trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
Xã hội
Kinh tế
  1 - 20 / 135 bài
  1 - 20 / 135 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Xã hộiKinh tế
4.5.2007
Dick K. Nanto
Kiến trúc khu vực Ðông Á: những phối trí an ninh và kinh tế mới và chính sách của Hoa Kỳ
(Tường trình RL33653 của CRS cho Quốc hội Hoa Kỳ 18 tháng Chín, 2006)
Khiêm dịch
 1   2   3 
 
Các phối trí tài chính và kinh tế khu vực

Các thỏa ước mậu dịch khu vực (RTA), bao gồm các FTA, đã trở thành phương tiện chính để đạt được tự do hóa đầu tư và mậu dịch. Các RTA đang được đàm phán với vai trò phụ trợ và song song với các đàm phán mậu dịch đa phương theo khuôn khổ WTO. Trong khi một số người coi RTA như những khối cản trở tự do hóa mậu dịch toàn cầu, một số người khác coi chúng như những đơn nguyên cho căn nhà mậu dịch tự do toàn cầu chung cuộc. Các thỏa ước WTO có khuynh hướng mang lại những kết quả “có mẫu số chung thấp nhất”, trong khi những RTA có thể đi xa hơn các thỏa ước WTO với nhiều nhượng bộ hơn được thực hiện bởi các quốc gia có lối nghĩ giống nhau.

Cái mạng lưới phức tạp của các thỏa ước mậu dịch tự do trên thế giới, đôi khi được ví với một “tô mì”, đang trở nên dày đặc hơn mỗi năm. WTO tường trình rằng hơn 170 thỏa ước mậu dịch khu vực hiện thời có hiệu lực và một số lượng lớn đang được đàm phán có thể đưa con số đó lên gần tới 300. [1]


Các FTA hiện hành và những cái đang được đàm phán

Ở Đông Á, đất của nhiều nền kinh tế năng động nhất trên thế giới, sự cạnh tranh đang gia tăng cường độ để gia nhập các thỏa ước mậu dịch khu vực. [2] Trong năm 1992, ASEAN đã tạo nên một FTA ASEAN (AFTA) giữa những quốc gia thành viên của nó. Theo thỏa ước này, các quốc gia ASEAN đã tạo được những tiến bộ đáng kể trong việc hạ mức thuế quan trong nội bộ khu vực. ASEAN-6 (Brunei Darussalam, Indonesia, Malaysia, Phi Luật Tân, Singapore và Thái Lan) đã giảm thuế quan xuống 5% hoặc thấp hơn nữa đối với 99% sản phẩm được thỏa thuận theo Kế hoạch Thuế quan Ưu đãi Hiệu quả Chung cho AFTA. Cambodia, Lào, Miến Điện và Việt Nam được cho nhiều thời gian hơn để hạ thấp thuế quan của họ. [3] FTA này bao trùm tất cả các nông phẩm và sản phẩm hàng hóa. Tuy nhiên, 734 mục thuế quan trong ASEAN chiếm 1.09% tổng số danh mục thuế ASEAN được loại trừ vĩnh viễn khỏi khu vực mậu dịch tự do với các lý do an ninh quốc gia; bảo vệ sức khỏe và đời sống con người cây trồng và thú vật; do các lý do khảo cổ, lịch sử, và nghệ thuật. Trong năm 2003, ASEAN cũng thiết lập Cộng đồng ASEAN. Cộng đồng này có ba trụ cột: Cộng đồng An ninh ASEAN, Cộng đồng Kinh tế ASEAN, và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội ASEAN.

Bảng 1. Các phối trí mậu dịch khu vực, các đàm phán, và các cuộc thảo luận của các quốc gia Đông Á chọn lọc và các quốc gia khác

Nguồn: Các mục tin báo chí khác nhau và Văn Phòng APEC.
Chú Thích: F = FTA đang tồn tại (có thể chưa được thực thi hoàn toàn). PF = FTA từng phần (nhiều phần không được bao gồm hoặc lên kế hoạch cho sự thực thi FTA trong tương lai). N = Đàm phán FTA. D = Thảo luận FTA.

  1. Trung Quốc có một FTA với Hồng Công, Macao. FTA từng phần với Chile. Các cuộc đàm phán với Pakistan với thỏa ước thu hoạch sớm. Các cuộc thảo luận với các quốc gia vùng Vịnh.
  2. Nhật có một FTA với Mexico. Các cuộc đàm phán với Brunei, Chile.
  3. Nam Hàn có một FTA với Chile, EFTA. Các cuộc đàm phán với Canada.
  4. ASEAN có một Cộng tác Kinh tế Chặt chẽ hơn với Ấn Độ.
  5. Singapore có một FTA với EFTA. FTA từng phần với Jordan. Thành viên của Thỏa ước Cộng tác Kinh tế Chiến lược Xuyên Thái Bình Dương với Brunei, Chile, và Tân Tây Lan. Các cuộc đàm phán với Mexico, Canada, Peru, Bahrain, Egypt, Pakistan, Kuwait, Qatar, UAE, và Sri Lanka.
  6. Indonesia là thành viên của Thỏa ước Cộng tác Kinh tế và Mậu dịch Khu vực Nam Thái Bình Dương.
  7. Thái Lan có các cuộc đàm phán với Peru.
  8. Mã Lai có một FTA với Chile, Brunei.
  9. Phi Luật Tân có một FTA với EFTA. Các cuộc đàm phán với Israel.
  10. Việt Nam có một FTA với Cộng đồng Vùng Andes. Các cuộc đàm phán với EFTA, UAE.
  11. Úc có các cuộc hội thoại với UAE, Ai Cập.
  12. Tân Tây Lan là thành viên của Thỏa ước Cộng tác Kinh tế Chiến lược Xuyên Thái Bình Dương với Brunei, Chile, và Singapore.
Trong khi ASEAN đang vun xới các mối quan hệ thân thiết hơn về văn hóa, kinh tế, và chính trị giữa các quốc gia thành viên, tổ chức này cũng đã ký kết nhiều thỏa ước khác nhau với những quốc gia khác, qua đó tạo điều kiện tự do hóa một số hoạt động thương mại ngay tức thời và mở ra những điều khoản cho các cuộc đàm phán hướng tới các thỏa ước mậu dịch chính thức. Trong tháng Mười Một năm 2002, ASEAN và Trung Quốc đã ký một Thỏa ước Khung về Hợp tác Kinh tế Toàn diện. Thỏa ước này chuẩn bị cho một Khu vực Mậu dịch Tự do Trung Quốc – ASEAN (ACFTA) vào năm 2010 giữa Trung Quốc và nhóm ASEAN-6 có trình độ công nghiệp hóa cao hơn, [4] và vào năm 2015 đối với Cambodia, Lào, Miến Điện, và Việt Nam. [5] ASEAN cũng đã ký một Thỏa ước Đối tác Kinh tế Thân cận với Úc và Tân Tây Lan, và trong năm 2005, bắt đầu đàm phán một FTA với các quốc gia đó. Trong năm 2002 và 2003, ASEAN và Nhật Bản đã thiết lập quan hệ Đối tác Kinh tế Toàn diện ASEAN-Nhật Bản. Thỏa ước này bao gồm các thành phần của một khu vực mậu dịch tự do có thể có và sẽ được thực thi vào năm 2012 (có gia hạn thêm năm năm cho các thành viên mới của ASEAN). ASEAN có một thỏa ước tương tự với Ấn Độ. [6] Với Nam Hàn, ASEAN đã ký một hiệp ước FTA đơn lẻ chỉ bao gồm mậu dịch hàng hóa. Trong tháng Mười Hai 2005, Thái Lan từ chối ký vào thỏa ước vì Nam Hàn loại trừ gạo khỏi 4000 mục phải có thuế quan nhập khẩu được cắt giảm xuống dưới 20% và sau đó tới mức 0% vào năm 2009 (gia hạn thêm năm năm cho các quốc gia thành viên mới hơn của ASEAN). [7]

Bởi vì ASEAN không phải là một thị trường chung, nó có thể đàm phán chung một thỏa ước FTA, nhưng mỗi thành viên riêng rẽ phải ký và thực thi FTA này như một thỏa ước song phương. ASEAN không có tỷ suất thuế quan chung với bên ngoài. Các quốc gia ASEAN riêng lẻ cũng có thể theo đuổi các FTA song phương của riêng họ. Singapore là quốc gia tích cực nhất trong việc này. Nó đã ký kết các thỏa ước mậu dịch tự do với Hoa Kỳ, Hiệp hội Mậu dịch Tự do Âu Châu (EFTA), [8] Nhật Bản, và Úc, cũng như các FTA từng phần với Trung Quốc, Ấn Độ, và Jordan. Singapore là thành viên của Tổ chức Cộng tác Kinh tế Chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (một FTA giữa Singapore, Tân Tây Lan, Chile, và Brunei). Quốc gia này đang đàm phán với Mexico, Canada, Nam Hàn, Ấn Độ, Pakistan, Peru, Sri Lanca, Ai Cập, Bahrain, Kuwait, Qatar, và Liên Hiệp các Tiểu Vương Quốc Ả Rập.

Ngoài tư cách thành viên của FTA ASEAN, Thái Lan đã ký kết FTA với Úc và Tân Tây Lan [9] và có các thỏa ước khung với Ấn Độ, [10] Peru, [11] Bahrain, [12] và BIMSTEC. [13] Thái Lan cũng có một thỏa ước nguyên tắc về FTA với Nhật Bản. Thái Lan đang đàm phán các FTA với Hoa Kỳ [14] và EFTA. Trong năm 2005, Thái Lan và Pakistan đồng ý trên nguyên tắc để soạn thảo một thỏa ước mậu dịch tự do theo quan hệ Đối tác Kinh tế Toàn diện đang tồn tại giữa hai quốc gia. [15] Thái Lan cũng đang cân nhắc một FTA với Morocco.

Tương tự như vậy, Phi Luật Tân, Indonesia, và Mã Lai đang mở các cuộc hội thoại và ký kết nhiều thỏa ước mậu dịch khác nhau. Các cuộc đàm phán FTA Mã Lai - Mỹ đã bắt đầu trong tháng Sáu 2006. [16] Cam Bốt, Việt Nam và Lào bị bỏ xa trong tiến trình này. Họ rất chật vật mới có thể ký được các thỏa ước mậu dịch, đừng nói đến mậu dịch tự do hoặc những thỏa ước mậu dịch ưu đãi. Lào và Việt Nam chưa là thành viên của WTO (Việt Nam cuối cùng cũng đã được WTO thâu nhận vào đầu năm 2007 – ND), và Cam Bốt chỉ mới gia nhập năm 2004. Tuy thế, tất cả các thành viên ASEAN cam kết tự do hóa thương mại trong nội bộ ASEAN và nói chung có các cố gắng để đàm phán các FTA song phương song song với các thỏa ước FTA của ASEAN với các quốc gia khác.

Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa rất tích cực trong việc chủ động thiết lập các FTA với các đối tác thương mại. Trong năm 2002, nó đã ký một FTA (Thỏa ước Khung) với ASEAN để tạo ra một thị trường phi thuế quan cho Trung Quốc và sáu thành viên nguyên thủy của ASEAN vào năm 2010 và năm 2015 đối với bốn thành viên khác. Thỏa ước này có bao gồm một chương trình “thu hoạch sớm” về việc loại bỏ thuế quan đối với hàng hóa. Trung Quốc cũng có các FTA với Hồng Công và Ma Cao và một FTA về hàng lưu thông nguyên kiện với Chile. Nó đã thảo luận FTA với 27 quốc gia và đang đàm phán với Canada, Pakistan (đã đồng ý với một chương trình thu hoạch sớm), Úc, Tân Tây Lan, Iceland, và Chile. Trung Quốc cũng đã ký một thỏa ước khung về hợp tác kinh tế với các nước của Hội đồng Hợp tác Vịnh Ả Rập, từ đó có thể dẫn tới các đàm phán FTA.

Trung Quốc cũng là một động lực chính trong tiến trình ASEAN + 3 (ASEAN-10 [17] cộng với Trung Quốc, Nhật Bản, và Nam Hàn). Nhóm này, theo tin tức, đã trở nên một diễn đàn khu vực được ưa thích của Trung Quốc để từ đó, song song với các vấn đề kinh tế, có thể đưa các vấn đề an ninh/chính trị vào chương trình nghị sự. Trong tháng Mười Một 2005, nhóm ASEAN + 3 triệu tập kỳ họp thượng đỉnh thứ chín của nó ngay lập tức sau kỳ họp thượng đỉnh của khối ASEAN. Qua các phối trí mậu dịch song phương đã có giữa phần lớn các quốc gia tân tiến hơn trong ASEAN với Trung Quốc, Nhật Bản, và Nam Hàn, đã thấy sự hiện diện của những nền tảng cho một Khu vực Mậu dịch Tự do Đông Á tương lai (EAFTA). [18] Điều này, tuy nhiên, sẽ đòi hỏi các cuộc đàm phán FTA bị ngưng trệ giữa Nhật Bản và Nam Hàn phải được hoàn tất và các thỏa ước FTA phải được ký kết giữa Trung Quốc, Nhật Bản cũng như giữa Trung Quốc và Nam Hàn.

Nhật Bản nhập cuộc đua FTA tương đối trễ. Quốc gia này còn nặng gánh với ngành nông nghiệp được bảo vệ cao độ và một lịch trình mậu dịch vốn đặt ưu tiên cao nhất cho các đàm phán mậu dịch đa phương theo WTO. Trong năm 1999, các viên chức ở Tokyo đã quyết định nhảy vào cuộc chơi và phát tín hiệu thay đổi chính sách bằng cách kêu gọi một thỏa ước mậu dịch tự do ở Đông Bắc Á. [19] Nhật Bản đã bắt đầu theo đuổi các FTA bằng việc ký một Thỏa ước Hợp tác Kinh tế (EPA) với Singapore trong năm 2003. Sau đó nó đã tìm cách đối trọng lại các tác động của NAFTA bằng cách ký một EPA với Mexico trong năm 2004. Nhật Bản đã ký một thỏa ước hợp tác kinh tế với Phi Luật Tân trong năm 2006, [20] và cũng ký một EPA (loại bỏ thuế quan trên 97% hàng hóa thương mại) với Mã Lai, bắt đầu có hiệu lực vào tháng bảy 2006, [21] và trong năm 2005 thỏa thuận một EPA với Thái Lan. Nhật Bản cũng đang tiến hành các cuộc đàm phán theo thỏa thuận khung với ASEAN để thiết lập một FTA, và với Chile để hình thành một Thỏa ước Cộng tác Kinh tế. [22] Những cuộc hội thoại về FTA giữa Nhật Bản và Nam Hàn đã bị sa lầy vì các tranh cãi liên quan tới các sản phẩm nông nghiệp, lịch sử, và các tuyên bố tranh chấp một hòn đảo. Nhật Bản cũng đã đưa Ấn Độ và Indonesia vào trong lịch trình FTA và đang nhắm tới những cuộc hội thoại với Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh Ả Rập. [23] Đầu năm 2005, Nhật Bản bắt đầu thăm dò khả năng đàm phán với Thụy Sĩ và Úc, và tiến tới có thể khởi đầu những cuộc đàm phán với Úc trong năm 2007, sau khi hoàn tất nghiên cứu về tính khả thi. [24] Brazil là một mục tiêu xa hơn, nhưng đang dần dần đi vào lịch trình mậu dịch song phương của Nhật Bản. [25] Theo như tin tức, Nhật Bản coi các FTA với Trung Quốc, Ấn Độ, và Úc như một phương tiện để thu được nhiều ảnh hưởng hơn trong một cộng đồng Đông Á đang đuợc định hình. [26]

Nam Hàn cũng đã nhập cuộc đua ký kết các FTA. Sau khi chứng kiến doanh số xuất khẩu của mình sang Chi lê tăng vọt sau khi hiệp định mậu dịch tự do đầu tiên của Nam Hàn với quốc gia đó bắt đầu có hiệu lực từ tháng Tư 2004, Nam Hàn loan báo trong tháng Ba 2005 là nó dự định khởi sự đàm phán thương mại với tới 50 nước và thúc đẩy cho các FTA với hơn 15 nước trong số đó vào cuối năm 2007. [27] Ngoài Chile, Seoul đã ký những thỏa ước FTA với Singapore [28] và EFTA, [29] và tất cả các quốc gia ASEAN chủ chốt, trừ Thái Lan, đã ký thỏa ước FTA Nam Hàn – ASEAN. [30] Nam Hàn cũng đang có các cuộc hội thoại FTA với Nhật Bản và Canada. [31] Trong tháng Hai 2006, Nam Hàn bắt đầu những cuộc đàm phán với Hoa Kỳ về một FTA. Nó cũng đang bắt đầu các cuộc đàm phán với Ấn Độ. Nam Hàn đã ngừng theo đuổi một FTA với Mexico, [32] nhưng vẫn còn theo đuổi những cuộc hội thoại FTA với Trung Quốc [33] và Mercosur. [34] Nam Hàn và Israel đang thảo luận về khả năng đàm phán FTA. Nam Hàn cũng đã đề cập tới khả năng có một FTA với Nam Phi. Hiện giờ, Seoul chỉ đang thảo luận một FTA với Úc, một đất nước giàu sản phẩm nông nghiệp.

Với tư cách ngoại giao của Đài Loan (Trung Hoa Đài Bắc) còn trong vòng tranh cãi, cộng thêm với một chiến dịch cô lập Đài Loan của Bắc Kinh, Đài Loan đang phải đối mặt với khó khăn rất lớn trong việc tìm kiếm các quốc gia đối tác muốn đàm phán các phối trí mậu dịch tự do. Đài Loan có các FTA với Panama và Guatemala và đang theo đuổi những thỏa ước tương tự với Nicaragua và Paraguay. Tuy nhiên, áp lực từ phía Trung Quốc, hiển nhiên đã khiến khối mậu dịch Nam Mỹ ngăn cấm các thành viên của nó ký các thỏa ước mậu dịch đơn phương với các nền kinh tế khác, đặc biệt khi Mercosur cân nhắc một FTA với Trung Quốc. [35] Trong năm 2001, Đài Loan đã phát biểu rằng Hoa Kỳ, Tân Tây Lan, và Singapore là những ưu tiên cao nhất cho các đối tác FTA. [36] Đài Loan cũng đã đặt vấn đề với Thái Lan, Nhật Bản, và ASEAN. Đài Bắc đặc biệt quan ngại về bị loại trừ khỏi nhóm ASEAN + 3 và Hội Nghị Thượng Đỉnh Đông Á và cuộc thảo luận về xây dựng một Cộng đồng Đông Á. Đài Loan cũng đang lo ngại rằng, khi FTA Nam Hàn – Hoa Kỳ được thực thi, có thể chuyển dòng mậu dịch từ Đài Loan sang Nam Hàn.


Hợp tác Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương

Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương, hoặc APEC, được thiết lập trong năm 1989 để tạo điều kiện thuận tiện cho tăng trưởng kinh tế, hợp tác, mậu dịch, và đầu tư trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Nó hoạt động trên cơ sở những cam kết không ràng, buộc với các quyết định được đưa ra trên căn bản đồng thuận và đối thoại công khai, bình đẳng đối với tất cả các bên tham gia. 21 thành viên của APEC bao gồm Nhật Bản, Nam Hàn, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Công, Brunei, Indonesia, Mã Lai, Phi Luật Tân, Singapore, Thái Lan, và Việt Nam ở châu Á; Hoa Kỳ, Canada, Mexico, Peru, và Chile ở châu Mỹ; Úc, Tân Tây Lan, và Papua New Guinea ở châu Đại Dương; và Nga. [37]

APEC đã hình thành sau khi Hoa Kỳ phủ quyết việc thành lập một Hội nghị Kinh tế Đông Á (EAEC) do Mã Lai khởi xướng dưới thời thủ tướng Mahathir Mohamad. EAEC chỉ dành riêng cho các quốc gia châu Á và loại trừ các quốc gia (như Hoa Kỳ) từ các lục địa khác. Ngay từ phiên họp đầu, APEC đã nỗ lực giảm thuế quan và các rào cản thương mại trên toàn cõi Châu Á– Thái Bình Dương. Trong các phiên họp năm 1994, APEC đã thiết lập cái gọi là “Các mục tiêu Bogor” về mậu dịch và đầu tư công khai và tự do ở Châu Á – Thái Bình Dương vào năm 2010 cho các nền kinh tế thành viên có trình độ công nghiệp hóa cao hơn, và 2020 cho những thành viên còn lại. Trọng tâm của APEC là những nội dung được gọi là ba trụ cột: tự do hóa đầu tư và mậu dịch, tạo điều kiện dễ dàng cho doanh nghiệp, và hợp tác kỹ thuật và kinh tế. [38] An ninh không được đặt thành một nội dung trọng tâm chính thức của APEC, nhưng Diễn đàn này đang đề cập tới các vấn đề như khủng bố sinh học và an ninh hải cảng ngày càng nhiều.

Đối với Hoa Kỳ, một đặc điểm quan trọng của APEC là nó bao gồm Đài Loan. Những tổ chức chính trị và kinh tế khác thường bao gồm Trung Quốc và loại trừ Đài Loan.


Khu vực Mậu dịch Tự do Á Châu theo dự kiến

Trong năm 2006, Nhật Bản đề nghị một khu vực mậu dịch tự do Á châu 16 nước được điều hợp bởi một tổ chức tương tự với Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD). 16 quốc gia này sẽ gồm mười thành viên ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc, Nam Hàn, Ấn Độ, Úc, và Tân Tây Lan, [39] y hệt với số thành viên của Thượng đỉnh Á Châu. Nhật Bản tuyên bố rằng nó đã có kế hoạch khởi sự các cuộc đàm phán cho một FTA của châu Á trong năm 2008. [40]

Ý tưởng này được chào đón ở ASEAN và Ấn Độ, nhưng Trung Quốc và Nam Hàn tuyên bố rằng ưu tiên cao nhất của họ sẽ là đề nghị FTA ASEAN + 3. [41] Đại Sứ Hoa Kỳ tại Nhật Bản Thomas Schieffer biểu thị quan ngại về FTA châu Á dù đang trong dự kiến, và phát biểu rằng nó có thể làm tổn hại quyền lợi Mỹ ở khu vực. Ông ta nói rằng Hoa Kỳ không thấy thoải mái khi “người ta bắt đầu nói về việc cố loại trừ Hoa Kỳ, theo cách nào chưa biết, ra khỏi châu Á.” Hoa Kỳ có quyền lợi khổng lồ ở đó và muốn là một phần của châu Á, ông ta nhận xét. [42]


Các phối trí hợp tác tài chính

Ngoài những thỏa ước tự do hóa mậu dịch, các quốc gia Đông Á đã thiết lập một số các phối trí hợp tác tài chính. [43] Nguyên nhân chủ yếu để hình thành những phối trí này là các tác động xấu của cuộc khủng hoảng tài chính Á châu 1997-98. Đặc biệt, trong tháng Năm 2000, các bộ trưởng tài chính của ASEAN + 3 đã đồng ý với một cái được gọi là Sáng kiến Chiang Mai (theo tên một thành phố ở Thái Lan, nơi cuộc họp diễn ra). Đề xuất này hướng tới việc tạo ra một mạng lưới các thỏa thuận hoán đổi song phương, qua đó các khoản thanh toán tài chính ngắn hạn có thể được cung cấp để hỗ trợ các quốc gia tham dự ASEAN + 3 khi cần. Ý tưởng là trong các thời điểm khủng hoảng tiền tệ, Trung Quốc, Nhật Bản, và Nam Hàn sẽ hoán đổi dự trự ngoại tệ của họ sang các loại tiền tệ của các quốc gia ASEAN đang gặp khủng hoảng. Mạng lưới phối trí hoán đổi song phương này đã được hình thành giữa Trung Quốc, Indonesia, Nhật Bản, Đại Hàn, Mã Lai, Phi Luật Tân, Singapore và Thái Lan – các nước lớn trong ASEAN + 3. [44] Thỏa ước chuyên ngành này đã mở đường cho sự hợp tác và tham vấn chặt chẽ hơn và giữa các quốc gia này, dẫn tới đề xuất về Cộng đồng Kinh tế Đông Á cho tất cả các thành viên ASEAN+3.


Các phối trí an ninh và chính trị khu vực

Các phối trí an ninh, trong đa số các trường hợp, được thiết kế để giảm nguy cơ thù nghịch bằng cách gắn kết quyền lợi của các quốc gia ký kết lại với nhau, đồng thời hình thành một mặt trận thống nhất để đối phó với các kẻ thù tiềm năng. Các phối trí an ninh như thế có cấp độ, từ liên minh chính thức và những thiết chế tương trợ phòng vệ cho tới đơn thuần tạo ra một diễn đàn để có thể thảo luận về các vấn đề an ninh nhằm xây dựng lòng tin và giải quyết những sự xung đột bằng con đường ngoại giao.

Theo mô hình an ninh châu Âu, các cuộc chiến tranh trong nội bộ Âu châu, đặc biệt giữa Đức, Pháp, Anh, và Tây Ban Nha, đã trở thành một ký ức mờ nhạt khi các quốc gia này gia nhập cùng nhau trong Liên Âu và, phần lớn, trong Tổ chức Minh ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Các thiết chế xuyên Đại Tây Dương, như Tổ chức An ninh và Hợp tác Âu Châu (Hội đồng Helsinki) cũng hiện diện, để hình thành một diễn đàn được điều tiết để thảo luận các vấn đề an ninh và nhân quyền. Các phối trí an ninh như vậy nhấn mạnh điều thường được đề cập tới như một mô thức an ninh mới: “tách rời đồng nghĩa với nguy hiểm.” Mối đe dọa của chiến tranh lạnh đã bị thế chỗ bởi khủng bố, các quốc gia hung hãn với nguy cơ sở hữu các loại vũ khí phá hủy hàng loạt, sự cạnh tranh năng lượng và tài nguyên, và xung đột tôn giáo hoặc chủng tộc. Ngày nay, phần lớn các mối nguy bắt nguồn từ các khu vực của thế giới không có các phối trí an ninh tập thể và bị tách rời khỏi tiến trình toàn cầu hóa, quan hệ liên kết, trao đổi tài chính, và giao lưu truyền thông tự do. [45] Ngay cả trong kỷ nguyên mới này, tuy nhiên, khả năng phải đối đầu với một cường quốc (có tính đến Trung Quốc với vũ khí hạt nhân) vẫn tồn tại. [46]

Các phối trí an ninh và chính trị khu vực ở Đông Á vẫn còn trong giai đoạn đang phát triển, khi so sánh với châu Âu, vùng Bắc Đại Tây Dương, hoặc các quốc gia vùng Vịnh. Các nỗ lực chủ yếu ở châu Á bao gồm: Cộng đồng An ninh ASEAN, Diễn đàn Khu vực ASEAN, Thượng đỉnh Đông Á, Tổ chức Hợp tác Thượng Hải, và các cuộc hội thoại sáu bên. Hình 2 chỉ ra các phối trí an ninh, chính trị, và mậu dịch khu vực hiện có và đang được đề xuất ở Đông Á. Hiện thời, ASEAN đang đóng vai trò tổ chức chính trong nhiều phối trí, nhưng nó làm vậy một phần vì sự xúi giục mạnh mẽ của Trung Quốc và với một sự hợp tác chặt chẽ từ Bắc Kinh. Hoa Kỳ cũng đóng một vai chính và đang hoạt động cả bên trong lẫn ngoài tùy theo tổ chức. Hoa Kỳ đóng một vai trò trung tâm trong APEC và các cuộc hội thoại sáu bên, và là một tham dự viên chủ yếu trong Diễn đàn Khu vực ASEAN. Hoa Kỳ cũng sẽ là một thành viên chính của Diễn đàn Khu vực Đông Bắc Á đang được đề xuất thành lập và có thể gia nhập Thượng Đỉnh Đông Á. Các tổ chức liên quan tới an ninh ở Đông Á sẽ được thảo luận dưới đây.



ASEAN và Cộng đồng An ninh ASEAN

Hiệp hội Các Quốc gia Đông Nam Á hoặc ASEAN được thiết lập năm 1967 với năm thành viên nguyên thủy: Indonesia, Mã Lai, Phi Luật Tân, Singapore, và Thái Lan. Brunei gia nhập năm 1984, Việt Nam năm 1995, Lào và Miến Điện năm 1997, và Cambodia năm 1999. ASEAN được thành lập vào thời chiến tranh Việt Nam với mục đích tăng cường hợp tác văn hóa, xã hội, và kinh tế, nhưng trong thực tế, nó là sản phẩm của cuộc chiến tranh lạnh và một phần của chiến lược kềm chế chủ nghĩa cộng sản của Hoa Kỳ, nhất là sự lan truyền từ Trung Quốc và Việt Nam. Sau khi Hoa Kỳ rút lui khỏi Việt Nam năm 1975, ASEAN ngày càng trở thành một phương tiện để các quốc gia Đông Nam Á giải quyết các vấn đề lãnh thổ và các vấn đề khác thông qua các cố gắng xây dựng cộng đồng không gò bó và có tính đồng thuận. ASEAN đã cố gắng để gắn kết quyền lợi của Cam Bốt, Miến Điện, và Lào vào bằng cách kết nạp họ làm thành viên, nhưng kết quả vẫn có mặt trái, đặc biệt với chế độ độc tài quân sự ở Miến Điện.

Hiện giờ, ASEAN đang giữ vai trò đầu tàu (với sự tác động mạnh mẽ của Trung Quốc) trong việc vận động các quốc gia trong khu vực theo hướng hình thành các phối trí hợp tác. Trong đa số trường hợp, ASEAN có thể giữ vai trò dẫn đầu trong các thiết chế đa phương bởi vì nó được coi như trung lập hơn và ít có tính đe dọa hơn Trung Quốc hoặc Nhật Bản. ASEAN đã thành lập ra Cộng đồng An ninh ASEAN để tăng cường hợp tác về an ninh chính trị rộng lớn hơn, đồng thời góp phần duy trì hòa bình và sự hài hòa.


ASEAN + 3 (Trung Quốc, Nhật Bản, và Nam Hàn)

ASEAN + 3 hình thành trong năm 1997, là một kết quả bất ngờ từ một đề nghị của Nhật Bản để lập ra một tiến trình thượng đỉnh thường xuyên giữa ASEAN và Tokyo với một chương trình nghị sự bao gồm cả an ninh. Quan ngại với những phản ứng tiêu cực có thể có từ các quốc gia châu Á khác, sau đó ASEAN mở rộng hội nghị thượng đỉnh đang dự kiến, để bao gồm luôn Trung Quốc và Nam Hàn. Các thành viên ASEAN + 3 gặp gỡ thường xuyên sau mỗi kỳ thượng đỉnh ASEAN để thảo luận về tài chính, kinh tế, và an ninh. Trung Quốc, theo tin tức, ưa thích tổ chức này hơn Thượng đỉnh Đông Á (EAS) vì nó không bao gồm các cường quốc khác, ví dụ như Ấn Độ, dù Bắc Kinh vẫn tiếp tục ủng hộ EAS.


Diễn đàn Khu vực ASEAN

Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) được thiết lập năm 1994 với mục đích đưa các quốc gia không thuộc ASEAN từ khu vực Á Châu-Thái Bình Dương lại với nhau để thảo luận các vấn đề an ninh và chính trị và để xây dựng những quan hệ hợp tác. [47] 25 tham dự viên trong ARF bao gồm mười thành viên của ASEAN, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Liên Âu, Nga, Úc, Canada, Tân Tây Lan, Nam Hàn, Bắc Hàn, Ấn Độ, Pakistan, Mông Cổ, Papua New Guinea, và Đông Timor.

Trong một khu vực với chưa có bề dày lịch sử về hợp tác an ninh vượt qua các đường ranh triết lý, Diễn đàn Khu vực ASEAN là thiết chế chủ yếu cho đối thoại an ninh ở châu Á. ARF tuyên bố rằng nó bổ sung cho các quan hệ đồng minh và đối thoại song phương khác nhau vốn chống đỡ cho kiến trúc an ninh của khu vực. ARF được tạo ra để hình thành mắt xích còn thiếu giữa các bảo đảm an ninh của Hoa Kỳ, vốn có vẻ yếu đi trong những năm đầu của thập niên 1990, và sự bất định phát sinh từ viễn cảnh có tính đa cực trong khu vực, hậu quả từ sự trỗi dậy của Trung Quốc. ARF được định tính bởi sự lập chế tối thiểu và “phương cách ASEAN” tiến dần từng bước và đồng thuận. [48] Tiến trình ARF bắt đầu bằng sự minh bạch (thông qua sự công bố chi tiêu quân sự và thông tin bố phòng), đối thoại, và các biện pháp xây dựng lòng tin, sau đó chuyển sang ngoại giao phòng ngừa (thảo luận và các cam kết qua lại để giải quyết các tranh chấp cụ thể chỉ bằng các biện pháp hòa bình); và, về lâu dài, hy vọng phát triển được một khả năng giải quyết xung đột. Viễn kiến của ARF là phải quản lý và ngăn ngừa xung đột hơn là bị cuốn vào đó. [49]

Hiện thời, phần lớn các biện pháp ARF đang ở mức độ đối thoại và xây dựng lòng tin, đặc biệt đối với nỗ lực chống khủng bố của khu vực và chương trình hạt nhân/tên lửa của Bắc Hàn. [50] ARF cũng là một nơi cho các bộ trưởng ngoại giao từ các quốc gia Á Châu/Thái Bình Dương gặp gỡ và tập trung thảo luận về các vấn đề thời sự cụ thể. Điều này cũng có thể bị coi là một trong các yếu điểm của nó. Những cuộc thảo luận an ninh không bao gồm các bộ trưởng quốc phòng. Trong các kỳ họp thường niên, vào tháng Bảy 2006, tám thành viên triệu tập những cuộc hội thoại về Bắc Hàn. Cho dù Bắc Hàn cũng đang tham dự, nó không được mời dự các hội thoại. [51] Cuộc họp hàng năm này dường như cũng đã buộc những nhà lãnh đạo Hoa Kỳ chú tâm tới các vấn đề châu Á, vào thời điểm Trung Đông đang thu hút toàn bộ sự chú ý của thế giới.


Thượng đỉnh Đông Á [52]

Thượng đỉnh Đông Á là một tổ chức mới, họp lần đầu vào 14 tháng Mười Hai 2005 ở Mã Lai. Nó quy tụ mười quốc gia ASEAN, các quốc gia “cộng ba”: Trung Quốc, Nam Hàn, và Nhật Bản, cũng như Úc, Tân Tây Lan, và Ấn Độ. Hoa Kỳ không được mời dự. Cuộc họp này được sắp đặt vào thời điểm theo sau Thượng đỉnh ASEAN 2005 cũng như các cuộc họp song phương giữa ASEAN và Nga, Nhật Bản, Nam Hàn, và Ấn Độ.

Nhiều người coi EAS như một sự tái thiết Hội nghị Kinh tế Đông Á (EAEC) được đề xuất trong năm 1990 bởi cựu thủ tướng Mahathir Mohamad của Mã Lai. Lúc đó, Hoa Kỳ phản đối một tập hợp chỉ riêng cho Đông Á như vậy, chủ yếu do quan ngại rằng nó sẽ phát triển thành một khối mậu dịch dành riêng cho châu Á, dù theo đề xuất, nó chỉ có tư cách một cơ chế tham vấn là chính. Tuy nhiên, đến nay chiến lược của Hoa Kỳ không phải là phản đối các phối trí tham vấn và mậu dịch khu vực nữa, mà là phải bảo đảm ngõ vào của Hoa Kỳ qua các thỏa ước song phương, những thiết chế toàn cầu, hoặc qua sự điều hợp chặt chẽ với các quốc gia thành viên thân thiện.

Trung Quốc đã đóng vai trò mạnh mẽ trong việc thúc đẩy EAS, phần nào có tác dụng như một lực đối trọng lại sự hiện diện khắp nơi của Hoa Kỳ ở vành đai châu Á. Tuy nhiên, Nhật Bản và Singapore, được biết, đã vận động để Úc và Ấn Độ cũng được kết nạp, một phần là để cân bằng lại sự khống chế đáng ngại của Trung Quốc trong kỳ thượng đỉnh. Từ đó, Bắc Kinh bớt nhiệt tình về EAS và muốn rút về khái niệm ASEAN + 3 mà trong đó nó có một vị trí trung tâm hơn.

Tại cuộc họp EAS đầu tiên, các đại biểu đã thiết lập EAS như một phần hữu cơ của một kiến trúc khu vực đang hình thành ở châu Á. Các quốc gia cũng tuyên bố rằng những cố gắng của EAS nhằm tăng cường xây dựng cộng đồng ở Đông Á phải nhất quán với, và là sự cụ thể hóa của Cộng Đồng ASEAN; rằng EAS có nhiệm vụ là một diễn đàn hướng ngoại, minh bạch, bao dung, và cởi mở, trong đó ASEAN là động lực; và rằng EAS sẽ chú tâm nuôi dưỡng những đối thoại chiến lược và thúc đẩy hợp tác trong các vấn đề an ninh và chính trị để bảo đảm các quốc gia EAS có thể sống hoà bình với nhau và với thế giới trong một môi trường hài hòa, dân chủ, và công bằng. [53]

Đối với phiên họp đầu tiên của EAS, tư cách thành viên đòi hỏi các tham dự viên ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác ASEAN, là một đối tác đối thoại chính thức [54] của ASEAN, và có các quan hệ hợp tác đáng kể với ASEAN. Các bên ký kết Minh ước ngoài khối ASEAN gồm có Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Nam Hàn, Nga, Pakistan, và Papua New Guinea, nhưng không có Hoa Kỳ.

Quan ngại của Hoa Kỳ với EAS là nó có thể làm vận động để làm giảm bớt ảnh hưởng của Hoa Kỳ ở châu Á, cũng có thể thay thế APEC như một diễn đàn đa phương chính ở châu Á về mậu dịch và tự do hóa đầu tư và hội nhập kinh tế, và cũng có thể gạt Đài Loan ra xa hơn (không được mời tới EAS dù là thành viên của APEC). Tuy thế Hoa Kỳ chưa công khai phản đối Diễn đàn này.


Tổ chức Hợp tác Thượng Hải

Dù cho Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO) về bản chất không phải là một tổ chức Đông Á, nhưng nó lại do Trung Quốc khởi xướng và giữ một vị thế có phần “chống Mỹ.” SCO được tổ chức trong năm 2001 bởi sáu quốc gia: Trung Quốc, Nga, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, và Uzbekistan. Mông Cổ, Pakistan, Iran và Ấn Độ là quan sát viên. [55] Văn phòng của nó được đặt ở Bắc Kinh và Kết cấu Chống Khủng bố Khu vực (RATS) của nó nằm ở Tashkent, Uzbekistan. Các mục tiêu chính cho tổ chức này như được công bố trong Hiệp ước Thượng Hải năm 2001 là để chống khủng bố, ly khai và quá khích. Động lực ban đầu của Trung Quốc để thiết lập SCO dường như là để ngăn ngừa chủng tộc Kazakhs hay Uighurs ở Trung Quốc sử dụng các quốc gia Trung Á như những an toàn khu để từ đó trù tính các hoạt động ly khai ở Khu Tự trị Uighur Tân Cương (trước đây là Đông Turskestan) của Trung Quốc. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của SCO hiện nay nó có vẻ là một phương tiện để cho Trung Quốc và Nga giới hạn ảnh hưởng của Hoa Kỳ ở Trung Á nhằm thiết lập một vùng ảnh hưởng chung ở đó. Điều này bao gồm những ngõ thông tới các nguồn năng lượng kề bên Trung Quốc cũng như thị trường cho xuất khẩu và sự cộng tác chống lại các phong trào Hồi giáo. [56] Khi Trung Quốc, Nga, và các thành viên SCO khác tập trận dưới bảo trợ và hướng dẫn của SCO, một số quan sát viên đã chỉ ra khả năng tiềm tàng của nó để nắm lấy một vai trò quân sự không khác với vai trò của NATO là bao. [57]

Khi SCO được duy trì tới năm thứ tư và thứ năm, nó dường như trở nên một phương tiện hiệu quả cho Bắc Kinh và Moscow nhằm theo đuổi các mục tiêu địa chính trị. Nó là khối khu vực đầu tiên phản đối đề nghị của Nhật Bản, Brazil, Đức, và Ấn Độ nhằm mở rộng số thành viên vĩnh viễn của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Trong năm 2005, SCO kêu gọi ấn định một thời điểm cho quân đội Hoa Kỳ rời khỏi Trung Á, và tại kỳ thượng đỉnh 2006, Tổng Thống Iran, dù không nêu tên Hoa Kỳ trực tiếp, đã lên tiếng chống lại “mối đe dọa từ các quyền lực độc đoán và sự can thiệp thô bạo của chúng vào các sự kiện có tính toàn cầu.” [58] Giả sử rằng Bắc Kinh đóng vai trò chính trong việc định hướng SCO, đường lối phát triển của SCO cho thấy những manh mối về đường lối mà các tổ chức khu vực khác, ví dụ như ASEAN + 3, sẽ đi nếu Trung Quốc nắm được vị trí khống chế.


Hội thoại sáu bên

Đe dọa hạt nhân tiềm tàng từ Cộng hòa Nhân dân Triều Tiên (DPRK) khiến năm quốc gia với quyền lợi trực tiếp nhất trong vấn đề này ngồi vào những cuộc hội thoại với Bình Nhưỡng. Các tham dự viên bao gồm Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nam Hàn, Nga, và CHDCND Triều Tiên. Đầu năm 2003, Trung Quốc chủ tọa vòng hội thoại đầu tiên ở Bắc Kinh, và sau đó họ đã tiếp tục giữ vai trò này thêm một vài lần. Đây là một điểm mà Trung Quốc có thể hợp tác với các quốc gia khác và giữ vai trò dẫn dắt trong việc đối phó với một vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp tới các quyền lợi quốc gia của nó và trên biên giới của nó. Cho dù các cuộc hội thoại hiện giờ vẫn còn giẫm chân tại chỗ, các thế lực chủ yếu ở đông bắc Á đã có dịp ngồi lại với nhau để tìm kiếm một giải pháp cho vấn đề. [59]


Diễn đàn Khu vực Đông Bắc Á đang được đề xuất

Một số người đã gợi ý rằng năm quốc gia (ngoại trừ CHDCND Triều Tiên) trong hội thoại sáu bên nên tiến tới thể thức hóa diễn đàn đặc biệt này thành một tổ chức có thể gọi là Diễn đàn Khu vực Đông Bắc Á (NERF). Theo đề xuất của một nhóm tác giả, mục đích của NERF sẽ là định kỳ tổ chức các cuộc họp ngoại giao đa phương để cân nhắc các vấn đề kinh tế, y tế, năng lượng, và an ninh nổi bật trong khu vực. Các đại diện quốc gia dự họp sẽ có chức vụ tương đương như những người tham dự trong các cuộc hội thoại sáu bên. [60]

Tại cuộc họp Diễn đàn Khu vực ASEAN lần thứ 13 trong tháng Bảy 2006, Bộ trưởng Ngoại giao Condoleezza Rice phát biểu về tính cần thiết của một cuộc “đối thoại có thực chất về An ninh Đông Bắc Á” và của các thảo luận nhằm “tiến xa hơn trong các vấn đề hợp tác và an ninh.” [61] Tại cuộc họp ARF, năm thành viên đó, cộng với Mã Lai (chủ nhà của ARF 2006), Úc, và Canada đã gặp để thảo luận về tình trạng Bắc Hàn. Cuộc họp này được triệu tập thay cho một kỳ hội thoại sáu bên, vì Bắc Hàn từ chối tham dự. [62]

Một trở ngại chính ở Đông Á là sự khác biệt quá lớn giữa Trung Quốc, Nhật Bản, Nga, Hoa Kỳ, và Nam Hàn, đến nỗi mà lần duy nhất các quốc gia này tụ lại với nhau và cùng làm việc hướng tới một mục tiêu chung là khi họ cùng phải đối mặt với một vấn đề đơn nhất đủ nghiêm trọng để có thể gạt qua một bên những hiềm khích mang tính chiến lược và hợp tác để tìm một giải pháp thỏa mãn mọi phía. Vấn đề của lối tiếp cận này là các tổ chức chuyên biệt cho từng sự vụ đơn lẻ, ví dụ như những cuộc hội thoại sáu bên, chỉ tồn tại khi nảy sinh các vấn đề lớn, xuyên quốc gia, và có nguy cơ vượt ra ngoài tầm kiểm soát – ví dụ như chương trình vũ khí hạt nhân của Bắc Hàn. Khi tìm giải pháp cho các vấn đề lớn như vậy, các bên liên quan đều hiểu nhu cầu hợp tác và tìm kiếm một lập trường chung, dù có thể chưa từng hợp tác với nhau bao giờ, hoặc thậm chí các bên liên quan có thể là các đối thủ cạnh tranh chiến lược và có quan điểm chống đối nhau. Nhiều chuyên gia cảm thấy rằng cần có một phương cách để đưa các cường quốc ở Đông Bắc Á lại với nhau thường xuyên hơn, để họ theo đuổi các biện pháp xây dựng lòng tin, để có nhiều dịp đối thoại và hành động theo chính sách chung hơn. Các quốc gia này có thể bắt đầu bằng cách đề cập đến những vấn đề có sự gặp gỡ về quyền lợi, là những nội dung mà họ đã có một mức độ đồng thuận nhất định. Các vấn đề kiểu như vậy ở khu vực này có thể bao gồm: các bệnh truyền nhiễm, khủng bố, an ninh vận tải, hay năng lượng. Tiến trình này có thể thiết lập các tuyến thông tin và xây dựng lòng tin tương tự kinh nghiệm ở châu Âu với Ủy ban An ninh và Hợp tác Âu Châu (Ủy Ban Helsinki). [63]


Bản tiếng Việt © 2007 talawas



[1]Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới. Lối vô RTA tại [http://wto.org/English/tratop_e/region_e.htm]
[2]Để tham khảo danh mục các thỏa ước mậu dịch tự do song phương và khu vực, các cuộc đàm phán, và những thỏa ước đang được thảo luận (với các đường nối tới các văn kiện chính thức và thông cáo báo chí) giữa các thành viên APEC, coi: [http://www.apec.org/webapps/fta_rta_in fomation.html#others_fta].
[3]Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á. Thương mại/Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA). [http://www.aseansec.org/12021.htm].
[4]ASEAN-6 là Brunei, Indonesia, Mã Lai, Phi Luật Tân, Singapore, và Thái Lan.
[5]ASEAN. Kinh doanh với Trung Quốc theo Khu vực Thương mại Tự do Trung Quốc - ASEAN (ACFTA). c. 2003. [http://aseansec.org/4920.htm]
[6]ASEAN. Tuyên bố cấp Bộ Trưởng về AFTA-CER Đối tác Kinh tế Thân cận. ngày 14/9/2002. Hiệp định Khung về Đối tác Kinh tế Toàn diện giữa ASEAN và Nhật Bản, ngày 8/10/2003. Hiệp định Khung về Hợp tác Kinh tế Toàn diện giữa ASEAN và Ấn độ, ngày 8/10/2003.
[7]Nam Hàn đã ký Thỏa thuận thương mại với ASEAN, trừ Thái Lan. Báo Jakarta Post, ngày 13/12/2005. [http://www.Bilaterals.org]. ASEAN. Tuyên bố Báo chí chung về cuộc họp cấp Bộ trưởng ASEAN – Nam Hàn lần thứ ba. Makati City, Philippines, ngày 16/5/2006.
[8]Các thành viên của EFTA (Hiêp Hội Mậu Dịch Tự Do Âu Châu) là Iceland, Liechtenstein, Na Uy và Thụy Sĩ.
[9]Xem thêm chi tiết ở [http://www.thaifta.com/English/index_eng.htm]
[10]Thỏa Ước Khung cho Thiết Lập Khu Vực Mậu Dịch Tự Do Giữa Cộng Hòa Ấn Độ và Vương Quốc Thái Lan, 9 tháng Mười 2003. Coi văn bản tại [http://www.thaifta.com/English/index_eng.html].
[11]Coi văn bản ở [http://www.thaifta.com/English/index_eng.html].
[12]Thỏa ước này chuẩn bị cho việc giảm thuế quan bước đầu, tiến tới xóa bỏ thuế quan được dự trù vào 2010. Coi văn bản ở [http://www.thaifta.com/English/index_eng.html].
[13]BIMSTEC được thiết lập tháng Sáu 1997 để tạo điều kiện hợp tác kinh tế xã hội dẫn tới một FTA giữa Bangladesh, Sri Lanka, và Thái Lan. Miến Điện được thâu nhận trong năm 1997, và Bhutan và Nepal được thâu nhận trong năm 2004. Coi [http://www.bimstec.org].
[14]Báo cáo CRS số RL32314, Đàm phán FTA Hoa Kỳ - Thái Lan, của Raymond J. Ahearn và Wayne M. Morrison.
[15]Phanayanggoor, Preeyanat. Kế hoạch cho FTA với Islamabad. Bangkok Post, ngày 10/5/2005. [http://www.Bilaterals.org].
[16]Báo cáo CRS số RL34445, Hoạch định FTA Hoa Kỳ - Malaysia, của Dick K. Nanto.
[17]Mười thành viên của ASEAN: Indonesia, Mã Lai, Phi Luật Tân, Singapore, Thái Lan, Brunei, Việt Nam, Lào, Miến Điện, và Cam Bốt.
[18]ASEAN. Hợp tác ASEAN Cộng Ba. 29/12/2005. [http://www.aseansec.org/16580.htm].
[19]Ravenhill, John. Một Thế Giới Tam Nguyên? Chủ nghĩa Khu vực mới ở Đông Á. International Relations of the Asia Pacific, 1/8/2002. Tập 2, Số 2. T. 179 ff.
[20]Japan. Bộ Ngoại Giao.Việc ký kết thỏa thuận Hợp tác Kinh tế Nhật Bản -Phillipines. 8/9/2006.
[21]Japan. Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp. Thông cáo báo chí chung về cơ hội triển khai Hiệp định Hợp tác Kinh tế giữa Chính phủ Nhật Bản và Chính phủ . 13/7/2006.
[22]Japan. Bộ Ngoại Giao. Thông cáo báo chí chung của Nhật Bản và Chi Lê về việc khởi đầu đàm phán Hiệp định Hợp tác Kinh tế, 18/11/2005.
[23]Tariq Khonji. Nhật Bản thúc đẩy Hiệp Ước Thương mại với các quốc gia vùng vịnh. Gulf Daily News. 21/12/2005. [http://www.bilaterals.org/article.php3?id_article=3340].
[24]Australia Hy vọng bắt đầu đàm phám FTA với Nhật Bản trong năm 2007. Điện tín của Kyodo News do bộ phận theo dõi về châu Á Thái Bình Dương BBC đưa tin ngày 2/8/2006.
[25]Japan. Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp. Chính sách của Nhật Bản về FTA/EPA. Tháng Ba/2005. [http://www.meti.go.jp/English/policy/index_externaleconomicpolicy.html].
[26]Tổ Tin tức Thương mại Quốc tế. Washington Trade Daily. Tập 15, Số 2 và 3, ngày 3 và 4 tháng 1/2006 T. 2.
[27]Lee, Si-wook. Tìm hiểu FTAs: Trở lại những vấn đề cơ bản. Korea Herald, đăng trên Bilaterals.org ngày 14 tháng Mười Một 2005. Lee, Jong-Heon. Analysis: S.Korea's FTA Push. UPI newswire, 30 tháng Ba, 2005.
[28]Ký 4 tháng Tám 2005. Thông qua bởi nghị viện Đại Hàn 1 tháng Mười Hai 2005. Dự trù có hiệu lực trong tháng Ba 2006. Nó kêu gọi Đại Hàn bãi bỏ thuế quan trên 91.6% các danh mục mậu dịch của nó với Singapore trong vòng 10 năm và đối với Singapore dỡ bỏ thuế quan trên tất cả các danh mục mậu dịch với Nam Hàn. (Parliament Ratifies FTA with Singapor, Daily Chosun Ilbo, 2 tháng Mười Hai 2005.)
[29]Ký 12 tháng Bảy 2005 với Iceland, Norway, Thụy Sĩ và Liechtenstein. EFTA có nhiệm vụ gỡ bỏ tất cả các loại thuế quan trên hàng nhập khẩu từ Nam Hàn càng nhanh càng tốt kể từ khi thỏa thuận có hiệu lực, trong khi Nam Hàn có nhiệm vụ gỡ bỏ thuế trên 99.1% các sản phẩm nhập khẩu từ EFTA trong bảy năm tới.
[30]Trong tháng Mười Hai 2005, Thái Lan đòi hỏi Đại Hàn đặt gạo vào danh mục các hàng hóa được giảm thuế trước khi nó ký hiệp định.
[31]Nam Hàn và Canada triệu tập các cuộc hội thoại vòng hai trong tháng Chín 2005.
[32]Trong tháng Chín 2005, Nam Hàn và Mexico đồng ý thảo luận một thỏa ước bổ túc kinh tế chiến lược (SECA) càng sớm càng tốt. Điều này hướng đến việc mở rộng và phát triển thương mại và đầu tư, sau khi các bước đầu đàm phán về thỏa ước mậu dịch tự do bị thất bại, được biết do các bất đồng về khả năng đầu tư của các nhà sản xuất xe hơi Nam Hàn và nhập khẩu các sản phẩm nông nghiệp của Mexico. (South Korea, Mexico to Push for Limited Trade Talks. Reuters [Seoul], 10 tháng Chín 2005.)
[33]Học Viện Chính Sách Kinh Tế Quốc Tế Đại Hàn và Trung Tâm Nghiên Cứu Phát Triển của Quốc Vụ Viện Trung Quốc đã điều hợp một nghiên cứu chung về tính khả thi của một hiệp ước mậu dịch tự do song phương.
[34]Mersocure là một khu vực mậu dịch được thiết lập năm 1991 bởi Brazil, Argentina, Uruguay, và Paraguay. Về sau nó được điều chỉnh và cập nhật hóa bởi Minh Ước Ouro Preto năm 1995. Mục đích của nó là để thăng tiến mậu dịch tự do và sự di chuyển tự do của hàng hóa, con người, và tiền tệ. Bolivia, Chile, Colombia, Ecuador, Mexico, Peru, và Venezuela là các thành viên cộng tác.
[35]Ho, Jessie. Paraguayan FTA Sate: Government. Taipei Times, 15 tháng Hai 2005.
[36]Chen, Melody. FTA Thúc đẩy Tăng tốc. Taipei Times, 8 tháng Mười Một 2004.
[37]Để tham khảo thêm về APEC, coi: Congressional Research Service Report RL31038, Asia Pacipic Economic Cooperation (APEC), Free Trade, and the 2005 Summit in Busan, Korea, của Emma Chanlett-Avery.
[38]Các nhóm làm việc của APEC thảo luận hợp tác kỹ thuật nông nghiệp, năng lượng, ngư nghiệp, phát triển tài nguyên con người, kỹ thuật và khoa học công nghệ, bảo tồn tài nguyên biển, xí nghiệp vừa và nhỏ, thông tin và viễn thông, du lịch, thăng tiến mậu dịch, và vận tải.
[39]Nhật Bản hướng tới khởi sự đàm phán FTA Đông Á vào năm 2008: Nikai. Jiji Press English News Service. Tokyo, 4 tháng Tư 2006.
[40]Japan Aims to Launch East Asia FTA Talks in ’08: Nikai. Jiji Press English News Service, 4 tháng Tư 2006.
[41]Nam Hàn, Trung Quốc phản đối Kế hoạch FTA 16 quốc gia của Nhật Bản. Tổ chức Thông tấn Châu Á – Thái bình dương 24 tháng Tám 2006.
[42]Đặc sứ Hoa Kỳ phát biểu quan ngại trước ý tưởng FTA khu vực Đông Á của Nhật Bản. BBC Monitoring Asia Pacific. London: 19 tháng Tư 2006.
[43]Để tham khảo một thảo luận rộng lớn, coi Cowen, David et al. Finacial Integration in Asia: Recent Development and Next Steps. IMF Working Paper, WP/06/196, tháng Tám 2006.
[44]Coi UNESCAP. Hợp tác Tài chính Khu vực Đông Á: Sáng kiến Chiang Mai và tương lai. Bulletin on Asia-Pacific Perspectives 2002/03. Chương 8. Sẵn có ở [http://unescap.org/pđ/publications/bulletin2002/ch8.pdf].
[45]Barnett, Thomas P.M. Bản đồ mới của Lầu Năm góc, Chiến tranh và hòa bình trong Thế kỷ 21, New York: G.P. Putnam’s Sons, 2004, 435 p.
[46]Coi, thí dụ: Văn phòng Bộ trưởng Quốc phòng. Báo cáo thường niên trình Quốc hội, Sức mạnh quân sự của CHND Trung Hoa. Công bố ngày 19/7/2005, Tr. 42.
[47]Trang nhà của ARF nằm ở [http://www.aseanregionforum.org/default.aspx?tabid=55].
[48]Ooi, Su-Mei. Toàn cầu hoá và An ninh: Vai trò của các định chế tài chính Quốc tế đối với An ninh châu Á – Thái Bình Dương. Baden-Baden, Germany, Nomos Verlagsgesellschaft, 2001, Tr. 106.
[49]Những mối lo ở châu Á, màn dạo đầu ở Thái bình dương: Những thử nghiệm về an ninh. World Policy Journal, Summer 1994, Vol. 11, Issue. 2; pp. 37-45.
[50]Chính phủ Australian. Bộ Ngoại giao và ngoại thương. Thông tin chung về ARF, truy cập ngày 5/6/, 2006. [http://www.dfat.gov.au/arf/background.html].
[51]Wright, Robin. Ngoại trưởng Rice tổ chức hội nghị về Bắc Hàn. Washington Post, 27/7/2006.
[52]Dựa theo Tường Trình CRS RL33242, East Asia Summit (EAS): Issues for Congress, của Bruce Vaughn.
[53]Tuyên bố Kuala Lumpur về Thượng Đỉnh Đông Á, Kuala Lumpur, 14 tháng Mười Hai, 2005.
[54]Các đối tác đàm phán với ASEAN bao gồm Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Nam Hàn, Nga, Úc, Canada, Liên Âu, Ấn Độ, và Tân Tây Lan.
[55]Trang web của SCO nằm ở [http://sectsco.org]. Đối với gốc tích về những năm đầu tiên của SCO, coi CRS Report RL31213, China Relations with Central Asian States and Problems with Terrorism, by Dewardric L. McNeal and Kerry Dumbaugh.
[56]Weinstein, Michael. Thông tin Tình báo: Shanghai Cooperation Organization. Power and Interests News Report, July 12 2005.
[57]Wier, Fred. Nga, Trung muốn thành lập ‘NATO của phương Đông’?; Một nhóm 6 bên, muốn cân bằng quyền lực với Hoa Kỳ, gặp gỡ ở Moscow ngày thứ Tư, The Christian Science Monitor, 26/10/2005, Tr. 4.
[58]Lim, Louisa. Các quốc gia châu Á và Trung Á gặp gỡ ở Thượng Hải. Buổi phát thanh sáng của đài National Public Radio, ngày 15/6/2006.
[59]Coi Tường Trình CRS RL33567, Korea: US-Korean Relations – Issues for Congress, của Larry A. Niksch.
[60]Bremmer, Ian, Coi Sung-hong, và Yoriko Kawaguchi. Một diễn đàn hoà bình mới, The National Interest, Winter 2005/2006, Issue 82, pp. 107-111.
[61]Rice, Condoleezza. Những nhận định từ cuộc họp đa phương về Bắc Hàn. Thông cáo báo chí Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ số 2006/T19-12, ngày 28/7/2006.
[62]Wright, Robin. Ngoại trưởng Rice triệu tập hội nghị về Bắc Hàn. Washington Post (bản điện tử), ngày 27/7/2006.
[63]Để tham khảo thêm về Ủy Ban An Ninh và Hợp Tác Âu Châu, coi trang web của họ ở [http://csce.gov].