trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 235 bài
  1 - 20 / 235 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tư tưởngChiến tranh nhìn từ nhiều phía
27.3.2007
Mark Moyar
Sư chính trị: Phong trào Phật tử tranh đấu trong cuộc chiến Việt Nam
Trần Hải dịch
 1   2 
 
Hội đồng Quốc gia Tối cao, vừa được thành lập gồm có những đại diện của những nhóm lớn trong nước, được triệu tập vào khoảng cuối tháng Mười để chọn lãnh đạo mới cho đất nước. Hội đồng đã chọn Phạm Khắc Sửu - một nhân vật đã lớn tuổi làm quốc trưởng, và Sửu cử Trần Văn Hương làm thủ tướng, chức vụ với quyền lực lớn nhất. [1] Hương là một người theo chủ nghĩa quốc gia bướng bỉnh, bảo thủ, ghét cộng sản và đã từ chối phục vụ trong chính quyền Bảo Đại trước đây. Ông ấy là một trong số ít người có bản lĩnh và quyết tâm và chính là người cần thiết lúc ấy để chấm dứt tình trạnh hỗn loạn ở Sài Gòn. Hương chống lại chính sách hoà hoãn của Khánh đối với Phật giáo và dự định thực thi một chính sách tương tự như của Diệm, qua đó trật tự được ổn định cho dù có nghĩa là phải đàn áp sự chống đối của phía Phật giáo.

Giống Diệm và khác Khánh, Hương xem Trí Quang là một mối đe doạ không thể cùng tồn tại đối với sự sống còn của đất nước. Trong một cuộc phỏng vấn với phóng viên người Mỹ Marguerite Higgins, Huơng nói về Trí Quang, “Ông ta nói như một người cộng sản. Những điều ông làm có lợi cho cộng sản. Nhưng người Mỹ quí vị muốn chứng cớ tuyệt đối. Và bằng chứng thì không phải là chứng cớ tuyệt đối. Chúng tôi có thể chứng minh là Trí Quang đã họp với cán bộ Việt cộng cao cấp ở Vũng Tàu (Cap Saint Jacques). Nhưng Thích Trí Quang lại có thể nói rằng ông ta đến đó là để cải giáo những người cộng sản thành Phật tử - và một số người cũng tin ông ta!” [2]

Những Phật tử tranh đấu ngay lập tức thử sức Hương. Họ tổ chức biểu tình đấu tố chính quyền và đòi nội các từ chức. Trong một thông báo công khai, họ gọi Hương là “kẻ ngu xuẩn, phản quốc, mập phệ, cứng đầu vô chính sách.” Họ xem chính quyền Hương “không cách mạng” và có chứa tàn dư của chế độ Diệm.” Điều tố cáo này không có cơ sở vì đa số các thành viên nội các được chọn vì đã không tham gia hoạt động chính trị của đảng phái nào. Trí Quang cũng không nêu được một ai khác có thể thay thế Hương. “Chúng tôi không bao giờ ham muốn gì cả, và nói rằng Phật giáo muốn điều này, điều nọ là sai. Chúng tôi không bao giờ bảo trợ một cá nhân nào.” [3] Câu này đã phủ nhận những cáo buộc đối với Diệm, Khánh, Hương, người Công giáo, Đảng Cần lao và Đại Việt, cũng như lời hứa ủng hộ mà Trí Quang đã bán cho Khánh trong tháng Tám. Sự bảo trợ, và chống đối, của Trí Quang đối với cá nhân các chính trị gia sẽ gia tăng ngay trong những tháng sau đó.

Cho dù những Phật tử tranh đấu thường dùng ngôn từ mập mờ, chung chung khi bày tỏ sự chống đối Hương, điều làm họ bực nhất là Hương chủ ý tái lập trật tự và từ chối đáp ứng những yêu sách của Phật giáo. Các lãnh tụ Phật tử lên án mạnh mẽ kế hoạch của Hương nhằm hạn chế những cuộc biểu tình, và một số thậm chí còn kêu gọi cắt giảm các hoạt động quân sự. [4] Các lãnh tụ Phật giáo tuyên bố họ thích tình trạng bất ổn định và sự rã đám của chính quyền hơn là một chính quyền có khả năng do Hương lãnh đạo, cho dù điều đó có tiếp tay cho Việt cộng. “Chẳng thà chính trị bỏ ngỏ còn hơn là để Hương cầm quyền,” một lãnh tụ Phật giáo đã nói.” Chính quyền này sẽ phải ra đi.” [5]

Mặc dù bị áp lực từ phía Phật giáo, Hương nhất định không dung thứ những cuộc biểu tình có hơi hướng bạo loạn, cũng không chịu nhượng bộ. Khi những Phật tử tranh đấu và sinh viên tổ chức biểu tình lớn, Hương ra lệnh cho quân đội giải tán với vòi rồng và lựu đạn cay và binh sĩ đã hoàn thành nhiệm vụ. [6] Các Phật tử tranh đấu lại cáo buộc các lực lượng an ninh đã làm một số người chết và bị thương trong trong những tuần đầu của nhiệm kỳ của Hương, nhưng thực ra không có ai chết và số bị thương rất thấp so với những lời tố cáo từ phía Phật giáo. [7] Hương cũng áp đặt kiểm duyệt báo chí, đóng cửa 10 tờ báo bị nghi ngờ là cộng tác với cộng sản. [8]

Tại một buổi biểu tình chống chính quyền khoảng cuối tháng Mười Một, phía Phật tử tranh đấu gia tăng bạo loạn. Một đám đông gồm nhóm Phật tử tranh đấu và những kẻ phản đối khác ném đá và tấn công cảnh sát bằng gậy gộc. Một vài kẻ ném lựu đạn có sức ép mạnh, loại Việt cộng thường dùng, vì vậy một binh sĩ Nhảy Dù đã bắn súng lục về phía đó. Những loạt đạn này lại làm chết một em trai 15 tuổi. Phía Phật giáo sau đó ra tối hậu thư đòi quân đội và cảnh sát không được đụng đến những kẻ biểu tình và buộc Hương phải từ chức. Hương đáp lại bằng lệnh cấm tụ tập nơi công cộng và đóng cửa một số trường học.

Công khai thể hiện mối nghi ngờ có sự đồng loã với cộng sản, Hương tuyên bố trên đài phát thanh rằng bất ổn là do lỗi “của những kẻ vô trách nhiệm, những người đã vô tình hay cố ý theo kế hoạch của cộng sản.” [9]

Hương đã thành công trong việc dẹp loạn ở Sài Gòn, nhưng ông đã không đạt đươc tiến bộ trong một số lãnh vực quan trọng. Trước những mưu đồ của phía Phật giáo và sự bất đồng về cách giải quyết đối với những cuộc biểu tình của Phật tử càng làm chia rẽ thành phần lãnh đạo của Nam Việt Nam. Nội các của Hương và các tướng lãnh đã chia thành hai phe, bên theo và bên chống Hương, và những kẻ chống Hương lại hợp tác với Trí Quang. Vì sự thiếu đoàn kết này và những rạn vỡ đã xảy ra trước đó, Hương đã không thể phục hồi cơ cấu hành chính trên cả nước. “Hậu quả của tình trạng bế tắc chính trị ở Sài Gòn dần dần xuất hiện tại các tỉnh.” Như Taylor đã nhận xét trong một báo cáo. “Nhất là các công chức không biết phải hành động ra sao và do đó thường theo khuynh hướng e dè cố hữu khi không có một tiếng nói mạnh mẽ có thẩm quyền chỉ đạo họ.” [10]

Vào đầu tháng Mười hai, sau khi đã tham khảo ý kiến Tổng thống Johnson ở Washington, Đại sứ Taylor thực hiện một chương trình mật để kiềm chế sự chống đối từ Phật giáo. Ông ra lệnh cho các viên chức toà đại sứ Mỹ tìm cách cô lập Trí Quang và Tâm Châu với những Phật tử khác. Tình hình lúc đó thuận lợi cho việc này vì ngày càng có nhiều lãnh tụ Phật tử đã tỉnh ngộ vì Trí Quang chống đối chính quyền dữ dội nhằm phá hoại một chính quyền chẳng có vẻ gì là thiếu bao dung về tôn giáo. Vào cuối năm, Mai Thọ Truyền và hệ phái Phật giáo Miền Nam cắt đứt liên hệ với Trí Quang. Các nỗ lực thống nhất Phật giáo miền Nam với các nhóm chống Trí Quang khác, dẫu vậy, đã không thành công vì sự chia rẽ trong giới Phật tử. [11]

Taylor cũng tìm cách tiết giảm cường độ chống đối của Trí Quang bằng cách tạo áp lực trực tiếp. Các viên chức toà đại sứ thông báo cho Trí Quang và các lãnh tụ Việt Nam khác rằng ý nguyện của Mỹ giúp Việt Nam không thể tiếp tục trừ khi mọi người đoàn kết sau lưng chính quyền Hương. Những lời đe doạ này được đưa ra dựa trên một tiền đề không lấy gì làm chắc chắn, rằng Trí Quang không muốn người Mỹ bỏ rơi Nam Việt Nam. Đối với những Phật tử nằm vùng cho Hà Nội, những đe doạ như thế chỉ khuyến khích họ càng chống đối Hương. Cùng lúc đó, cơ quan CIA cũng đang tiếp cận những thuộc cấp của Trí Quang và khuyến khích họ tìm cách tác động khéo léo tới sư thầy. Chiến dịch áp lực này đã không mang lại mấy kết quả. Trí Quang và các lãnh tụ khác tiếp tục công khai chỉ trích chính quyền là chống Phật giáo, và họ đe doạ sẽ lên án cả người Mỹ nếu vẫn tiếp tục ủng hộ Hương. [12]

Khủng hoảng chính trị kế tiếp xảy ra vào ngày 19 tháng Mười hai, và một lần nữa lại do tác động và ảnh hưởng của những người Phật tử tranh đấu. Khánh và một nhóm tướng lãnh trẻ, năng động, có biệt hiệu “Nhóm Trẻ Hăng Say – Young Turks” yêu cầu Hội đồng Quốc gia Tối cao cho giải ngũ tất cả những sỹ quan quân đội có hơn hai mươi lăm năm binh nghiệp. Cả Khánh và các tướng trẻ này nghĩ rằng các sỹ quan già hơn họ không những chỉ thiếu năng lực mà còn cảm tình quá độ với nhóm Phật giáo tranh đấu. Hội đồng không chấp thuận yêu cầu này dẫn đến việc nhóm tướng trẻ này giải tán Hội đồng và bắt giữ luôn các thành viên. [13] Taylor hết sức giận dữ khi biết cơ sự. Ông ta đã nghĩ rằng các tướng sẽ báo trước về những kế hoạch như thế và ông cũng tin đó là một nước cờ chính trị tệ hại. [14] Taylor nghi ngờ rằng việc làm đó là một phần trong ý đồ của Khánh để lấy lại quyền hành trong chính phủ, cộng với những biến cố trong quá khứ khiến Talyor đi đến kết luận rằng Khánh không có khả năng cầm quyền hiệu quả cũng như chống lại áp lực từ phía Phật giáo. [15]

Thực ra Taylor đã suy diễn sai những gì đã xảy ra, bởi vì Hương đã đồng ý với việc giải thể Hội đồng Quốc gia Tối cao, và nhóm tướng trẻ đã ủng hộ việc đó như là một cách để trao thêm quyền cho Hương, không phải cho Khánh. Hương đã liên minh với các tướng để họ giúp ông chống lại Phật tử tranh đấu mà ông coi là vấn đề tệ hại nhất của đất nước. [16] Khi Taylor đề nghị Hương nên từ chối việc giải thể Hội đồng, Hương chỉ gạt đi với nhận xét rằng người Việt “giải quyết vấn đề theo tình hơn là theo lý” và do đó vai trò của Hội đồng ít quan trọng hơn là “uy tín đạo đức của lãnh đạo.” [17] Các cố vấn Mỹ và các sỹ quan tình báo có liên lạc với các tướng lãnh Việt Nam thấy rằng giới lãnh đạo quân đội cũng không nghĩ rằng hành động đó là phi pháp. [18]

Quá giận, Talyor mắng mỏ các tướng trẻ. “Các ông đã làm rối tung hết cả rồi!” Talyor bảo họ. “Chúng tôi không thể bao che mãi nếu các ông cứ vẽ sự như thế.” Nguyễn Cao Kỳ, tư lệnh Không quân Nam Việt Nam, trả lời rằng cần phải có thay đổi bởi vì “tình hình chính trị còn tệ hại hơn thời Diệm.” Kỳ giải thích là Hội đồng cần được giải thể vì nhu cầu thực tế. “Chúng tôi biết rằng quý ông muốn ổn định, nhưng có đoàn kết mới ổn định được.” Một số thành viên Hội đồng đã loan truyền tin đồn đảo chánh và tạo nghi kỵ,” Kỳ khẳng định, và “các lãnh đạo quân sự cũng như dân sự đều đồng ý rằng sự hiện diện của các thành viên này trong Hội đồng đã gây chia rẽ trong quân đội vì ảnh hưởng của ho.” [19] Trong một quốc gia mà tình trạng phe phái đang làm hỏng mọi việc và nơi mà sự phân chia quyền lực gây cảm giác bất ổn theo lối nghĩ của người dân vốn nặng tư tưởng Khổng giáo, thì việc giải thể Hội đồng, thực chất, có thể cải thiện được hoạt động của chính quyền.

Trong một cuộc họp riêng với Khánh, Taylor chỉ trích nặng nề việc giải thể Hội đồng và cho rằng điều đó không phù hợp với điều người Mỹ mong muốn là ổn định và lòng trung nghĩa từ phía chính quyền Nam Việt Nam. Khánh trả lời rằng cần phải có lòng trung nghĩa từ cả hai phía trong một mối quan hệ, và khẳng định rằng đất nước này không phải là chư hầu của Mỹ. Khánh gợi lại có lần Diệm nói rằng Mỹ đã không trung nghĩa với ông. Taylor buột miệng nói rằng không còn tin tưởng Khánh nữa. Khánh trả đũa lại rằng một đại sứ không nên hành xử như thế. [20]

Sau buổi họp căng thẳng này, Khánh khởi động một chiến dịch tuyên truyền chống Mỹ mạnh mẽ. Trên đài phát thanh Việt Nam, Khánh tuyên bố rằng “thà sống nghèo mà hãnh diện là công dân tự do của một nước độc lập hơn là xa hoa mà ô nhục như kẻ nô lệ của ngoại bang và cộng sản.” [21] Khánh nói với một nhà báo Mỹ rằng, “Nếu Taylor không hành xử thông minh hơn, Đông Nam Á sẽ mất.” Để thành công ở Việt Nam, người Mỹ cần “thực tế” hơn và chấm dứt việc biến Nam Việt Nam thành một bản sao của Mỹ, điều trách móc này hoàn toàn chính đáng vì Taylor cứ khăng khăng yêu cầu giữ nguyên Hội đồng Quốc gia Tối cao. [22]

Hương đã không có thái độ cứng rắn đối với hành động của các tướng lãnh, rốt cục đã thuyết phục người Mỹ phải hàn gắn quan hệ với các lãnh đạo Nam Việt Nam. Khánh có vẻ hài lòng. Ngày 6 tháng Một, quân đội chính thức trao chính quyền lại cho một chính phủ dân sự do Hương lãnh đạo. [23] Tuy nhiên Khánh và một số thuộc hạ trong quân đội ngay lập tức nhập bọn với Trí Quang trong âm mưu lật đổ chính quyền mới. [24] Các lãnh tụ Phật tử và sinh viên tổ chức đình công và biểu tình và chỉ trích Hương. Một uỷ ban liên tôn thuyết phục các Phật tử tranh đấu hãy giải quyết các khiếu tố với đại diện của Hương thay vì biểu tình phản đối nhưng đều vô hiệu.

Trong một buổi gặp Đại sứ Taylor, Trí Quang nhất định đòi Mỹ phải buộc Hương từ chức. Taylor trả lời nhân dân Việt Nam cần ủng hộ Hương để có chính quyền ổn định. Phấn khởi trước những thành công ban đầu của Hương trong việc dẹp bỏ những bạo loạn từ phía Phật giáo tranh đấu, người Mỹ xem Hương là một nhà lãnh đạo giỏi hơn Khánh. Ngoài ra, các viên chức toà đại sứ Mỹ đã trở nên chán Trí Quang hơn bao giờ hết vì những cáo buộc vô căn cứ đối với chính quyền và lại không đưa ra được chính kiến xây dựng nào. [25]

Sau một buổi họp với Trí Quang, Taylor than phiền, “Rốt cục vẫn là nhai đi nhắc lại những khiếu tố chỉ lọt tai những chức sắc Viện Hoá đạo.” [26] Khi Trí Quang cáo buộc là cảnh sát đã bắn chết bốn người và làm bị thương 30 người đang trên đường đi lễ chùa, người Mỹ điều tra sự việc và khám phá ra rằng không có ai bị giết, chỉ có bốn người bị thương, rằng sự việc đã được khích động bởi một kẻ gây rối đã được nhận diện, và không có lực lượng quân đội nào tìm cách đàn áp biểu tình. [27] Chính Khánh đã phải nhìn nhận với Alexis Johnson rằng những khiếu nại của phía Phật tử đối với chính quyền Hương là “không có cơ sở,” bởi vì những hành động bách hại là “không có thực.” [28]

Các viên chức toà đại sứ cũng có nhận xét về những thất bại của Phật tử tranh đấu trong việc vận động dân chúng tham gia biểu tình. Người Mỹ kết luận rằng những thất bại này cho thấy đám Phật tử tranh đấu không thực sự đại diện cho quần chúng Phật tử. [29] Người Mỹ quyết định rằng chính quyền Sài Gòn sớm muộn cũng phải đối đầu với Viện Hoá đạo của Trí Quang, nên làm càng sớm càng tốt bởi vì chuyện đó sẽ khó hơn sau mỗi thành công của phe tranh đấu.

Những nhận định gay gắt về phong trào Phật giáo tranh đấu đã được phụ hoạ bởi một số nguồn thông tin phương Tây, kể cả những tổ chức báo chí trước đây đã ủng hộ Trí Quang năm 1963. Peter Grose của tờ New York Times tường trình, “Các quan sát viên Việt Nam và ngoại quốc đồng ý rằng chính sách của Phật giáo không phải là một chính sách xuất phát từ tâm tư tín ngưỡng của tín đồ, mà đúng hơn là nỗ lực của các sư để thâu tóm quyền lực chính trị thế sự.” Các lãnh tụ Phật tử không còn khả năng tổ chức biểu tình rất đông người, nhà báo này nhận xét, và “những cuộc biểu tình công cộng , nay càng có tính chính trị, càng trở nên hỗn loạn, không còn theo đúng tinh thần hiền hoà của Phật giáo.” [30] Tạp chí Newsweek nhận xét rằng Trí Quang và các đồng sự “chỉ đại diện cho một thiểu số nhỏ Phật tử Việt Nam.” Ngoại trừ ở các đô thị, các Phật tử tranh đấu “ít được biết đến và nhiều Phật tử ở nông thôn nếu biết về họ cũng không chấp thuận việc lũng đoạn lòng mộ đạo vì mục đích chính trị.” [31]

Các viên chức toà đại sứ Mỹ tiếp tục tin rằng hầu hết các lãnh đạo Phật giáo cao nhất vẫn chống cộng, nhưng ngày càng nhiều người trong số họ nghĩ rằng ít nhất thì Trí Quang cũng đang cộng tác với cộng sản. Các chuyên gia ở toà đại sứ đồng ý rằng các lãnh đạo Phật giáo thấp hơn, nhất là những người thân thiết với Trí Quang, là đồng Hội đồng thuyền với Việt cộng. Nổi bật nhất trong đám này là Thích Huyền Quang, Tổng Thư ký Viện Hoá đạo và là bạn thân của Trí Quang. Nhiều người cả trong lẫn ngoài phong trào Phật giáo tranh đấu đã tố cáo ông này là có cảm tình với cộng sản. Phụ tá của Huyền Quang là Trần Đính cũng đã bị nhận diện như thế. [32]

Thật vậy, vào lúc đó cộng sản đang gia tăng các nỗ lực xâm nhập các tổ chức chống đối. Một lãnh đạo Việt cộng sau này đã tiết lộ rằng cộng sản đã đưa ra những kế hoạch mới, dùng những tổ chức được coi là phi cộng sản để tuyên truyền chống Mỹ và chính quyền. Theo Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, mạng lưới cộng sản bí mật trong các đô thị đã lên cao chưa từng có. Trong một nghị quyết vào tháng Ba năm 1965, uỷ ban tuyên bố, “Phong trào đô thị đã tăng trưởng mạnh ở tất cả các đô thị lớn và hấu hết các thành phố nhỏ.” [33]

Ngày 18 tháng Một, khác với lập trường cứng rắn mọi khi, Hương tìm cách xoa dịu phía Phật giáo bằng cách sa thải hai bộ trưởng bị nhóm Phật giáo tranh đấu chỉ trích trước đó. [34] Nhưng cử chỉ nhân nhượng này cũng không mang lại cho Hương điều gì tốt đẹp hơn so với Diệm hoặc Khánh. Tại một buổi họp báo hai ngày sau đó, Trí Quang và một số thuộc hạ tuyên bố họ sẽ bắt đầu một cuộc tuyệt thực cho đến khi Hương từ chức. [35] Thiện Minh, đồng chí thân cận nhất của Trí Quang trong phong trào, phụ hoạ thêm rằng nếu Hương không bị loại bỏ, Phật giáo sẽ bắt đầu “kêu gọi hoà bình.” [36] Đối với dân chúng Nam Việt Nam, hành động kêu gọi hoà bình công khai được hiểu là tấn công chính quyền Sài Gòn vì đó là cách cộng sản thường tuyên truyền để làm suy yếu quyết tâm tiếp tục cuộc chiến của chính phủ Nam Việt Nam. Vì Hà Nội mạnh hơn về quân sự, một sự dàn xếp hoà bình hiển nhiên sẽ có lợi cho Hà Nội và có thể sẽ liên quan đến việc người Mỹ rút quân. Trí Quang hứa rằng lãnh đạo Phật giáo sẽ không tổ chức biểu tình cho đến sau Tết, và Tâm Châu cũng hứa là không có biểu tình trong thời gian tuyệt thực. [37] Vẫn theo thông lệ, các Phật tử tranh đấu đã nhanh chóng nuốt lời hứa. Dưới sự lãnh đạo của Trí Quang và Tâm Châu, Phật tử khởi xướng một chiến dịch phản đối bài Mỹ một cách điên cuồng vào ngày 23 tháng Một. Các tuyên cáo của họ cũng lộng ngôn như những lần trước. Ở Sài Gòn, Phật tử và sinh viên biểu tình với số khá đông trước toà đại sứ Mỹ và tại thư viện Abraham Lincoln thuộc Phòng Thông tin Hoa Kỳ. Những người biểu tình tố cáo chính quyền đàn áp Phật giáo, chế diễu Hương là “tay sai” của Talyor và đòi Talylor phải rời Việt Nam. Các tăng ni mang những biểu ngữ đòi hoà bình. Sau khi đám biểu tình đập cửa và ném đá tấn công cảnh sát dã chiến, Hương điều lính dù đến giải tán bằng lựu đạn cay và dùi cui. Ở Huế, 5.000 người biểu tình đập phá thư viện hai tầng của Phòng Thông tin Văn hoá Hoa Kỳ, sau đó đốt 8.000 quyển sách. Cộng sự của Trí Quang là Huyền Quang ra một thông cáo cho rằng, “chính sách của đại sứ Mỹ và Hương, tay sai của đại sứ Mỹ, là ép các lãnh đạo Phật giáo đến chết và tiêu diệt Phật giáo Việt Nam.” Ở Đà Nẵng, Quảng Trị, và Nha Trang, Phật tử tranh đấu vận động các hàng quán không phục vụ người Mỹ. Nghe theo lời kêu gọi tử vì đạo của các lãnh tụ Phật giáo, một ni cô tự thiêu ở Nha Trang và một nhà sư tự chém huỷ mình trong một cuộc biểu tình ở Sài Gòn. Những tên côn đồ đội lốt Phật tử đốt cháy một người Công giáo tại Sài Gòn. [38]

Ở các tỉnh phía bắc, Khánh và đồng loã chính là Tướng Nguyễn Chánh Thi, đã không làm gì để kiểm soát đám đông và bảo vệ tài sản của Việt Nam và Mỹ. Họ cho rằng hỗn loạn sẽ làm sụp đổ chính quyền Hương và họ sẽ nắm quyền. [39] Khi những cuộc bạo loạn đang tiếp diễn, Khánh lại đi dàn xếp với các lãnh tụ Phật giáo. Quân đội sẽ nắm chính quyền, loại bỏ Hương, tôn trọng “tự do tôn giáo” và thanh trừng những kẻ thân Diệm mà những đợt trước chưa loại bỏ hết. Để đáp lại, Phật giáo sẽ ủng hộ chính quyền mới ít nhất trong hai năm, và sẽ đưa Trí Quang, Tâm Châu và Hộ Giác ra ngoại quốc. [40]

Khi Alexis Johnson biết được kế hoạch này, ông cảnh cáo Khánh rằng Mỹ muốn quân đội ủng hộ chính quyền Hương. Khánh chỉ lờ đi. Sáng ngày 27 tháng Một, Khánh cầm đầu một cuộc lật đổ không bạo loạn với sự ủng hộ của Tướng Thi và Tư lệnh Không quân Kỳ. Khánh thuyết phục Hội đồng Quân lực để Khánh nắm chính quyền, với lời đảm bảo sẽ rời bỏ chính trường khi một Hội đồng cố vấn 20 người chọn được một quốc trưởng dân sự. Tuy nhiên, một số sỹ quan cấp cao chấp nhận sự sắp xếp này vì họ nghĩ là nó sẽ phản tác dụng, dẫn đến việc loại bỏ Khánh và dẹp loạn Phật tử tranh đấu. [41]

Ngay từ ngày đầu của cuộc đảo chính, Trí Quang đã âm mưu tìm cách hất cẳng Khánh và chiều hôm sau ông ta bắt đầu nỗ lực đó. [42] Bước đầu tiên là ông ta thông báo cho các tướng rằng Phật giáo sẽ không thực hiện các lời hứa là không dính đến chính trị, ủng hộ chính quyền, và ba sư đi ngoại quốc. Các lời hứa này không còn giá trị vì, theo các Phật tử tranh đấu, quân đội đã hứa lật đổ chính quyền vào ngày 25 hoặc 26 mà vẫn chưa thực hiện khi đã sang ngày 27 tháng Một. Ngoài tính lố bịch, lập luận này còn đầy trí trá vì Trí Quang đã biết trước là cuộc lật đổ sẽ không xảy ra cho đến ngày 27 tháng Một. [43] Hành động lật lọng này là một trong những điều tồi tệ nhất mà phía Phật tử tranh đấu đã làm cho đến lúc đó, và nó củng cố quan điểm của những kẻ dèm pha rằng các lãnh tụ Phật giáo tranh đấu là những kẻ dối trá chỉ muốn huỷ hoại chính quyền hơn là tiêu diệt Việt cộng. Việc chối bỏ những hứa hẹn làm một số tướng lãnh giận điên; một người đã nói với người Mỹ rằng nếu Khánh không đối mặt với Viện Hoá đạo ngay lúc này, “mạng sống ông ta sẽ bị đe doạ.” [44]

Khánh đã không đối đầu với phía Phật giáo, thay vào đó lại nhượng bộ các đòi hỏi trong khi tìm cách bám lấy quyền lực. Khánh thuyên chuyển tướng Phạm Văn Đổng là tổng trấn vùng thủ đô đi làm tư lệnh Quân đoàn II, như thế đẩy ông này xa rời trung tâm quyền lực và không còn ảnh hưởng gì đến chính trị. Phạm Văn Đổng đã làm Phật tử tranh đấu khó chịu vì ông đã hoàn thành nhiệm vụ dẹp bỏ các cuộc bạo loạn và biểu tình tại Sài Gòn. [45]

Một lần nữa, phía Phật giáo chẳng làm gì để đáp lại lòng tốt của Khánh. Họ muốn chính Phật giáo là kẻ quyết định ai sẽ là người lãnh đạo kế tiếp, và kẻ đó không phải Khánh. Chức vụ cao nhất về tay Bác sĩ Phan Huy Quát, người mà Trí Quang hằng vận động trước đây. Nhiều quan sát viên nghĩ rằng Quát hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của Trí Quang. Phần lớn các quan chức khác trong chính quyền cũng là đồng minh của Trí Quang và chống “chủ nghĩa Diệm”, theo ngôn từ của Phật tử tranh đấu, có nghĩa là chống cộng mãnh liệt và không dung túng những hành động phá hoại của phong trào Phật giáo. [46]

Vào ngày 19 tháng Hai, chỉ ba ngày sau khi chính quyền mới lên nắm quyền, một cuộc đảo chính lại xảy ra do Tướng Lâm Văn Phát và Đại tá Phạm Ngọc Thảo cầm đầu. [47] Quân đảo chính chiếm đài phát thanh Sài Gòn và phi trường Tân Sơn Nhất nhưng Khánh lại một lần nữa chạy thoát ra Vũng Tàu. Hầu hết các đơn vị trong vùng phụ cận Sài Gòn án binh bất động, không theo phe nào trong cuộc tranh chấp này. [48]

Cũng như đã xảy ra trong cuộc lật đổ ngày 19 tháng Chín, những kẻ cầm đầu tuyên bố cảm phục Diệm và họ muốn có chính phủ gần giống chế độ của Diệm. Trên đài phát thanh, phe đảo chính tuyên bố, “Lodge đã sai khi khuyến khích đảo chính lật đổ Diệm thay vì chấn chỉnh ý đồ lầm lạc này.” Phát và Thảo báo riêng cho Kỳ biết là họ và cộng sự sẽ chấm dứt đảo chính nếu Khánh bị loại bỏ. Ba người này thoả thuận dàn xếp để sau đó quân đảo chính giải tán nhanh tránh sự cố. Hội đồng Quân Lực ra lệnh cho Khánh rời Việt Nam ngay. Sau một nỗ lực không thành để vận động ủng hộ từ các viên chức địa phương, Khánh đồng ý từ chức và đi ngoại quốc. [49]

Khi chính quyền Quát bắt đầu hoạt động, một loạt biện pháp được lòng Trí Quang được thực hiện. Tất cả mọi người bị bắt trước đây trong những cuộc biểu tình chống Hương đều được thả, trong đó một số là cộng sản. Để thoả mãn Trí Quang và ngăn ngừa nội loạn tiếp diễn, Quát và các tướng lĩnh thân cận cho tiến hành một đợt thanh trừng mới. Trong số những nạn nhân có Tướng Phạm Văn Đổng, Đại tá Trần Thanh Bền, Tướng Trần Văn Minh, Đô đốc Chung Tấn Cang, và Tướng Đặng Văn Quang – những người có năng lực nhưng bị Trí Quang chống đối vì họ đã đàn áp biểu tình của Phật tử hoặc đã can thiệp vào kế hoạch của ông. Quát và đồng minh của mình phân tán quyền lực trong quân đội nhằm ngăn chặn việc một sĩ quan nào đó thâu tóm quá nhiều quyền hành. [50]

Vì những cuộc thanh trừng này, lãnh đạo quân đội trở nên manh mún và nhờ Phật giáo ủng hộ, chính quyền Quát ít bị chống đối hơn so với các chính quyền trước. Vào đầu tháng Tư, CIA đã có thể báo cáo rằng, “Đây là lần đầu tiên sau khi lật đổ chế độ Diệm, tình trạng xuống dốc không phanh của tình hình chính trị có vẻ đã bị chặn đứng.” Tuy nhiên, sự ổn định này đã phải trả giá đắt. Những cuộc thanh trừng của chính quyền và nhượng bộ Phật giáo đã làm yếu kém trầm trọng tình trạng lãnh đạo trong quân đội. Không có lúc nào trong lịch sử 21 năm mà quân lực Việt Nam Cộng hoà chiến đấu tệ hại như trong thời Quát. Vào ngày 26 tháng Ba tướng Westmoreland nhận định rằng quân lực Nam Việt Nam đã “bắt đầu có dấu hiệu rạn nứt, và không còn hệ thống chỉ huy kiến hiệu. Quân lực được điều hành bởi các uỷ ban và chính các uỷ ban cũng là những đấu trường đầy âm mưu và tham vọng cá nhân.” [51] Thành tích nghèo nàn của chính quyền Quát chứng minh một sự thực thể hiện rõ ràng trong thời Khánh là một chính quyền bị Trí Quang và nhóm Phật tử tranh đấu lũng đoạn sẽ không đủ năng lực và ý chí để duy trì cuộc chiến.

Trong khi Trí Quang và các lãnh đạo của Viện Hoá đạo bày tỏ sự chấp thuận chính quyền của Quát và hạn chế việc gây rối, họ vẫn không chừa các màn phá phách khác. Quảng Liên và năm ba lãnh đạo Phật tử từ Viện Hoá đạo công bố một kế hoạch hoà bình có liên quan đến việc Mỹ rút quân khỏi Việt Nam. Các chức sắc cao cấp tại Viện Hoá đạo, kể cả Trí Quang, nói với các viên chức toà đại sứ Mỹ rằng họ không đồng ý với Quảng Liên. Tuy vậy, trước những cử toạ khác, họ lại tán thành lập trường của Quảng Liên. Trí Quang nói với tờ Hongkong Standard rằng Hà Nội và Washington nên “bắt đầu thảo luận ngay” để mang lại hoà bình, vì, “chúng tôi đã chịu khổ nhiều rồi, cả về nhân mạng cũng như vật chất.” [52] Khi người Mỹ đến tìm hiểu về bài phỏng vấn này, Trí Quang lại giở chiến thuật thường ngày là nói với người Mỹ rằng ông ta tán thành chính sách của Mỹ. Ông tuyên bố là ông không thực sự ngụ ý là Mỹ phải đàm phán ngay, và rằng thật ra, ông nghĩ là người Mỹ nên trì hoãn đàm phán cho đến khi tình hình quân sự đã được cải thiện.” [53]

Vài tuần sau đó, Trí Quang khuyên Taylor nên bỏ bom Bắc Việt. [54] Trong trường hợp này, có những bằng chứng trực tiếp là lời khuyên này chỉ để duy trì thiện cảm của Mỹ để nhóm Phật tử tranh đấu có thể tiếp tục những hoạt động khuynh đảo chính quyền. Robert Thompson, một chuyên viên lừng danh của Anh về chống phiến loạn ở Mã lai và sau đó là cố vấn cao cấp cho chính quyền Nam Việt Nam, nhớ lại rằng sau khi có lời khuyên này với Taylor, Trí Quang “đến gặp ngay người Pháp để giải thích rằng ông ta chỉ tìm cách giải toả những nghi kỵ của Taylor nhằm rảnh tay thúc đẩy kế hoạch bí mật vì hoà bình dù với bất cứ giá nào.” [55]

Điều làm người ta nghi ngờ hơn nữa về tuyên bố ủng hộ cuộc chiến chống cộng của người Mỹ là một bức thư nhà sư này gửi cho người Mỹ giữa tháng Năm. Trong lá thư, Trí Quang miêu tả người Mỹ như là kẻ gây đau khổ cho Nam Việt Nam chứ không phải là kẻ cứu giúp. Ông ta cáo buộc rằng trong khi người Mỹ “tin tưởng và ngầm chiếu cố người Công giáo một cách thiên kiến,” họ lại “lo lắng và e dè đối với Phật giáo giống như kẻ cai trị đối với dân bản xứ.” Dân chúng Việt Nam nghĩ rằng người Mỹ dùng “người Công giáo để tiêu diệt Phật giáo” và họ “tin chắc rằng tất cả các sự đàn áp đều có sự dàn xếp và đồng ý của người Mỹ.” Người Mỹ sẽ thua, Trí Quang cảnh cáo, trừ khi họ chấm dứt việc thiên vị Công giáo. [56] Những cáo buộc này phi lý, không phải chỉ vì không ai tìm cách tiêu diệt Phật giáo, mà cũng vì cả người Mỹ lẫn chính quyền Nam Việt Nam đều không làm gì ưu đãi Công giáo hơn Phật giáo.

Trong thời Quát, nhiều nhóm mới đòi hoà bình hay trung lập mọc lên ở Nam Việt Nam, và những màn tuyên tuyền gia tăng mạnh. Ngạc nhiên thay, Quát lại lớn tiếng chống những nhóm này. Ông ta tuyên bố, sẽ không có hoà bình hay trung lập cho đến khi miền Bắc chấm dứt việc đưa người và vũ khí vào Nam. Ông tuyên bố rằng chính quyền sẽ dùng “mọi biện pháp để đập tan những thủ đoạn tuyên truyền lừa đảo của cộng sản nhằm đánh lừa công luận, gây rối loạn trong dân chúng, lợi dụng sự cả tin … và tiến hành những thủ đoạn chính trị thậm tệ để thống trị toàn cõi Việt Nam.” Quát sa thải 300 công chức đã ký kiến nghị đòi hỏi đàm phán chấm dứt chiến tranh, Tuy nhiên, Quát đã không đụng đến một ai trong Viện Hoá đạo vận động cho hoà bình hoặc trung lập. Quát thuyết phục Quảng Liên rút lại chương trình trung lập hoá nhưng với cái giá là phải thả tất cả các lãnh đạo phong trào hoà bình có liên hệ với phía Phật giáo. [57] Một khủng hoảng chính trị lại xảy ra ở Sài Gòn vào cuối tháng Năm năm 1965 khi Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu ngăn chặn kế hoạch của Thủ Tướng Quát thay thế hai bộ trưởng mà cả Quát và người Mỹ đều cho là thiếu khả năng. [58] Sửu làm vậy vì được sự khuyến khích của nhóm chính trị gia Miền Nam và các lãnh đạo Công giáo vì họ không bằng lòng với sự thiên vị nhóm Phật giáo tranh đấu của Quát. [59] Khi khủng hoảng tiếp diễn, Trí Quang bắt đầu rút lập trường ủng hộ Quát, vì Quát đã có thái độ độc lập làm Trí Quang khó chịu. Trong một lần nói chuyện với lãnh sự Mỹ tại Huế, Trí Quang nói là nếu Quát không giải quyết được khủng hoảng hiện thời mà không phải nhượng bộ phía chống đối thì quân đội nên thế chỗ Quát. Rõ ràng Trí Quang lo Quát sẽ nhân nhượng quá độ đối với phía Công giáo và những phe mà Trí Quang không chấp nhận, và rằng Quát sẽ có biện pháp chống lại những kẻ hô hào trung lập. Nếu cần thay Quát, Trí Quang nói rằng vị thủ tướng mới “phải là người có tín ngưỡng.” Người duy nhất mà Trí Quang đề cập là Tướng Thi. “Thi là một Phật tử trên danh nghĩa,” Trí Quang nói, “nhưng ông ta không quan tâm đến tôn giáo,” một nhận định đáng ngờ vì Thi đã liên tục cộng tác với phe Phật tử tranh đấu. [60]

Ngày 9 tháng Sáu, Quát thỉnh cầu các tướng lãnh hoà giải mối bất hoà. [61] Trong một buổi họp với Quát, các tướng đã bộc lộ sự chán ngán về tình trạng bất lực của các chính quyền dân sự. Họ cũng bực bội vì những thanh trừng trong quân đội Nam Việt Nam trong thời Quát, và vì những trận thất bại lớn trong mấy tuần vừa qua. Mất nhuệ khí khi bị các tướng lãnh chỉ trích, Quát đồng ý từ chức và trao quyền lại cho quân đội. [62]

Mọi việc tiến triển như Trí Quang dự liệu cho đến khi lãnh đạo mới được chọn. Các chức vụ cao nhất đã không vào tay Tướng Thi nhưng lại về tay Tướng Kỳ, người trở thành thủ tướng và chủ tịch hành pháp, và Tướng Thiệu chủ tịch uỷ ban lãnh đạo. Các tướng lãnh rõ ràng muốn chấm dứt tình trạng Trí Quang lũng đoạn chính quyền và vì Kỳ và Thiệu quan tâm đến việc chiến đấu chống cộng hơn là thoả hiệp với Phật giáo tranh đấu.

Thái độ này được bộc lộ rất nhanh, khi Kỳ, Thiệu và các tướng quyết định rằng chính quyền mới sẽ bắt đầu bằng “tuần lễ nín thở.” Các hoạt động trong tuần đó gồm việc áp đặt kiểm duyệt, đóng cửa nhiều tờ báo, và đình chỉ các tự do dân sự. Mục tiêu kế tiếp là chuyển giao những tranh cãi chính trị của các chính khách Sài Gòn về một “biệt thự nhiều cổ thụ,” nơi họ có thể “thảo luận và soạn thảo các chương trình ủng hộ chính quyền.” Về vấn đề chống đối từ các nhóm tôn giáo và chính trị, họ quyết tâm “lờ đi với quy định rằng kẻ làm loạn sẽ bị bắn.” Các tướng cũng đưa ra các biện pháp để tổ chức dân chúng thành các lực lượng bán quân sự. Tiếp sức cho chính quyền dân sự bằng sự xốc vác và quyết đoán, các tướng lãnh đạo đã không chần chừ thực hiện ngay các kế hoạch này. [63]

Trí Quang hẳn đã không phản đối mạnh việc chỉ định Kỳ và Thiệu và tin rằng ông ta có thể khuynh đảo họ cũng như với Khánh. Lúc đầu, Trí Quang tuyên bố ủng hộ chính quyền mới. Tuy nhiên, chỉ trong một tháng, khi chính quyền mới cho thấy những dấu hiệu đầy triển vọng, Trí Quang lại đòi loại bỏ. Ông tố cáo Thiệu là dư Đảng Cần lao – cho dù Thiệu đã đóng vai trò quan trọng khi lật đổ Diệm – và còn buộc Thiệu là có “khuynh hướng phát xít.” Trí Quang cáo buộc rằng “những dư Đảng Cần lao chung quanh Kỳ đã phá hoại các chương trình của Kỳ.” Cũng như trước, những cáo buộc chung chung của Trí Quang vượt quá xa những điều cụ thể. Khi bị yêu cầu đưa ra ví dụ về việc phá sản chương trình của Kỳ, Trí Quang chỉ cóthể đưa ra câu trả lời kỳ quái như: “Quyết định của Kỳ bắn tất cả những kẻ đầu cơ, đơn giản là biện pháp đó không thể thực hiện được.” [64]

Trí Quang tiếp tục đưa ra những cáo buộc chính quyền vô căn cứ và những yêu sách không thể thoả mãn nổi – hai điều này cộng lại thành vũ khí chủ yếu của ông ta làm suy yếu chính quyền - cho đến cuộc khủng hoảng Phật giáo năm 1966. Khi cuộc khủng hoảng này bùng nổ, các Phật tử nổi loạn gây rắc rối nhiều đến nỗi chính quyền phải dùng quân đội để dẹp bằng bạo lực, một lần cho xong. Kỳ đày Trí Quang về một tịnh thất miền núi. Chính quyền cuối cùng đã trực diện đối đầu Phật tử tranh đấu và đạt kết quả tốt. Sẽ không bao giờ còn chuyện Phật giáo tạo rắc rối chính trị cho chính quyền Nam Việt Nam.

Từ thời Diệm cho đến khủng hoảng Phật giáo năm 1966, Trí Quang và nhóm Phật tử tranh đấu đã theo đuổi chiến lược giống nhau. Họ tìm cách làm suy yếu chính quyền qua biểu tình công khai và đòi hết nhượng bộ này đến nhượng bộ khác. Bảo vệ tự do tôn giáo không bao giờ là một trong những mục đích chính bởi vì tự do tôn giáo của họ không bao giờ bị đe doạ. Thay vào đó, điều mà họ muốn là ưu thế chính trị. Một số Phật tử tranh đấu muốn chính quyền thiên vị Phật giáo so với các nhóm khác trong xã hội Nam Việt Nam, trong khi một số khác bí mật thông đồng mở đường cho một chính quyền cộng sản. Nếu quân đội Nam Việt Nam không thành công trong việc chống lại Phật tử tranh đấu vào năm 1965 và dẹp tan nhóm này vào năm 1966, có khả năng nhóm Phật tử tranh đấu sẽ lái chính quyền về phe cộng sản, vì người cầm đầu phong trào này, Thích Trí Quang, hoặc là đồng Hội đồng thuyền với cộng sản hay là vì tự huyễn hoặc rằng mình có thể ngăn chặn cộng sản mà không cần đến một chính quyền vững mạnh, thân Mỹ.

Những thành công chính trị của phong trào Phật giáo tranh đấu tuỳ thuộc vào thành phần lãnh đạo của chính quyền Sài Gòn và thái độ của Mỹ. Sau một loạt những nhượng bộ vô hiệu, Ngô Đình Diệm chấm dứt nhân nhượng vì rõ ràng là các nhượng bộ đã không làm hài lòng các Phật tử. Ông đàn áp phong trào bằng cách đóng cửa chùa và bắt giữ các nhân vật chủ chốt, nhưng thắng lợi này phù du vì nó lại thúc đẩy người Mỹ ủng hộ việc lật đổ Diệm. Nguyễn Khánh cho phép chống đối chính quyền công khai và dành nhiều thời giờ nhượng bộ các Phật tử, nhưng những kết quả biện pháp này mang lại chỉ là sự suy yếu của các lực lượng chống cộng và mở đường cho những phản đối, yêu sách mới từ phía Phật giáo tranh đấu. Trần Văn Hương chọn sách lược của Diệm hơn là cách của Khánh, không nương nhẹ các hành vi bạo loạn hay đáp ứng yêu sách của Phật giáo. Chính sách này rõ ràng có triển vọng thành công hơn và người Mỹ lúc này cũng dễ thuận theo hành động cứng rắn. Tuy nhiên, Hương không thể thực thi trọn vẹn chính sách này vì Khánh đã lật ông.

Ảnh hưởng của phong trào Phật giáo tranh đấu lên tột đỉnh khi Phan Huy Quát lãnh đạo đất nước. Quát làm mọi chuyện Phật giáo muốn trong phần lớn thời gian cầm quyền. Hành động của Quát làm hiệu năng chống cộng của Nam Việt Nam xuống thấp chưa từng có, khẳng định bài học từ nhiệm kỳ của Khánh rằng hiệu quả chiến đấu tỷ lệ nghịch với việc đáp ứng các đòi hỏi của Phật giáo tranh đấu.

Lý do phản biện chính yếu mà Khánh và những người khác đưa ra để không dùng phương pháp của Diệm đối với Phật tử tranh đấu là sợ làm quần chúng Phật tử xa lánh đến độ làm mất khả năng duy trì cuộc chiến. Khánh đã đánh giá quá cao ảnh hưởng của Phật tử tranh đấu đối với bá tánh Phật tử; chỉ một thiểu số nhỏ ủng hộ động cơ của Phật tử tranh đấu. Cuôc khủng hoảng Phật giáo năm 1966 cho thấy nhóm Phật tử tranh đấu có thể bị dẹp mà không làm mất khả năng tiếp tục chiến đấu. Việc đàn áp Phật tử năm 1966 đã vĩnh viễn giải phóng chính quyền khỏi những áp lực Phật giáo nguy hại và tạo điều kiện xây dựng được sự gắn bó quốc gia chặt chẽ hơn ở Nam Việt Nam từ đó về sau.


Bản tiếng Việt © 2007 talawas


[1]Taylor to Johnson, 28 October 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 389; Maxwell Taylor, Swords and Plowshares (New York: Norton, 1972), 322–3; Saigon to State, 4 November 1964, DDRS, 1985, fiche 122.
[2]Higgins, Our Vietnam Nightmare, 261.
[3]Lacouture, Vietnam, 215–6. Saigon to State, 6 November 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 404; Washington Post, 23 November 1964; Time, 4 and 11 December 1964; Saigon to State, 4 December 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 10.
[4]Lacouture, Vietnam, 212–13.
[5]Time, 4 December 1964.
[6]Taylor to Johnson, 17 November 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 413; Washington Post, 23 November 1964; New York Times, 23 and 25 November 1964; Time, 4 December 1964; Dommen, The Indochinese Experience of the French and the Americans, 628.
[7]Taylor to Johnson, 24 November 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 421. Các Phật tử tranh đấu đã thổi phồng quá mức quy mô chính phủ sử dụng bạo lực trong những tháng cuối của chính thể Diệm.
[8]Saigon to State, 16 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 448.
[9]Time, 4 December 1964.
[10]NSC working group, ‘Intelligence Assessment,’ 24 November 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 45; Pentagon Papers, vol. 2, 342; Saigon to State, 6 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 14.
[11]Cooper to Bundy, “Stability of South Vietnam’s Government, Report No. 1,” 10 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 444; Saigon to State, 16 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 448; Saigon to State, memcon, 18 December 1964, LBJL,NSF, VNCF, box 11; Taylor to Johnson, 16 December 1964, DDRS, 1988, fiche 55; CIA, “Thich Tri Quang,” 29 January 1965, LBJL, International Meetings and Travel, box 29.
[12]CIA, “Buddhist Plans,” 3 December 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 10; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 9 December 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 11; Saigon to State, 16 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 448; New York Times, 11 December 1964; Cooper to Bundy, “Stability of South Vietnam’s Government, Report No. 1,” 10 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 444; Taylor to Johnson, 16 December 1964, DDRS, 1988, fiche 55.
[13]CIA Watch Office to State, 25 December 1964, DDRS, 1979, fiche 132C; Ky, Twenty Years and Twenty Days, 52; memcon, 21 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 454; Historical Division of the Joint Secretariat, The Joint Chiefs of Staff and the War in Vietnam (Washington, DC: Joint History Office, 1970), chap. 15, 5; Johnson, Right Hand of Power, 417.
[14]Westmoreland, A Soldier Reports, 93; Michael Charlton and Anthony Moncrieff, Many Reasons Why: The American Involvement in Vietnam (New York: Hill &Wang, 1978).
[15]Saigon to State, 20 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 452; memcon, 21 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 454.
[16]Taylor to Johnson, 23 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 461.
[17]Newsweek, 18 January 1965.
[18]Saigon to State, 23 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 460; Saigon to State, 24 December 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 11; CIA Watch Office to State, 25 December 1964, DDRS, 1979, fiche 132C.
[19]Airgram A-493, 24 December 1964, DDRS, 1978, fiche 433D.
[20]Memcon, 21 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 454; Saigon to State, 21 December 1964, DDRS, 1979, fiche 206D.
[21]Saigon to State, 22 December 1964, NA II, RG 59, Central Files, 1964–1966, box 2949.
[22]William M. Hammond, Public Affairs: The Military and the Media, 1962–1968 (Washington, DC: Center of Military History, 1988), 119; The Joint Chiefs of Staff and the War in Vietnam, chap. 15, 8.
[23]Shaplen, The Lost Revolution, 297–8; Saigon to State, 12 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 24; Saigon to State, 20 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 29.
[24]CIA, “Thich Tri Quang’s Campaign to Bring Down the Tran Van Huong Government,” 21 January 1965, DDRS, 1976, fiche 24E.
[25]Saigon to State, 16 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Saigon to State, 3 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 59; Manfull, memcon, 4 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 63; Saigon to State, 11 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 105; Saigon to State, 25 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Saigon to State, 26 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 26 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 39.
[26]Saigon to State, 20 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 29.
[27]Rosenthal, memcon, 17 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12.
[28]Saigon to State, 25 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12.
[29]Saigon to State, 31 January 1965, DDRS, fiche 2000, 9; Saigon to State, 11 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 105.
[30]New York Times, 23 January 1965.
[31]Newsweek, 8 February 1965.
[32]Saigon to State, 31 January 1965, DDRS, fiche 2000, 9; Newsweek, 8 February 1965.
[33]Một số văn kiện của Ðảng về chống Mỹ, cứu nước, Tập II (1954–1965) (Hà Nội: Sự Thật, 1985), 211–27.
[34]New York Times, 19 January 1965.
[35]Saigon to State, 20 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12.
[36]Ibid.
[37]Rosenthal, memcon, 17 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Saigon toState, 20 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12.
[38]Saigon to State, 25 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; CIA, “Thich Tri Quang,” 29 January 1965, LBJL, International Meetings and Travel, box 29; Saigon to State, 31 January 1965, DDRS, 2000, fiche 9; Saigon to State, 28 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 45; Truong Nhu Tang, A Vietcong Memoir, 95–8; Shaplen, The Lost Revolution, 300; New York Times, 23, 24, and 25 January 1965; CIA, “Buddhist leader Thich Tri Quang’s support of the concept of a civilian government,” 29 January 1965, DDRS, 1977, fiche 27B.
[39]Saigon to State, 12 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 24; Saigon to State, 25 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Saigon to State, 26 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12.
[40]Saigon to State, 25 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Saigon to State, 26 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 26 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 39.
[41]Manfull, memcon, 4 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 63; Saigon to State, 30 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Saigon to State, 27 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 41.
[42]CIA, “Buddhist leader Thich Tri Quang’s support of the concept of a civilian government,” 29 January 1965, DDRS, 1977, fiche 27B.
[43]CIA, “Decisions and Discussions at the 31 January Armed Forces Council meeting,” 2 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 13; CIA, “Situation in South Vietnam,” 26 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 39.
[44]Saigon to State, 30 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12.
[45]CIA, “Decisions and Discussions at the 31 January Armed Forces Council meeting,” 2 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 13.
[46]Saigon to State, 16 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 123; Taylor, Swords and Plowshares, 336; Saigon to State, 16 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Critchfield, The Long Charade, 130; Saigon to State, 23 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 154; Saigon to State, 27 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol.2, doc.169; CIA, “Phan Huy Quat,” 29 January 1965, LBJL, International Meetings and Travel, box 29.
[47]Ðại tá Phạm Ngọc Thảo, một chuyên gia hoạch định âm mưu, là một điệp viên của Cộng sản. Việc liệu Hà Nội có lệnh cho Thảo gây ra cuộc nổi loạn này không thì chưa rõ.
[48]INR, “Saigon: Coup in Progress,” 19 February 1965, DDRS, 1994, fiche 229; CIA, “The Situation in Vietnam,” 20 February 1965, DDRS, 1976, fiche 149B.
[49]MACV to NMCC, 19 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 13; CIA Vietnam Working Group, “Implications of the Saigon Coup Events,” 20 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14;CIA, “The Situation in Vietnam,” 19 February 1965, DDRS, 1976, fiche 26A; Westmoreland, A Soldier Reports, 96–7; INR, “Saigon: Coup in Progress,” 19 February 1965, DDRS, 1994, fiche 229; MACV to NMCC, 19 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 13; State to Saigon, 19 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 147; Corcoran, “Saigon Coup Situation,” 19 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 45; CIA, “The Situation in Vietnam,” 20 February 1965, DDRS, 1976, fiche 149B; Shaplen, Lost Revolution, 312; Westmoreland, A Soldier Reports, 96–7; John M. Taylor, General Maxwell Taylor: The Sword and the Pen (New York: Doubleday, 1985), 307; MACV to NMCC, 21 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14; MACV to NMCC, 22 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14.
[50]CIA, “The Situation in Vietnam,” 26 February 1965, DDRS, 1983, fiche 91; CIA, “Individuals and Cliques in South Vietnam,” 25 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14; McCone, memcon, 25 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 165; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 14 April 1965, DDRS, 1979, fiche 239A; Anne E. Blair, There to the Bitter End:Ted Serong in Vietnam (Crows Nest: Allen & Unwin, 2001), 114–16; Critchfield, The Long Charade, 140–2; Saigon to State, 25 May 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 314; Shaplen, The Lost Revolution, 344; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 26 May 1965, DDRS, 1979, fiche 244A.
[51]Westmoreland, “Commander’s Estimate of the Situation in South Vietnam,” 26 March 1965, LBJL, Westmoreland Papers, History Backup, box 5.
[52]New York Times, 28 February 1965; Saigon to State, 26 February 1965,NA II, RG 319, Central Files, 1964–1966, box 2952; Hong Kong to State, 19 February 1965, LBJL, NSF, Country File, Asia and the Pacific, China, box 238; Rosenthal, memcon, 27 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14; Saigon to State, 17 March 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 202.
[53]Rosenthal, memcon, 27 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14.
[54]Saigon to State, 22 March 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 15.
[55]Critchfield, The Long Charade, 131–2.
[56]Saigon to State, 15 May 1965, NA II, RG 59, Central Files, 1964–1966, box 2959.
[57]CIA, “The Situation in Vietnam,” 28 February 1965, DDRS, 1978, fiche 31C; Saigon to State, 2 March 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 177; New York Times, 27 February and 7 March 1965; Saigon to State, 12 March 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14; CIA, “The Situation in Vietnam,” 28 February 1965, DDRS, 1978, fiche 31C; Shaplen, Lost Revolution, 319–21.
[58]Saigon to State, 25 May 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 314; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 26 May 1965, DDRS, 1979, fiche 244A; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 4 June 1965, DDRS, 1978, fiche 35A; Saigon to State, 25 May 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 17; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 9 June 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 18.
[59]CIA, “The Situation in South Vietnam,” 4 June 1965, DDRS, 1978, fiche 35A; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 9 June 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 18; Saigon to State, 5 June 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 332; Saigon to State, 26 May 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 17; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 26 May 1965, DDRS, 1979, fiche 244A.
[60]Saigon to State, 12 June 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 18.
[61]Pentagon Papers, vol. 2, 434; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 9 June 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 18.
[62]Johnson, Right Hand of Power, 437; Bui Diem, In the Jaws of Victory, 146–7.
[63]Nguyen Cao Ky, Buddha’s Child: My Fight to Save Vietnam (New York: St. Martin’s Press, 2002), 142; CIA, “Military Plans for a Revolutionary Government to Replace the Present Government of Vietnam,” 11 June 1965, DDRS, 1978, fiche 35B; Saigon to State, 17 June 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 3, doc. 5; Saigon to State, 21 June 1965, DDRS, 1979, fiche 455B.
[64]memcon, 9 July 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 20; Saigon to State, 11 July 1965, LBJL, NSF, NSC History, DMUSF, box 43; memcon, 14 July 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 20; Saigon to State, 27 July 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 19.
Nguồn: Modern Asian Studies 38, 4 (2004) pp. 749–784. Cambridge University Press, 2004