa chịu không nổi dắt vợ con vào nam ăn đường ngủ chợ
...
hết chuyện nói.
("Người đàn ông 43 tuổi nói về mình")

Anh hẳn nhớ Trần Vàng Sao - Nguyễn Ðính - vì đấy là người cùng anh, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Ðắc Xuân, Hoàng Văn Giàu… dựng nên tờ Việt Nam! Việt Nam! Tờ báo đốt ngọn lửa “Chống Mỹ cật lực” của thanh niên, sinh viên, trí thức Huế mùa Hè ngày 1966. Anh cũng biết về bối cảnh của hình tượng “Xã hội xã hội chủ nghĩa“ mà Trần Vàng Sao mô tả, bởi nó không lạ với anh và tôi - Ðấy là thành phố Huế, nơi anh đã sinh ra, lớn lên, và làm cách mạng với mục đích “độc lập - hòa bình - công bằng - nhân đạo”. Các thầy dạy anh và tôi ở Huế, Ðà Nẵng như Trần Ðiền, Tôn Thất Tạ, Nguyễn Văn Tường, Trần Ngọc Quế, Trịnh Thể… đồng bị thảm sát bởi bộ đội, công an cộng sản. Chẳng lẽ chúng ta cam lòng yên ổn với định nghĩa: Ðấy là những người “có tội” - “Tội” do đã dạy anh và tôi (cùng nhiều người khác nữa) nên người.


Thi sĩ hằng sống

Tận đêm đen đe dọa khinh miệt, Thơ sáng bừng ánh Lửa Từ bi che chở. Giữa ngục tù độc ác, Thơ dịu dàng âm âm tiếng Chuông Nhân ái đổ dài theo buổi chiều êm chìm bóng nắng. Quanh trùng vây núi thâm hiểm đọa đày, Thơ cúi xuống vỗ về như dòng nước xanh trong vắt con suối đổ gợi lên giọng đàn xưa muôn mãi âm vang. Thơ vô lượng bởi Thơ viết từ Tình thương con Người bất tận - Thơ Tuệ Sĩ.

Tôi cậy đến những lời thơ trong như ngọc kết của Tuệ Sĩ vì người là nạn nhân đầu tiên, đối tượng cần phải bị tiêu diệt toàn diện bởi chính sách của Ban Tôn giáo Trung ương Ðảng mà mặt trận phía Nam có sự tham dự của Nguyễn Chính - Người làm thơ tên gọi Phan Duy Nhân. Và những lời thơ sau đây là chứng cớ mà những người cộng sản đã nại ra để thực hiện lần buộc tội ác nghiệt nhất suốt nhân loại chưa từng chứng kiến, dẫu chế độ cầm quyền u tối, tàn bạo đến thế nào..

Tôi vẫn đợi những đêm xanh khắc khoải
Màu xanh xao trong tiếng khóc ven rừng
Trong bóng tối hận thù tha thiết mãi
Một vì sao bên khoé miệng rưng rưng
Tôi vẫn đợi một đêm đen lặng gió
Màu đen huyền ánh mắt tự ngàn xưa
Nhìn hun hút cho thêm dài lịch sử
Dài con sông tràn máu lệ quê cha
Tôi vẫn đợi suốt đời quên sóng vỗ
Quên những người xuôi ngược Thái Bình Dương
Người ở lại với bàn tay bạo chúa
Cọng lau gầy trĩu nặng ánh tà dương
Rồi trước mắt ngục tù thân bé bỏng
Ngón tay nào gõ nhịp xuống tường rêu
Rồi khép lại hàng mi về cõi mộng
Như sương mai như bóng chớp mây chiều

Có thể nào như thế? Có thể nào Con Người bị nhận chìm tận đáy của sự chết do “lỗi có lòng yêu người” - Sự chết có thật với bóng đen tù ngục vây chặt trùng trùng núi đá thẫm xanh âm u nghiệt ngã. Sự chết có thật vào năm thứ mười, năm thứ hai mươi đối diện, đương cự với cách khinh miệt toát ra từ những tròng mắt chó đá, những khuôn mặt hận thù vô nhân tính như kết bằng giấy bồi cứng không cảm xúc - Bởi nếu là người còn có một phần nhân tính, xúc động nhỏ nhoi thì không ai nỡ xuống tay giết Người vì tội từ những dòng Thơ? Nhưng Người vẫn dũng mãnh im lặng và kiên trì chờ đợi. Người không chờ Thượng đế siêu hình, Người chờ với Nỗi Ðau có thật. Nỗi Ðau không còn hơi sức để khóc mà phải cậy đến giọt lệ ứa sắc sao xanh đọng trên khoé miệng hấp hối. Ðau làm vỡ khối đen biền biệt kín dày che lấp toàn phần vũ trụ - Khối đen vô hạn của sự Chết. Nỗi Ðau khi Con Người bị huỷ diệt lớn hơn sự vô cùng của cái Chết. Và cuối cùng, Người vượt sống, Phục Sinh cùng Thơ - Tình Yêu: Suối nguồn hoan lạc, sức mạnh vô vàn:

Nhưng ánh mắt không căm thù lửa đỏ
Vì yêu em trên cây lá đọng sương mai

Tuy cuộc chiến đấu bi tráng, khắc khoải, luôn cận kề, tiếp giáp, thấm đẫm sự chết nhưng không hề tuyệt vọng. Bởi đấy là cuộc chiến đấu vinh hiển bảo vệ giá trị vĩnh cửu quyền xứng đáng làm người:

Anh chiến đấu nhọc nhằn như cỏ dại
Thoảng trông em tà áo mỏng vai gầy
Ôi hạnh phúc anh thấy mình nhỏ bé
Chép tình yêu trên trang giấy thơ ngây
Ðời lữ khách biết bao giờ yên nghĩ
Giữa rừng khuya nằm đợi bóng sao Mai

Cuộc chiến đấu nầy kéo dài bất tận vì oan khiên thay, sự Ác hình như luôn đến trước tính Thiện mà người trung chính hằng phải chịu cảnh nghiệt cùng:

Mười năm sau anh băng rừng vượt suối
Tìm quê hương trên vết máu giữa đồng hoang

Và ngày ấy anh trở về phố cũ
Giữa con đường còn rợp bóng tang thương

Nỗi xót xa nầy - xót xa khi Con Người-Thi Sĩ bị vùi dập khinh miệt - không phải bởi bứt lìa giữa “quê nhà và chốn lưu đày”, nhưng nơi đây tình cảnh thống thiết hơn bội phần vì, “lưu đầy ngay trên chính quê hương mình”. Người bị đuổi ra khỏi nhà, lưu vong trên quê hương máu thịt của mình. Ðấy là mối đau của Tô Ðông Pha “tự mình tiễn mình” lên miền Bắc buốt giá:

Suy ông tống khách thủy biên thành
Sa thấu mã đề ô mạo điểm
Ngang đầu vấn khách kỷ thời quy
Khách đạo thu phong diệp lạc phi.

Già nầy tiễn khách ven sông
Xe lăn ngựa hí rung rung mũ huyền
Ngửng đầu hỏi sự hồi viên
Khách cười lá rụng ta liền gặp nhau
(Thày Cò phỏng dịch)

Vâng, chỉ có một tiếng cười nhẹ tênh mà thôi để trả lời cho câu hỏi ai oán “Bao giờ gặp nhau?”. Biết bao giờ gặp nhau (?!) - Bởi đây là, “lưu đầy thân ta trên chốn nhà ta!” nên có đi Bắc, hay về Nam tất cả cũng đã là vô ích:

Nam lai bất giác tuế tranh vanh
Dạ bán hàn hôi thính vũ thanh
Già nhãn văn thơ nguyên bất độc
Bạn nhân đăng hỏa diệc đa tình

Về Nam bất chợt thấy đơn côi
Ðêm vắng tro tàn mưa lắng rơi
Mắt mỏi thơ văn không đọc nữa
Ða tình đèn lửa bạn như tôi
(Thày Cò phỏng dịch)

Tất cả đã là vô ích, tình cảnh như trước khi đi vào Mười tầng Ðịa ngục của Dante:

Before Me Nothing But Eternal Things
Were Made, And I Shall Last Eternally
Abandon Every Hope, All You Who Entered

Trước Ðịa Ngục- Tất Cả đã trở nên vĩnh cửu
Chỉ riêng Ta - Nguồn Hiện Hữu muôn đời
Người bước vào – Mối Hy Vọng lìa tan !
(Phan Nhật Nam phỏng dịch)

Người Việt với khổ nạn miên viễn của hơn nửa thế kỷ qua đã không ngại đến cảnh địa ngục đáng sợ kia nữa, bởi mỗi người đã hoàn tất nên phần địa ngục của riêng mình với những tháng ngày kinh hoàng im lặng mà Tô Thùy Yên đã viết ra qua chữ nghĩa thản nhiên cào xé đến kỳ lạ:

Ta về qua những truông cùng phá
Nếp trán nhăn đùa ngọn cỏ may
Mười năm mặt xạm soi khe nước
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ
("Ta về", Sài Gòn 1989)

Cảnh tượng nhìn mặt mình qua dòng khe nước không phải do từ một trí tưởng tượng được thi ca hoá, mà là một động tác tự nhiên của rất nhiều người. Những cô gái mặt sáng đẹp như tranh tượng, mẫu người Hà Nội thanh lịch còn sót lại sau đợt tổng càn quét “tư sản phản động” tháng 1957; những thành phầnbị xếp hạng “ngụy quân, ngụy quyền”; những người có đôi chút tài sản của nơi chốn văn vật phong nhã Thăng Long đồng bị lưu đầy lên vùng núi non Tây Bắc. Những cô gái sinh ra ở năm, tháng khắc nghiệt kia (trước sau 1954), lớn lên giữa núi rừng Hoàng Liên Sơn cho đến khi những người tù miền Nam ra đến nơi 1976, mới biết rằng trong cuộc sống có những vật dụng dành riêng cho thiếu nữ, đàn bà như quần áo lót vải mỏng mềm, áo dài, xà phòng thơm, nước hoa… Họ mới biết rằng bài hát tuổi trẻ không phải để ca tụng những kẻ cầm quyền cằn cỗi ở Hà Nội, mà nói về một tình yêu trai gái.

Nếu không có một lần
Một lần như đêm nay
Sau phút giây
Êm đềm trên ghế đá
Anh không cài khuy áo ngực cho em..
(Dư Thị Hoàn, Văn nghệ số 7 tháng 5, Hà Nội, 1988)

Phải mất đến ba mươi bốn năm từ 1954 đến 1988, những người tuổi trẻ miền Bắc mới hoàn tất nụ hôn và cởi được khuy áo ngực người tình! Ðau thương thay và cũng uất hận xiết bao!

Nhưng chúng ta không tuyệt vọng, bởi Thi Sĩ không hề bỏ cuộc Tình Yêu Người, dẫu xác thân tan vỡ bởi đọa đày, dẫu tóc sương nhuốm bạc màu cằn cỗi:

Mười năm đó anh quên mình sậy yếu
Trên vai gầy từ thuở dựng quê hương
Anh cúi xuống nghe núi rừng hợp tấu
Bản Tình Ca vô tận của Ðông Phương

Bản Tình Ca vô tận cũng là Tuyên Ngôn Yêu Thương của Trái Tim Bất Hoại Bồ Tát mà Con Người hiện thực từ Khổ Nạn Nhân Sinh, từ Nỗi Ðau Dân Tộc với Lời Thơ Bất Diệt.

Cuối cùng, Người Sống-Chiến Ðấu-Hy Vọng trên cuộc lữ miên viễn với tấm lòng Thi Sĩ, của trí tuệ Tiên Tri kết nên Một - Tuệ Sĩ.

Hoá ra, cội nguồn của Ðạo, tất cả trường phái triết học, công trình văn học, nghệ thuật chỉ có giá trị đích thực khi chạm đến tận cùng Mối Ðau.

Cali, Ba mươi-mốt năm sau, ngày mở trận Ban Mê Thuột (10 Tháng 3, 1975-2006)

© 2006 talawas
Nguồn: Tạp chí Hợp LÆ°u số 88, tháng 4 & 5.2006