trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
Xã hội
Kinh tế
  1 - 20 / 135 bài
  1 - 20 / 135 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Xã hộiKinh tế
5.5.2007
Dick K. Nanto
Kiến trúc khu vực Ðông Á: những phối trí an ninh và kinh tế mới và chính sách của Hoa Kỳ
(Tường trình RL33653 của CRS cho Quốc hội Hoa Kỳ 18 tháng Chín, 2006)
Khiêm dịch
 1   2   3 
 
Các đối thoại tuyến hai

Ngoài các tổ chức khu vực chính thức, cũng có một số đối thoại tuyến hai. Trong đó bao gồm Đối thoại Shangri-La của Học viện Quốc tế về Nghiên cứu Chiến lược, [1] Hội đồng Hợp tác An ninh Á Châu Thái Bình Dương, [2] và Đối thoại Hợp tác Đông Bắc Á của Viện Đại học California (NEACD). Các đối thoại này thường có sự tham gia của các viên chức cấp cao nhất và giới học thuật từ các quốc gia trong khu vực, gặp nhau để thảo luận các vấn đề có tầm quan trọng chung. Hội nghị NEACD 2006 ở Tokyo, ví dụ, bao gồm phần lớn các nhà đàm phán trong hội thoại sáu bên đang bị ngưng trệ. [3]


Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương

Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Hoa Kỳ (USPACOM) cũng ra sức thúc đẩy sự hợp tác an ninh trong khu vực, chủ yếu qua hai kênh: thứ nhất là giữa-quốc-gia-với-quốc-gia qua các cuộc viếng thăm của Tư lệnh, những cuộc tập trận chung, huấn luyện giữa-quân-đội-với-quân-đội, và các hoạt động cứu trợ, như là hỗ trợ sau trận sóng thần. Kênh thứ hai dưới hình thức chủ trì những diễn đàn cho các sĩ quan quân đội và các giới dân sự từ các quốc gia khác nhau tới tổng hành dinh của PACOM để đào tạo và tập huấn. Riêng Trung tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á Thái Bình Dương của PACOM, đã trở thành một nơi, tương tự như các thảo luận tuyến hai, cho các sĩ quan quân đội từ khắp khu vực Á Châu Thái Bình Dương gặp gỡ nhau trong một môi trường học hỏi riêng biệt, không gò bó để thoải mái thảo luận các vấn đề an ninh. [4]


Các vấn đề về chính sách của Hoa Kỳ

Sự phát triển của các phối trí an ninh và mậu dịch mới ở Đông Á đặt ra nhiều vấn đề, phát sinh từ quyền lợi thiết yếu của Hoa Kỳ, cho các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ.


Quyền lợi của Hoa Kỳ

Sự trỗi dậy của chủ nghĩa khu vực ở Đông Á phải được tính đến trong khi cân nhắc về chính sách của Hoa Kỳ, do tác động của nó đối với ba quyền lợi sống còn của Hoa Kỳ: an ninh, sự sung túc kinh tế, và quy chiếu các quan niệm giá trị. Về an ninh, Hoa Kỳ đã tham chiến ba lần ở Đông Á và vẫn còn duy trì một lực lượng quân sự đáng kể ở Nhật Bản, Nam Hàn, và trong Thái Bình Dương. Trong những năm gần đây, đã có những vụ tấn công khủng bố các doanh nghiệp và công dân Hoa Kỳ xảy ra trong khu vực này (đặc biệt ở Indonesia và Phi Luật Tân). Trung Quốc là một cường quốc hạt nhân đã được thừa nhận, trong khi Bắc Hàn khao khát muốn trở thành một cường quốc hạt nhân. Các điểm nóng tiềm tàng ở Đông Á bao gồm không chỉ sự đối đầu giữa Đài Loan và Trung Quốc và giữa Bắc - Nam Hàn mà còn bao gồm nguy cơ tấn công khủng bố đối với các doanh nghiệp, các cơ sở ngoại giao, và công dân của Hoa Kỳ và các quốc gia khác trong khu vực. Tranh chấp về các hòn đảo hoặc tài nguyên trong nhiều khu vực khác nhau ở Đông Á cũng đang bùng lên. Một tác giả chỉ ra rằng mỗi âm mưu chủ yếu của al Qaeda từ 1993 đều có liên hệ với các nhóm Hồi giáo cực đoan ở Phi Luật Tân. [5]

Châu Á cũng đóng một vai trò thiết yếu trong sự sung túc kinh tế của Mỹ. Toàn cầu hóa và sự tăng trưởng của các tuyến cung ứng xuyên Thái Bình Dương đã đan kết các nền kinh tế châu Á và Hoa Kỳ trong một tấm thảm liên thuộc và đan xen nhau mà mỗi cọng chỉ luôn được điều chỉnh thường xuyên. Dân số của Đông Á là 2.1 tỉ, chiếm một phần ba của tổng số 6.2 tỉ người trên trái đất. Nếu cộng thêm tiểu lục địa Ấn Độ, châu Á chiếm hơn nửa dân số thế giới. Các quốc gia này vừa cạnh tranh vừa bổ túc cho nền kinh tế Hoa Kỳ. Đối với nhiều quốc gia xuất khẩu ở Đông Á, Hoa Kỳ là điểm tựa cuối cùng về thị trường xuất khẩu và nguồn cug cấp phần lớn vốn, kỹ thuật, và ý tưởng thiết kế sản phẩm của họ. Thị trường Hoa Kỳ, tuy nhiên, đang nhanh chóng bị thế chỗ bởi Trung Quốc và mậu dịch nội bộ khu vực giữa các quốc gia châu Á với nhau. Sự tăng trưởng nhanh chóng của Trung Quốc cũng đang làm phát sinh nhu cầu to lớn về các nguồn tài nguyên thiên nhiên hữu hạn và đẩy giá của chúng tăng cao. Châu Á cũng là một đối thủ cạnh tranh chính về nguồn cung ứng năng lượng toàn cầu và là một nguồn lây lan các bệnh truyền nhiễm (cúm gia cầm và Triệu chứng Suy Hô hấp Cấp Tính [SARS]) có thể đe dọa những lợi ích cơ bản của người Mỹ.

Một thách thức khác cho Hoa Kỳ liên quan tới Đông Á là các quan hệ tài chính và kinh tế xuyên Thái Bình Dương đang mất cân đối một cách căn bản. Chỉ tính riêng Trung Quốc, Nhật Bản, Nam Hàn, và Đài Loan chiếm chừng 40% thâm hụt mậu dịch hàng hóa của Hoa Kỳ. Cũng chính các quốc gia đó đã trở thành các nhà cung cấp tài chính cho thâm hụt ngân sách và tiết kiệm của Hoa Kỳ. Nhiều công việc ở Hoa Kỳ từng được coi là an toàn cũng đang được đưa qua châu Á, và một số quốc gia châu Á có sự lơi lỏng trong thực thi luật pháp về các quyền sở hữu trí tuệ và có các chính sách về môi trường và lao động đáng đặt dấu hỏi.

Về quy chiếu các giá trị Hoa Kỳ, một mục tiêu chủ yếu của Hoa Kỳ là giúp tạo ra một thế giới của các quốc gia được quản trị tốt, dân chủ để có thể đáp ứng được các nhu cầu của công dân ở đó và cư xử một cách có trách nhiệm trong hệ thống quốc tế. [6] Trong khía cạnh này, châu Á vừa là một bài học thành công, lẫn sự phập phồng lo ngại. [7] Trong khi dân chủ ở phần lớn các quốc gia có sức sống và tiêu biểu, các ngoại lệ nhức nhối vẫn tồn tại ở Miến Điện, Trung Quốc, và Bắc Hàn. Cũng tương tự như vậy về nhân quyền, ba quốc gia này cùng với Việt Nam, Indonesia, Cambodia, và Lào thường được nêu tên vì chà đạp nhân quyền.

Các mục tiêu của Hoa Kỳ ở Đông Á bao gồm bảo toàn ảnh hưởng của Hoa Kỳ và các quan hệ đồng minh, nuôi dưỡng sự ổn định trong quan hệ giữa khu vực với Hoa Kỳ cùng với sự ổn định bên trong khu vực (đặc biệt với Trung Quốc, xuyên eo biển Đài Loan, và trên bán đảo Triều Tiên), giảm thiểu các mối đe dọa khủng bố, hướng tới các quan hệ mậu dịch và đầu tư công bằng, bảo vệ công dân Mỹ khỏi các đe dọa mới (như là dịch cúm gia cầm ở người), và phát triển những nguồn cung ứng đủ về năng lượng và nguyên liệu thô cần thiết cho sự phát triển của các nền kinh tế. [8]

Những công cụ chính sách Hoa Kỳ có thể sử dụng bao gồm cả sức mạnh cương lẫn nhu: đe dọa và hành động quân sự, ngoại giao, các liên minh kinh tế và chính trị, các biện pháp đầu tư và mậu dịch, và sự quảng bá ý tưởng và lý tưởng. Phương tiện để sử dụng các công cụ nói trên gồm có tiếp xúc (hợp tác nhưng không liên kết), hợp tác (liên kết hoặc đưa vào một tổ chức đang tồn tại), kiềm chế (cản trở sự thăng tiến), và thu hồi (tìm cách lấy lại những quyền lợi mà đối phương đã đạt được). Phương tiện cũng bao gồm cả việc sử dụng tới một loạt các hành động quân sự (kể cả tấn công phủ đầu) và tổng hợp các biện pháp ngoại giao và thực thi pháp luật. Trong khuôn khổ của bản tường trình này, chúng tôi chỉ tập trung phân tích biện pháp tiếp xúc và hợp tác thông qua các phối trí quốc tế chính thức, dưới góc độ là phương tiện để đạt được các mục tiêu chính sách của Hoa Kỳ.

Tầm quan trọng của việc cân nhắc các thay đổi này ở Đông Á đã được Kurt Campbell, một chuyên gia về các vấn đề an ninh, nói tới. Ông ta phát biểu rằng tuy trước mắt, vấn đề quan trọng nhất đối với Hoa Kỳ hiện tại là cuộc chiến chống khủng bố, thì chỉ trong 20 hoặc 25 năm nữa, khi hồi tưởng lại, chúng ta sẽ nhận ra vấn đề hệ trọng nhất của giai đoạn này, là sự trỗi dậy của Trung Quốc và biến tấu châu Á thực sự có ý nghĩa nhiều hơn các vấn đề ở Trung Đông, dù chúng ta có thể vẫn phải đeo đẳng những vấn đề ở Trung Đông thêm một thời gian nữa. [9] Ellen Frost, thuộc Học viện Kinh tế Quốc tế và Đại học Quốc Phòng, một học giả chuyên theo dõi các vấn đề kinh tế và an ninh châu Á đã lâu, phát biểu trong năm 2005 “Nếu Hoa Kỳ tiếp tục coi nhẹ các phối trí khu vực ở châu Á – tỏ ra có thái độ “mặc kệ nó” và chỉ thiên về các thỏa ước song phương – nó sẽ dần đánh mất ảnh hưởng, nhất là trong tương quan với Trung Quốc. [10] Nói ngắn gọn, thúc đẩy sâu xa của các quan ngại của Hoa Kỳ về các phối trí khu vực Đông Á nằm ở quan hệ chiến lược của Hoa Kỳ với CHND Trung Hoa.

Vì vậy, câu hỏi cốt lõi cho nhiều nhà phân tích là phải làm gì với ảnh hưởng gia tăng của Trung Quốc ở châu Á. Thật rõ ràng là Trung Quốc đã tự coi mình là một cường quốc quân sự và kinh tế của khu vực. Nó đang hướng tới thiết lập vị trí của mình như một nhà lãnh đạo của châu Á, đã thế chỗ của Nhật Bản và Hoa Kỳ trong vai trò đối tác mậu dịch và nguồn viện trợ kinh tế chính trong các quốc gia Đông Nam Á, và đã theo đuổi một “màn tấn công quyến rũ” qua đó có vẻ đã chinh phục được “con tim và khối óc” của nhiều người ở các quốc gia đó. Trung Quốc đã đạt được những thành quả này thông qua ngoại giao khéo léo, sử dụng các nguồn lực viện trợ, và bằng cách trình ra một khuôn mặt thân thiện hơn, nhưng nó cũng dựa vào các thỏa ước mậu dịch chính thức và các thỏa ước khác. Tuy thế, Hoa Kỳ vẫn là một cường quốc quân sự khống chế ở châu Á. Như một quan sát viên ghi nhận, mối nguy trong sự trỗi dậy của Trung Quốc với hình ảnh như một người khổng lồ kinh tế thân thiện, là các quốc gia trong khu vực có thể “để quyền lợi của họ bị lệ thuộc vào quyền lợi của Trung Quốc và mất đi phản xạ hướng về Hoa Kỳ mỗi khi cần tìm kiếm giải pháp khu vực.” [11]

Trong việc nêu lên vấn đề chủ nghĩa khu vực đang gia tăng ở Đông Á, có hai câu hỏi căn bản phải đặt ra trước hết: (1) viễn kiến của Hoa Kỳ về châu Á và chủ nghĩa khu vực ở châu Á như thế nào, và (2) liệu chủ nghĩa khu vực ở châu Á có đe dọa quyền lợi và mục tiêu của Hoa Kỳ, đặc biệt đối với Trung Quốc không?


Các viễn kiến cho Đông Á

Hiện thời, nhiều viễn kiến cho Đông Á đang đua nhau về sức kéo khi những cọng mì nở ra trong tô mì các phối trí an ninh và mậu dịch ở Đông Á. Viễn kiến của Hoa Kỳ khởi đầu từ vị thế là một quốc gia vượt trội trong vai trò một người gìn giữ hòa bình, một nguồn suối cho sự thịnh vượng kinh tế, một người chủ trương thị trường mở, lẫn một kiểu mẫu cho các giá trị chính trị, văn hóa, và xã hội. Hoa Kỳ chia sẻ vị trí lãnh đạo với các quốc gia và các thiết chế khác, nhưng nó luôn đòi một ghế tại những hội nghị sẽ đưa ra các quyết định có ảnh hưởng tới quyền lợi của nó ở Đông Á. Những mục tiêu của Hoa Kỳ gồm có: ngăn ngừa bất kỳ một quyền lực đơn nhất nào ngoài mình có thể chế ngự châu Á; duy trì hòa bình và ổn định thông qua sự kết hợp giữa sự hiện diện trực tiếp và liên minh quân sự, các sáng kiến ngoại giao, và sự liên thuộc kinh tế; và để mở rộng đường vào thị trường cho các nhà xuất khẩu và các công ty Hoa Kỳ thông qua Tổ chức Mậu dịch Thế giới, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương, và các thỏa ước mậu dịch tự do cùng những thỏa ước khác.

Viễn kiến Đông Á của Trung Quốc là thiết lập vị trí một cường quốc lãnh đạo ở khu vực đó cho mình, và xây dựng vị thế trong cộng đồng các quốc gia trên thế giới tương xứng với vị trí của mình là một trong năm thành viên vĩnh viễn của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc với dân số chiếm tới một phần sáu nhân loại toàn cầu. Trung Quốc coi sự suy thoái của Hoa Kỳ là hệ quả của sự trỗi dậy của mình [12] và tìm cách thay thế Nhật Bản làm đầu đàn kinh tế của Đông Á. Chiến lược của Trung Quốc là duy trì các điều kiện thuận lợi để tiếp tục quá trình hiện đại hóa đất nước, đồng thời kiềm chế sự liên tưởng rằng sự trỗi dậy của nó đe dọa quyền lợi của các nước khác. Trung Quốc cần hòa bình và ổn định trong khu vực để tăng trưởng và giải quyết nhiều vấn đề xã hội, chính trị, và kinh tế. Bắc Kinh nhìn nhận rằng Hoa Kỳ có lẽ là cường quốc duy nhất có thể cản phá được các kế hoạch nhằm thâu tóm Đài Loan về dưới quyền kiểm soát, hoặc có thể áp đặt một hệ thống cấm vận kinh tế làm thui chột sự trỗi dậy về kinh tế - và quân sự - của mình. Trung Quốc ưa thích một tổ chức khu vực dành riêng cho các quốc gia Đông Á hơn, qua đó cho phép nó nắm lấy vị trí dẫn đầu và đặt Hoa Kỳ và Nhật Bản trong các vai trò hạng hai. Đỉnh cao trong viễn kiến của Trung Quốc là một khu vực mà trong đó các quốc gia tôn trọng cái mà Trung Quốc coi là sự toàn vẹn lãnh thổ (kể cả tuyên bố về chủ quyền đối với Đài Loan), khai thông dòng chảy thương mại và đầu tư cần thiết để duy trì tốc độ tăng trưởng cao của nó, và không can thiệp vào những gì nó coi là chuyện nội bộ của mình.

Viễn kiến Đông Á của Nhật Bản là một viễn cảnh trong đó Hoa Kỳ tiếp tục cung cấp lá chắn hạt nhân cho khu vực, và Tokyo dựa vào sức mạnh kinh tế của nó để thực hiện vai trò lãnh đạo. Nó tìm cách trở thành một quốc gia “bình thường,” không còn một dấu vết nào của thất bại của nó trong Thế Chiến II, đặc biệt sự hạn chế về quân sự đang được tự duy trì. Nhật Bản có lẽ muốn chôn vùi lịch sử Thế Chiến II của nó và muốn được coi như một quốc gia hiền hòa và một động lực cải tiến ở châu Á thông qua tiến bộ kinh tế. Trước khi có sự trỗi dậy của Trung Quốc, Nhật Bản đã phác ra hình ảnh về các quốc gia ở Đông Á như đang bay trong đội hình thiên di của một đàn ngỗng trời, trong đó Nhật Bản đóng vai ngỗng đầu đàn. Tokyo giờ đây thừa nhận Bắc Kinh đang nhanh chóng nhận lấy vai trò lãnh đạo ở châu Á, và Trung Quốc đang trở thành một trọng tâm của hoạt động mậu dịch và đầu tư. Nhật Bản, tuy nhiên, vẫn muốn duy trì một vị trí lãnh đạo ở châu Á, chấp nhận sự trỗi dậy của Trung Quốc nhưng không chịu lép vế, và tiếp tục ở tuyến đầu trong các hoạt động tài chính và kinh tế. Nhật Bản đang cố xây dựng hình ảnh một quốc gia tân tiến lành mạnh bằng chính tư cách của nó, chứ không phải là một phiên bản của Hoa Kỳ ở Đông Á.

Viễn kiến Đông Á của ASEAN là phát triển một đối trọng với Liên Âu và NAFTA (và có lẽ với cả NATO nữa), trong đó ASEAN đóng vai trò một nhà tổ chức xuất sắc đối với các thiết chế khu vực và cung cấp địa điểm cho các cuộc họp. ASEAN cũng đang tìm một đối trọng với Trung Quốc trong khu vực và, nhìn chung, dung nạp rộng rãi hơn, khi cho phép các quốc gia, như Úc và Ấn Độ, tham dự trong các tổ chức khu vực. Indonesia có truyền thống là quốc gia lãnh đạo trong ASEAN, nhưng hiện giờ Thái Lan và Malaysia cùng với Singapore cũng ganh đua cho vị trí lãnh đạo. ASEAN dựa vào mô thức tiếp xúc của châu Âu để gây ảnh hưởng và tạo điều kiện cho các thay đổi trong các quốc gia như Miến Điện và Lào. Những mục tiêu căn bản của ASEAN là phải đạt được hòa bình hợp tác và thịnh vượng chung, và nó coi mình như một động lực chính trong việc phát triển một mô hình quan hệ có tính xây dựng và khả đoán hơn giữa các quốc gia trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương. [13]

Viễn kiến Đông Á của Nam Hàn là làm cho quốc gia này trở thành một đầu mối cho các hoạt động kinh tế [14] và bảo đảm được an ninh ở mức độ cao hơn bằng cách tiếp xúc với Bắc Hàn và theo đuổi các quan hệ gần gũi hơn với Trung Quốc và các quốc gia ASEAN. Nam Hàn cũng lệ thuộc nặng nề vào Hoa Kỳ để duy trì an ninh ở bán đảo Triều Tiên lẫn trong khu vực. Nam Hàn đang tìm cách trở thành một cường quốc xuất khẩu có thể sử dụng được sức lao động của Bắc Hàn và Trung Quốc, tự phát triển được công nghệ cao, và duy trì khả năng cạnh tranh cao trong thị trường toàn cầu của các công ty quốc gia hàng đầu.

Viễn kiến Đông Á của Đài Loan là tồn tại và xoay trở xung quanh vấn đề liệu nó có thể duy trì được sự độc lập trên thực tế của mình trong khi khéo léo xử lý các mối quan hệ của nó với PRC hay không. Nó công nhận vai trò hàng đầu của Hoa Kỳ trong việc duy trì an ninh trong khu vực. Vì Trung Quốc đã vận động để bảo đảm được rằng Đài Loan bị cấm cửa trong các tổ chức khu vực (ngoại trừ APEC), Đài Loan theo đuổi các thỏa ước mậu dịch song phương và các tổ chức có thành phần thành viên rộng rãi như WTO và Liên Hợp Quốc.

Úc và Tân Tây Lan bị giằng kéo giữa nguồn gốc châu Âu và sự cận kề địa lý với châu Á. Bởi vì họ kinh doanh chủ yếu với các quốc gia Đông Á và có các quyền lợi an ninh sâu sắc ở đó, họ ủng hộ các tổ chức khu vực bao gồm chính mình và các quốc gia khác. Úc có công trong việc bảo đảm được rằng APEC phải bao gồm toàn bộ khu vực Á Châu Thái Bình Dương và luôn cả Hoa Kỳ. Úc ủng hộ việc Hoa Kỳ đóng một vai trò tích cực ở châu Á. Nó luôn có nguy cơ bị loại trừ khỏi các tổ chức châu Á vì nguồn gốc Celtic và Anglo-Saxon của mình, dù cho các cuộc tranh cãi về căn cước Đông Á cũng phân loại các dân tộc dựa theo tôn giáo chính hơn là theo nguồn gốc chủng tộc. Úc và Tân Tây Lan tiếp tục tiếp cận Trung Quốc và công nhận họ phải đương đầu với những thách thức trong việc duy trì quan hệ gần gũi với Hoa Kỳ. Úc, đặc biệt, đã trở thành mục tiêu của khủng bố Hồi giáo cực đoan, đã làm hàng xóm Indonesia của mình khó chịu khi tham dự trong chiến tranh Iraq và ủng hộ sự độc lập của Đông Timor, và bị Trung Quốc coi như một phần của trục Úc-Nam Hàn-Nhật-Hoa Kỳ có thể được sử dụng để bao vây Trung Quốc trong hải phận Đông Á khi cần. [15]

Bảng tóm tắt các viễn kiến Đông Á này chỉ ra rằng viễn kiến của Hoa Kỳ về cơ bản tương thích với viễn kiến của Nhật Bản, Nam Hàn, phần lớn ASEAN, và Úc/Tân Tây Lan. Tất cả đều công nhận rằng một trật tự đa cực đang phát triển ở Đông Á, không chỉ với sự trỗi dậy của Trung Quốc, mà còn có một Nhật Bản bình thường hơn, một nước Nga có đang phục hồi, và một Ấn Độ phát triển nhanh chóng. Có sự xung đột giữa viễn kiến của Trung Quốc và Hoa Kỳ liên quan tới quốc gia nào sẽ là một cường quốc vượt trội ở châu Á. Sự trỗi dậy của Trung Quốc như một cỗ xe tăng về kinh tế cũng có thể được lặp lại trong lĩnh vực an ninh và chính trị.

Viễn kiến của Hoa Kỳ cũng xung đột với viễn kiến của Trung Quốc (và từng có với Mã Lai) về nguyên tắc loại trừ: Hoa Kỳ có thể tham dự như một thành viên hay như một quan sát viên hoặc liệu sự tham dự của Hoa Kỳ chỉ có thể được đại diên qua một thế bản hay không. Theo định nghĩa, các cuộc họp ASEAN + 3 không bao gồm Hoa Kỳ. Hoa Kỳ có thể gia nhập Thượng đỉnh Đông Á. Hoa Kỳ (cùng với Liên Âu và Canada) tham dự trong diễn đàn khu vực ASEAN. Hoa Kỳ, cùng với Canada, Mexico, Peru, và Chile là thành viên của APEC. Đề xuất FTA 16 quốc gia Đông Á do Nhật Bản khởi xướng có lẽ loại trừ Hoa Kỳ.

Đối với trường hợp của Hội nghị Kinh tế Đông Á (EAEC) rất hẹp hòi về thành phần tham dự do Thủ tướng Mã Lai Mahathir Mohamad đề xướng trong năm 1990, chính sách của Hoa Kỳ là giữ hai tuyến. Tuyến thứ nhất là phản đối sự thành lập Hội nghị thông qua phương tiện ngoại giao và các phương tiện khác. Tuyến thứ hai là liên kết với Úc trong việc thúc đẩy cho APEC, một tổ chức dung nạp rộng hơn. Với cái đà của chủ nghĩa khu vực đang gia tăng ở Đông Á và trên thế giới, có vẻ việc phản đối khuynh hướng chủ nghĩa khu vực sẽ trở nên vừa không thiết thực, vừa vô ích. Yếu tố quan trọng, theo một số người, là bảo đảm được rằng quyền lợi Hoa Kỳ được bảo vệ và được đại diện một cách thích đáng, và kết nối được với các phối trí mậu dịch tự do thông qua các thỏa ước song phương và các thỏa ước FTA khác.


Chủ nghĩa Khu vực Á Châu và quyền lợi Hoa Kỳ

Quyền lợi kinh tế. Liên quan đến quyền lợi của Hoa Kỳ ở Đông Á, các thỏa ước mậu dịch khu vực mới dường như không đe dọa những quyền lợi kinh tế sống còn của Hoa Kỳ. Như một viên chức bộ Ngoại giao nói về nó, không cần thiết cho Hoa Kỳ “có mặt ở mọi nơi và mọi cuộc thảo luận mà các nước châu Á có với nhau.” Hoa Kỳ, tuy nhiên, thực muốn “bảo đảm khả năng cao nhất để duy trì quan hệ của Hoa Kỳ trong khu vực.” Hoa Kỳ cũng giữ quan điểm rằng môi trường kinh tế và chiến lược để châu Á có thể phát triển hiệu quả nhất những thành quả đã thu được, là thông qua sự cộng tác và các thiết chế xuyên Thái Bình Dương. Nói cách khác, Hoa Kỳ muốn các thiết chế châu Á vươn qua Thái Bình Dương hơn là dừng lại ở đường phân cách ngày đêm quốc tế ở giữa Thái Bình Dương. Hoa Kỳ cũng hướng về các kết cấu đa phương ở khu vực Á Châu-Thái Bình Dương có tác dụng củng cố những quan hệ đối tác hiện có, đặc biệt là các thỏa ước mậu dịch tự do và liên minh an ninh song phương với các quốc gia Đông Á. [16]

FTA ASEAN và nhiều FTA song phương có thể dẫn tới sự chuyển hướng phần nào dòng chảy mậu dịch và đầu tư của Hoa Kỳ, nhưng chỉ trong chừng mực, và cũng có ý nghĩa biểu thị sự tự do hóa thực sự của các dòng chảy mậu dịch và đầu tư. Và chừng nào mà Hoa Kỳ tiếp tục đóng dấu các thỏa ước FTA song phương với các quốc gia châu Á, chúng dường như không gây ra những tác động xấu đối với các nhà xuất khẩu Hoa Kỳ và quyền lợi kinh doanh ở đó. Có vài quan ngại rằng sự gia tăng nhanh chóng của các FTA song phương và khu vực sẽ làm lạc hướng các đàm phán đa phương theo WTO. Trong khi quan ngại đó có thực, xét những khúc mắc với Vòng Đàm phán Doha và sự sụp đổ của nó hồi giữa năm 2006, khả năng ngược lại cũng có thể xảy ra. Theo quan điểm này, các FTA đại diện cho tiến bộ thực sự trong tự do hóa mậu dịch và vai trò như một giải pháp dự bị nếu tự do hóa thương mại theo WTO thất bại.

Vấn đề tô mì của các thỏa ước đa phương, tất cả được đan xen với nhau nhưng mỗi cái lại có các điều khoản khác nhau, về thực chất có thể gây cản trở nhiều hơn là tạo điều kiện cho mậu dịch, do sự gia tăng chi phí giao dịch cho các doanh nghiệp. Việc tính toán các nguyên tắc phức tạp về nguồn gốc sản phẩm với các bộ phận từ nhiều quốc gia, mỗi nước lại có một tỷ suất thuế quan và thời hạn hạ thấp thuế quan mỗi khác, có thể rất tốn kém và phiền toái. Lối tiếp cận của Hoa Kỳ là phải có một biểu mẫu “tiêu chuẩn vàng” để quy mức giảm tương đương đối với mọi loại thuế quan và xử trí các rào cản tương tác kinh tế khác, ví dụ như tự do hóa dòng chảy đầu tư, buộc tuân thủ quyền sở hữu trí tuệ, và mở rộng lối vào cho những nhà cung cấp dịch vụ. Kết cục, bảng “tiêu chuẩn vàng” này có thể được dùng làm cơ sở cho các FTA khu vực, bao gồm luôn cả Hoa Kỳ. Tuy nhiên, sự kiên định của Hoa Kỳ đối với “tiêu chuẩn vàng” này, có thể gây phản cảm vì Hoa Kỳ luôn bị coi là can thiệp quá sâu trong việc đòi hỏi cải tổ các FTA. Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương, tuy nhiên, cũng đang xây dựng các biện pháp kiểu mẫu và kinh nghiệm thực tiễn tốt nhất cho những FTA, nhằm tiêu chuẩn hóa các thỏa ước.

Một trở ngại với bất kỳ sự tự do hoá mậu dịch và đầu tư nào là trong mỗi nền kinh tế sẽ có kẻ thắng và người thua. Các khu vực thua thiệt tiêu biểu là nông nghiệp và dệt may. Trong hầu hết các quốc gia Á Châu Thái Bình Dương, gồm luôn cả Hoa Kỳ, những ngành này hoặc được bảo vệ trong chừng mực nào đó và/hoặc được trợ cấp cao độ (đặc biệt là nông nghiệp). Sự gia tăng nhanh các FTA đe dọa sự sống còn kinh tế của các khu vực này, bởi vì các FTA dỡ bỏ sự bảo hộ, cho dù mỗi FTA sẽ có các khung thời gian điều chỉnh và những ngoại lệ.

Quyền lợi an ninh. Sự phát triển các thỏa ước an ninh khu vực ở Đông Á có thể có những tác động nhiều chiều đến quyền lợi an ninh của Hoa Kỳ. Ở khía cạnh những thỏa ước này khuyến khích tìm giải pháp hòa bình cho các xung đột, chúng tương thích với các mục tiêu của Hoa Kỳ về ổn định và duy trì các quan hệ đồng minh trong khu vực này. Tuy nhiên, cũng có thể có một số tác động tiêu cực. Chúng có thể dẫn tới các phối trí an ninh và chính trị mà trong đó Bắc Kinh có ảnh hưởng lớn và Bắc Kinh có thể dẫn dắt theo những mục đích trái ngược với Hoa Kỳ. Chúng cũng đặt ra những yêu cầu về việc cần cân nhắc sâu xa hơn về vai trò của lực lượng Hoa Kỳ đóng ở Nhật Bản và Nam Hàn. Khi dân chúng châu Á coi rằng các mối đe dọa từ bên ngoài đối với các quốc gia của họ đã giảm đi vì các quan hệ an ninh khu vực đã có tính hợp tác, họ có thể đặt câu hỏi về mức độ cần thiết của việc tiếp tục hỗ trợ cho từng ấy quân nhân Hoa Kỳ đồn trú trên quê hương mình. Cảm xúc này thường được phản ảnh trong cái gọi là sự trỗi dậy của chủ nghĩa quốc gia và có thể có dạng những cuộc biểu tình phản đối các hành động của binh lính Hoa Kỳ, sự chống đối các hoạt động tại căn cứ quân sự, và áp lực nghị viện để giảm chi phí ngân sách của nước chủ nhà hỗ trợ cho quân đội Hoa Kỳ.

Trung Quốc đã thực hiện một lối tiếp cận kép với Đông Á khi vừa làm việc qua ASEAN [17] vừa ký các thỏa ước với từng quốc gia thành viên. Hoa Kỳ chú trọng hơn đến các thỏa ước song phương. Năm trong số bảy hiệp ước phòng thủ chung của Hoa Kỳ trên toàn thế giới là với các quốc gia Á Châu Thái Bình Dương. [18]

Tư cách thành viên trong các tổ chức khu vực có thể có một “tác động Liên Âu” trong việc giảm bớt căng thẳng, buộc Trung Quốc ôn hòa hơn, khuyến khích đối thoại, và tìm kiếm các giải pháp hòa bình đối với các vấn đề an ninh. Kiến trúc khu vực đang thành hình có thể có tác dụng làm “hạ hỏa” sự thái quá của chính quyền Trung Quốc và biến nó thành một cổ đông có trách nhiệm hơn trong các vấn đề khu vực. Thí dụ, Trung Quốc đã hợp tác với Hoa Kỳ trong việc chống khủng bố Hồi giáo cực đoan (mặc dù lợi ích đối nội của chính quốc gia này có nguy cơ bị ảnh hưởng), thực hiện vai trò chủ nhà và “người chấp bút” để thảo ra bản Tuyên bố Chung tại hội thoại sáu bên 2005, và ngừng tuyên bố chủ quyền một cách áp đặt đối với vùng lãnh thổ đang tranh với các quốc gia Đông Nam Á ở biển Đông (như quần đảo Trường Sa). Trung Quốc vẫn có những tranh chấp ra mặt với Nhật Bản, một quốc gia mà nó đã cố trì hoãn không thiết lập các quan hệ kinh tế ưu đãi hoặc an ninh song phương. Hơn thế nữa, trong một số dịp, Bắc Kinh đã sử dụng các hội nghị khu vực để làm trầm trọng thêm các vấn đề với Nhật Bản. Tại hội nghị lãnh đạo APEC năm 2005, Trung Quốc từ chối tổ chức một cuộc họp thượng đỉnh song phương với Nhật Bản và làm rộng thêm khoảng cách giữa họ. Tuy thế tại cuộc họp cấp bộ trưởng ASEAN tháng Bảy 2006, các bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc và Nhật Bản đã gặp và phần nào thu hẹp lại khoảng cách đó.

Có thể nói rằng không ai biết chắc chắn liệu Trung Quốc có trở thành một mối đe dọa quân sự trong trương lai hay không, và các mối quan hệ và tương tác trong khu vực sẽ có tác động ra sao. Tuy nhiên, rõ ràng là các chiến lược gia quân sự Trung Quốc xác định “đại chiến lược” theo nghĩa rộng. Họ theo đuổi “đại chiến lược” của mình bằng các sử dụng toàn lực quốc gia để đạt được các mục tiêu chính trị, nhất là những mục tiêu liên quan tới an ninh quốc gia và phát triển. Nói cách khác, chiến lược của Trung Quốc, theo định nghĩa của họ, là chiến lược duy trì sự cân bằng giữa các mối ưu tiên trái ngược nhau để phát triển kinh tế quốc gia và duy trì an ninh theo nghĩa tạo một môi trường thuận lợi cho sự phát triển. Bắc Kinh sử dụng khái niệm “sức mạnh tổng thể của quốc gia” để đánh giá và đo lường vị thế của mình trong quan hệ với các quốc gia khác. Điều này bao gồm sự đo lường về cả phẩm và lượng đối với lãnh thổ, tài nguyên thiên nhiên, sức mạnh kinh tế, ảnh hưởng ngoại giao, chính quyền nội địa, năng lực quân sự, và ảnh hưởng văn hóa. Các phối trí an ninh và mậu dịch khu vực ở Đông Á có thể hậu thuẫn Trung Quốc trong phát triển sức mạnh kinh tế, ảnh hưởng ngoại giao, và sự lan tỏa văn hóa của nó. Sức mạnh kinh tế cũng có thể dẫn tới nâng cao năng lực quân sự và có thể tạo ra hậu thuẫn cho Đảng Cộng sản đang nắm quyền và duy trì quyền hành nội bộ của nó. Theo nghĩa này, các phối trí an ninh và mậu dịch gia tăng nhanh ở Đông Á có thể đóng góp cho sức mạnh quốc gia tổng thể của Trung Quốc, [19] nhưng liệu các phối trí khu vực có đồng thời hạn chế nguy cơ sử dụng bừa bãi sức mạnh đó được hay không, tại thời điểm này chưa thể xác định được.

Một vấn đề liên quan tới an ninh lâu dài khác đối với Hoa Kỳ ở châu Á là sự trỗi dậy của chủ nghĩa quốc gia ở Nhật Bản, Nam Hàn, Mã Lai, Thái Lan, Indonesia, Phi Luật Tân, và các quốc gia Á châu khác. Những quốc gia này có vẻ đang gia tăng sự bất mãn vì bị khống chế bởi các cường quốc từ bên ngoài, dù cho đó là Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nga hay các lân bang đôi khi thù nghịch của họ. Chẳng hạn như ở Nhật Bản và Nam Hàn, dù phần lớn chấp nhận sự lệ thuộc của họ về an ninh trong quan hệ đồng minh quân sự với Hoa Kỳ, nhiều thành phần ưu tú trong chính phủ và một bộ phận công chúng ngày càng nhiều trong thời gian gần đây đã kêu gọi cho sự độc lập hơn trong hành động và cho các chính sách của chính phủ đi sát hơn quyền lợi của quốc gia, chớ không phải của Hoa Kỳ. Hệ thống giá trị của nền dân chủ tự do, mậu dịch tự do, và nhân quyền, được hỗ trợ bởi sức ép can thiệp và phủ đầu thường trực từ sự có mặt của quân đội Hoa Kỳ cũng dường như đang yếu dần ở nhiều quốc gia châu Á. Không có sự thù ghét Hoa Kỳ vốn thường thấy ở Trung Đông, nhưng các quốc gia Đông Á thường thấy khó chịu dưới sức nặng của bá quyền Hoa Kỳ và cảm giác về một thế giới đơn cực và suy đoán về tác động của tình trạng này đối với sự độc lập trong hành động và những điều được coi như các giá trị truyền thống của họ. [20] Ví dụ, trong tháng Sáu 2006, khảo sát Pew về thái độ đối với Hoa Kỳ, hình ảnh toàn cầu của Hoa Kỳ một lần nữa tụt dốc. Từ 1999/2000 tới 2006, hình ảnh của Mỹ (những người có quan điểm ưa thích Hoa Kỳ) đã giảm một cách đáng kể ở Indonesia (từ 75% xuống 36%) và ở Nhật Bản (77% xuống 63%). [21]

Hoa Kỳ cũng thường bị lên án vì những trục trặc gây ra bởi toàn cầu hóa [22] và sự chênh lệch thu nhập đang tăng lên cả trong nội bộ một nước lẫn giữa các quốc gia khác nhau. Theo giải thích của một phân tích gia, người Mỹ ngày nay bị coi như một thiểu số thống trị thị trường trên thế giới, nắm giữ một sức mạnh kinh tế quá bất cân xứng so với dân số của mình. Như thế, Hoa Kỳ cũng trở thành đối tượng của một dạng tâm lý bất mãn đại chúng như giới tài phiệt trên toàn thế giới (ví dụ những Hoa kiều ở Đông Nam Á). [23] Không rõ sự phát triển kiến trúc khu vực ở Đông Á sẽ làm tăng thêm hay sẽ cải thiện cảm tâm lý chống Mỹ và quốc gia chủ nghĩa đang gia tăng ở châu Á, nhưng các tổ chức không có sự tham dự trực tiếp của Hoa Kỳ sẽ cung cấp những đại lộ cho vai trò lãnh đạo và giá trị châu Á được trình diễn, đặc biệt là tiến trình xây dựng đồng thuận.

Một tổ chức an ninh khu vực mạnh hơn ở Đông Á có thể đóng một vai trò kiềm chế nguy cơ khủng bố từ các nhóm cực đoan bạo động. Vì khủng bố là một vấn đề xuyên quốc gia, Hoa Kỳ phải dựa vào sự hợp tác quốc tế để chống lại nó. Thiếu sự hợp tác đa phương chặt chẽ, sẽ tạo nên nhiều kẽ hở và phương tiện cho những kẻ cực đoan bạo động dễ dàng khai thác. [24] Hiện giờ, phần lớn các mối quan hệ hợp tác đó là song phương.

Trong khi đó, căng thẳng tiếp tục ở hai bên eo biển Đài Loan, tranh chấp về quyền khoan dầu và lãnh thổ lóe lên giữa Trung Quốc và Nhật Bản, và giữa Nhật Bản và Nam Hàn. (Hoa Kỳ nhìn nhận có một khả năng đang gia tăng về xung đột lãnh thổ xuất phát từ tinh thần dân tộc giữa hai hay nhiều đồng minh của mình. [25] ) Vấn đề vũ khí hạt nhân Bắc Hàn vẫn chưa được giải quyết; Bắc Hàn đã tiến hành các vụ thử hỏa tiễn; và nền cai trị quân sự áp bức ở Miến Điện vẫn còn đó. Cộng thêm với những quan ngại này là nhiều vấn đề khác của khu vực: bệnh tật (như cúm gia cầm, SARS, và AIDS), sự xuống cấp của môi trường, phòng chống thiên tai, cướp biển ngoài khơi, và sự leo thang quân bị. Ký ức về khủng hoảng tài chính châu Á 1997-99 vẫn còn ám ảnh các nhà làm chính sách ở các quốc gia châu Á.

Trên đây là một số quyền lợi và vấn đề chính sẽ gặp phải khi Hoa Kỳ triển khai chính sách hướng tới một kiến trúc khu vực ở Đông Á. Vì chính sách này nhắm vào kết cấu lâu dài của các quốc gia Đông Á, nó có thể bị tách rời, phần nào, khỏi những vấn đề thúc ép hiện thời. Tuy nhiên, thước đo để đánh giá bất kỳ một kiến trúc nào, là mức độ đóng góp của nó vào một giải pháp cho các vấn đề đang tồn tại hoặc có thể phát sinh trong tương lai.


Những lựa chọn về chính sách

Đối với Hoa Kỳ, có thể lựa chọn những chính sách sau: (1) Tách khỏi Sự Kiến tạo Thiết chế ở châu Á, (2) tiếp tục chính sách hiện tại của chính phủ Bush, và (3) tham gia tích cực hơn vào các thiết chế đang tồn tại, đặc biệt ở Đông Nam Á, và thúc đẩy cho một tổ chức khu vực mới cho Đông Bắc Á.


Tách khỏi sự kiến tạo thiết chế khu vực ở Á Châu

Một giải pháp về chính sách là tách khỏi sự tham dự trực tiếp trong các đàm phán về thiết chế an ninh và kinh tế ở châu Á và để cho các quốc gia châu Á tự quyết định lấy kiến trúc của chính họ. Hoa Kỳ đã là một thành viên của APEC và Diễn đàn Khu vực ASEAN cũng như các cuộc hội thoại sáu bên ở Bắc Hàn. Hoa Kỳ dựa vào hệ thống nan hoa của các liên minh quân sự và chủ động bố trí quân đội trước để bảo vệ quyền lợi an ninh của mình. Nhiều người cảm thấy rằng đằng nào thì các tổ chức khu vực cũng có khuynh hướng trở thành các “sân khấu hùng biện” mà thôi. Hoa Kỳ có thể tách khỏi quá trình kiến tạo thiết chế khu vực mà không rút khỏi các liên hệ an ninh và kinh tế với châu Á. Hiện thời chưa thấy xuất hiện những tiếng nói đại diện cho một nhóm đông đảo ủng hộ hướng lựa chọn này ở Hoa Kỳ.

Về mặt kinh tế, tuy nhiên, đang có sự tranh cãi dữ dội về tác động và hiệu quả của các thỏa ước mậu dịch tự do. Những ý kiến phản đối việc ký kết thêm FTA đang gia tăng ở Quốc Hội, cho dù chính Quốc Hội đã tán đồng FTA Hoa Kỳ - Oman và Thỏa ước Thăng tiến Mậu dịch Hoa Kỳ-Peru. [26] Tuy nhiên, cũng có những quan ngại chính đáng liên quan tới các vấn đề như thâm hụt mậu dịch lớn lao của Hoa Kỳ, việc làm bị chuyển ra nước ngoài, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, và điều kiện môi trường và lao động ở các quốc gia khác. Cuộc tranh cãi ở Hoa Kỳ về các FTA tương lai có vẻ xuất phát từ hai bên có quyền lợi trong nội bộ nước Mỹ, phản đối hoặc ủng hộ việc tăng cường tự do hóa mậu dịch, hơn là về các tác động ngoại giao và địa - chính trị từ việc thắt chặt các mối liên hệ kinh tế với các quốc gia khác. Sự hình thành một FTA APEC bao gồm 21 quốc gia, kể cả Hoa Kỳ, dường như vẫn xa vời.

Một FTA Đông Á hoặc FTA ASEAN + 3 có thể chuyển hướng mậu dịch khỏi thị trường Hoa Kỳ, nhưng Hoa Kỳ có thể tiếp tục đàm phán các FTA song phương với những quốc gia nằm trong bất kỳ phối trí mậu dịch khu vực nào ở châu Á. Một hệ thống của các FTA song phương và các liên minh an ninh tỏa ra từ Hoa Kỳ như một trục moay-ơ có thể cho phép chọc những nan hoa vào trong nhiều tổ chức khu vực châu Á khác nhau đang tồn tại hoặc được dự kiến thành lập. Tuy thế, Hoa Kỳ có thể sử dụng ảnh hưởng của nó để làm nguội đi nhiệt tình đối với các tổ chức khu vực mới ở châu Á, hay Washington có thể để những quốc gia châu Á đánh vật với nhau để xác định quy mô, hình dạng, và phạm vi của bất kỳ thiết chế mới nào.

Một mối nguy về phương diện an ninh nếu tách khỏi quá trình kiến tạo thiết chế là các quốc gia châu Á có thể coi đó như một bằng chứng là Hoa Kỳ đang bị hút vào Trung Đông và không còn quan tâm tới châu Á nữa. Việc tách ra cũng mở đường cho Trung Quốc nhận lấy vai trò lãnh đạo và có thể lái các thiết chế này theo những đường hướng bất lợi cho Hoa Kỳ.


Tiếp tục chính sách hợp tác hiện thời

Một lựa chọn khác là tiếp tục chính sách hợp tác hiện thời vào quá trình kiến tạo thiết chế ở châu Á như Chính phủ Bush và Quốc Hội đang theo đuổi. Chính sách này bao gồm việc tìm kiếm các FTA song phương, một FTA tương lai với ASEAN, tăng cường Diễn đàn Khu vực ASEAN và Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương, triệu tập các cuộc thảo luận về thiết lập một Diễn đàn An ninh cho khu vực Đông Bắc Á, và duy trì các quan hệ liên minh chiến lược đang có với một số quốc gia trong khu vực.

Chính sách hiện thời của Hoa Kỳ tiến hóa từ các điều kiện lịch sử và thông qua sự vận động của các lực lượng kinh tế, quân sự, và chính trị nhằm tác động đến quá trình ra quyết định và tạo cơ hội cho các nhà lãnh đạo đặt dấu ấn tính cách của mình lên dàn hợp xướng của các quan hệ đối ngoại. Chiến lược hiện tại của Hoa Kỳ đối với Đông Á dường như được đặt trên hai yếu tố cơ bản. Yếu tố đầu là sự thực hiển nhiên rằng khu vực Trung Đông đang được ưu tiên nhiều hơn Châu Á. Nguồn nhân lực, vật lực Hoa Kỳ có thể dành cho các vấn đề ở Đông Á bị hạn chế bởi các cam kết ở Iraq và Afghanistan và cuộc chiến chống khủng bố.

Yếu tố thứ hai dường như là, trước mắt khu vực Đông Á chỉ có thể có được hòa bình và thịnh vượng nếu Hoa Kỳ duy trì một sự hiện diện chính trị và quân sự mạnh mẽ trong khu vực, và về lâu dài, chỉ khi các quốc gia ở đó có được những hệ thống kinh tế và chính trị cho phép hướng tham vọng của con người vào các nỗ lực hòa bình và có tính xây dựng. Sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ ở Đông Á căn cứ trên một loạt các hiệp ước liên minh. Đến nay, một số trong các hiệp ước này đã đến lúc cần có một sự điều chỉnh lớn, nhưng chúng vẫn tạo thành nền đá tảng của an ninh của Hoa Kỳ ở châu Á. [27]

Đối với sự trỗi dậy của Trung Quốc, dường như chính sách hiện tại của Hoa Kỳ là hợp tác với Trung Quốc, nhưng đồng thời cũng tìm cách hạn chế các hoạt động có nguy cơ xâm hại tới quyền lợi an ninh hay kinh tế của Hoa Kỳ. Ở đây có cả hai yếu tố “lý tưởng” lẫn “thực tiễn”. Những kế hoạch quân sự của Lầu Năm góc, do nhu cầu, thường có khuynh hướng dựa trên sự sức mạnh và đe dọa, và được hoạch định trên tính thực tế, lấy chủ nghĩa thực tế làm lăng kính thế giới quan. Nó cân nhắc và chuẩn bị cho nhiều tình huống khác nhau, bao gồm cả “trường hợp xấu nhất” để bảo đảm quyền lợi an ninh của Hoa Kỳ. Các chính sách này nhấn mạnh việc lập kế hoạch quân sự dự phòng, kiểm soát xuất khẩu, các quan hệ đồng minh chặt chẽ với Nhật Bản và Nam Hàn, và tăng cường tiếp xúc. [28]

Những chính sách khác của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc có khuynh hướng căn cứ trên một thế giới quan lý tưởng. Những chính sách này nhằm khuếch trương các lý tưởng của Hoa Kỳ về dân chủ, về một nền kinh tế thị trường tự do, và nhân quyền. Về lâu dài, các vấn đề chiến tranh và hòa bình sẽ tùy thuộc vào hiệu quả hoạt động của các chính quyền quốc gia. Theo quan điểm này, những điều kiện thuận lợi để có hòa bình sẽ được tạo ra chủ yếu qua các hệ thống chính trị từ những quốc gia có các thiết chế dân chủ mạnh mẽ và các hệ thống kinh tế sống động và hướng ra thị trường với các cơ hội đầu tư và mậu dịch tự do. Những hệ thống kinh tế như vậy hỗ trợ cho một tầng lớp trung lưu có kiến thức để từ đó hình thành nền tảng cho xã hội dân chủ. Khả năng sử dụng các phương tiện bạo lực (để đạt mục tiêu) ở một xã hội dân chủ sẽ thấp hơn nhiều so với một nhà nước độc tài. Một đất nước không có một nền kinh tế có sức sống và một chính phủ có tính đại diện và hoạt động hiệu quả cũng dễ bị thất bại và trở thành nơi chứa chấp cho các tổ chức khủng bố. Lý thuyết kinh tế - dân chủ - hòa bình này kêu gọi mở cửa biên giới cho ngoại thương, tự do hóa các nền kinh tế nội địa, xây dựng chính quyền có tính đại diện, thiết lập nền pháp trị với một hệ thống tư pháp để hậu thuẩn nó, và đẩy lùi tham nhũng. Đây là cơ sở chính cho các chính sách hiện thời của Hoa Kỳ về tự do hóa mậu dịch, tạo điều kiện cho Trung Quốc tham gia WTO và các thiết chế quốc tế khác, khuyến khích đối thoại ở mọi cấp, và hợp tác với Bắc Kinh trên nhiều mặt, kể cả thông qua các thiết chế khu vực.


Gia tăng các cố gắng trong khu vực

Lựa chọn thứ ba về chính sách có phần trùng với chính sách hiện thời và có tính tiệm tiến hơn là đổi hướng. Nó bao gồm việc gia tăng các nỗ lực để làm phong phú hơn, hoặc gia nhập những tổ chức hiện có và thúc đẩy mạnh hơn để hình thành một Diễn đàn Khu vực Đông Bắc Á. Hoa Kỳ trước hết có thể gia nhập Thượng đỉnh Đông Á. Nga, Ấn độ, và Úc đã ký Hiệp ước Hợp tác và Thân thiện ASEAN vốn là điều kiện để trở thành thành viên. Cho tới lúc này, Hoa Kỳ chưa ký hiệp ước này hiển nhiên vì các điều khoản của nó kêu gọi từ bỏ sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp và một cam kết không tham dự trong bất kỳ các hoạt động nào đe dọa chủ quyền, sự ổn định kinh tế và chính trị hoặc sự toàn vẹn lãnh thổ của các bên khác trong giao ước. [29] Nếu tuân thủ các cam kết như vậy, sẽ dẫn tới phủ nhận thuyết tấn công phủ đầu và làm yếu đi khả năng can thiệp dựa trên sức mạnh vũ lực.

Hoa Kỳ cũng có thể làm nhiều hơn để tái tạo thêm sức sống cho APEC. Kỳ hạn của mục tiêu Bogor về đạt được mậu dịch và đầu tư công khai và tự do giữa các quốc gia công nghiệp hóa của APEC vào năm 2010 đang đến gần. Trong khi các nhóm công tác của APEC có vẻ như đang thu được những bước tiến lớn về xúc tiến thương mại, mục tiêu lớn về thiết lập một khu vực mậu dịch tự do vắt ngang qua Thái Bình Dương - bao gồm Hoa Kỳ, Canada, Mexico, Japan, South Korea, Trung Quốc, Đài Loan, Úc, Singapore, và các thành viên APEC khác dường như không rất ít khả năng trở thành hiện thực trong vòng ba năm như đã tuyên bố trong Tuyên ngôn Bogor.

Thiếu những hành động mạnh mẽ của APEC hướng tới việc đạt được các mục tiên Bogor, Hoa Kỳ có thể thúc đẩy cho một khu vực mậu dịch tự do 16 quốc gia Á Châu được điều phối bởi một tổ chức tương tự như OECD. [30] FTA châu Á này sẽ tồn tại song song với Thượng đỉnh Đông Á, và tư cách thành viên rộng rãi của nó có lẽ có khả năng hóa giải được nguy cơ khống chế của Trung Quốc - nhất là so với một FTA ASEAN + 3.

Với đề nghị cho một FTA châu Á, thế giới công nghiệp hóa có vẻ đang phân cực thành một thế giới ba khối – ba khu vực mậu dịch tự do lớn phân bổ theo địa lý: Bắc Mỹ, Âu Châu, và Đông Á. Một FTA Đông Á đang có khả năng được hình thành sẽ ảnh hưởng ra sao tới Hoa Kỳ? Xét bài học từ quan hệ của Hoa Kỳ với Liên Âu, sự hình thành của EU như một khối mậu dịch có nghĩa là sự cân đối quyền lực kinh tế trên hai bờ Đại Tây Dương trở nên ngang bằng hơn. Thay vì Hoa Kỳ với tổng sản phẩm nội địa 12.5 ngàn tỷ đô la (14.4 ngàn tỷ đô la cho NAFTA) đàm phán với Anh quốc ($2.2 ngàn tỷ GDP) hoặc Đức ($2.8 ngàn tỷ GDP), Hoa Kỳ giờ phải đối mặt với một EU ngang sức với tổng GDP là $13.4 ngàn tỷ. Một FTA Á Châu với 16 quốc gia thành viên không chỉ bao gồm một nửa dân số thế giới mà còn có một tổng GDP kết hợp là $11.4 ngàn tỷ, lại đang tăng trưởng nhanh hơn cả Bắc Mỹ lẫn Âu Châu.

Tuy nhiên, nói một cách thực tế, tương lai về một FTA 16 quốc gia Á Châu, nếu có, cũng dường như rất xa vời. Trung Quốc và Nam Hàn thì lãnh đạm với ý tưởng này, còn Nhật Bản và Nam Hàn hiện giờ thậm chí còn không thể đồng ý về một FTA song phương với nhau, nói chi đến một FTA bao gồm cả Trung Quốc và 13 quốc gia khác. Một con đường khả dĩ hơn cho các FTA là để cho mỗi quốc gia châu Á khác hoàn tất FTA của mình với các quốc gia ASEAN, và để cho FTA ASEAN trở thành trung tâm của hệ thống trục - nan hoa của các FTA với những nan hoa (Nhật, Trung, và Ấn) có sức nặng hơn trục.

Về khía cạnh an ninh, một biện pháp khác cho chính sách của Hoa Kỳ có thể là phải triệu tập một hội nghị để tổ chức Diễn đàn Khu vực Đông Bắc Á. Các đề xuất hiện tại về tư cách thành viên là để mời những quốc gia có quyền lợi lớn ở Đông Bắc Á, như Hoa Kỳ, Nga, Trung Quốc, Nhật, Nam Hàn và Bắc Hàn. Các ứng cử viên khác có thể kết nạp là Mông Cổ, Canada, và Đài Loan (với tư cách quan sát viên). Theo đề xuất hiện tại, nhân vật tham dự diễn đàn nói trên sẽ là các bộ trưởng ngoại giao. Có thể mở rộng thành phần tham dự để bao gồm luôn cả bộ trưởng quốc phòng hoặc các vị đứng đầu nhà nước (như với APEC). Để tạo sự quan tâm và tham dự trong một tổ chức như vậy, phải đưa ra một tiêu chí là tổ chức này sẽ đi xa hơn một “cơ hội chụp hình chung và diễn thuyết.” Tổ chức này có thể đặt mục tiêu giải quyết các vấn đề cụ thể của mối quan ngại chung, những vấn đề có thể theo dõi được, góp phần củng cố lòng tin, thu hút được đông đảo các thành viên tham gia, và mang lại lợi ích tối đa từ các hành động tập thể dưới sự điều hợp chung. Diễn đàn này cũng có thể nhận lấy các vấn đề liên quan tới chương trình hạt nhân của Bắc Hàn - hiện thời là chủ đề của các cuộc hội thoại sáu bên – nhưng cũng có thể theo đuổi các vấn đề khác như tự do hóa mậu dịch, cuộc chiến chống khủng bố và tham nhũng, an ninh năng lượng, và ngăn chặn lây lan bệnh dịch. Nó cũng có thể vận động giải quyết các bất đồng liên quan tới lịch sử, ví dụ như bảo trợ cho việc viết sách giáo khoa chung về các vấn đề lịch sử nhạy cảm như là Thế Chiến II hoặc việc Nhật Bản đô hộ Đại Hàn.


Bản tiếng Việt © 2007 talawas



[1]Để tham khảo thêm về Đối Thoại Shangri-La và hội nghị 2006, coi: [http://www.iiss.org/conferences/the-shangri-la-dialogue].
[2]Để tham khảo thêm về CSCAP, coi trang web của họ ở [http://www.cscap.org].
[3]Để có bản tóm tắt về hội nghị NEACD 2006, coi [http://www.ucop.edu/research/documents/igcc_newsletter07.pdf#search=%22neacd%22].
[4]Để tham khảo thêm về USPACOM, coi [http://www.pacom.mil/about/pacom.shtml].
[5]Ressa, Maria. Đông Nam Á và mầm mống khủng bố . New York, Free Press, 2003. 254 p.
[6]Nhà Trắng. Chiến lược An ninh Quốc gia Hoa Kỳ. Tháng 3/ 2006, Tr.1.
[7]Như một chỉ dấu, Danh Mục Tự Do Kinh Tế của Heritage Foundation xếp Hồng Công, Singapore, Úc, và Tân Tây Lan là “tự do”, Nhật Bản, Nam Hàn, Cam Bốt, Mã Lai, và Thái Lan là “phần lớn được tự do”, Phi Luật Tân, Trung Quốc, Indonesia, và Việt Nam là “phần lớn không được tự do”, và Lào, Miến Điện, và Bắc Hàn là “đàn áp.” Bảng danh mục dựa trên 50 biến số độc lập được phân ra thành mười yếu tố rộng rãi của tự do kinh tế.
[8]Nhà Trắng. Văn phòng Thư ký Báo chí. Tổng thống thảo luận về Tư do và Dân chủ ở Kyoto, Japan. 16/11/2005. Và, Ts. Condoleezza Rice thảo luận về Chiến lược An ninh Quốc gia của Tổng thống, Khách sạn Waldorf Astoria, New York, NY, ngày 1/10/2002.
[9]Campbell, Kurt. Tham vọng của Trung Quốc và Tương lai châu Á. Bản ghi lại (đã biên tập) các ý kiến phát biểu tại Carnegie Council on Ethics and International Affairs, ngày 19/10/2005, xem [http://cceia.org]
[10]Viện Doanh nghiệp Hoa Kỳ. Bản tóm tắt, Trung Quốc và Phân mảng Kinh tế mới ở châu Á? Tháng 7/2005. Xem [http://www.aei.org/events/filter.all, eventID.1109/summary.asp].
[11]Kurlanzick, Joshua. Hấp lực của Trung Quốc: Những biểu hiện về một quyền lực nhu của Trung Quốc. Carnegie Endowment for International Peace Policy Brief Số 47, Tháng 6/2006.
[12]Coi, ví dụ: Qiang, Shen. Những bước tiến mới trong quan hệ đang lên giữa các cường quốc. International Strategic Studies, 3nd Issue, 2005. p.54.
[13]ASEAN. Chính trị và An ninh: Nhận xét tổng quát. Truy cập ngày 23/6/2006. [http://www.aseansec.org/92.htm].
[14]Khái niệm đầu mối được thừa nhận lần đầu như một chính sách của chính phủ Nam Hàn trong 2002. Xem Lee, Chang-jae. “Korea as Northeast Asian Business Hub: Vision and Tasks.” Korea Institute for International Economic Policy monograph, 2005.
[15]Bordonaro, Federico. Hệ thống đa cực đang lên ở châu Á nâng cao tầm quan trọng địa-chính trị của Australia. Power and Interest News Report, 14/6/2006.
[16]Michalak, Michael. (Tân Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam – talawas) Quan điểm của Hoa Kỳ về sự hội nhập khu vực ở châu Á, phát biểu tại Viện Tiền tệ Quốc tế, Tokyo, Japan, ngày 25/1/2006.
[17]Trong năm 2003, Trung Quốc ký thỏa ước đầu tiên với một tổ chức khu vực, Tuyên Bố Chung của ASEAN-Trung Quốc về Cộng Tác Chiến Lược cho Hòa Bình và Thịnh Vượng và được tiếp theo với sự gia nhập của nó trong năm 2003 vào Hiệp Ước Thân Thiện và Hợp Tác ASEAN, quốc gia không thuộc ASEAN đầu tiên làm vậy. Trong năm 2004, Trung Quốc ký một ghi nhớ về hiểu biết với ASEAN về Hợp Tác Trong Lĩnh Vực Các Vấn Đề An Ninh Không Truyền Thống và cũng hậu thuẫn Nguyên Tắc ASEAN về Xử Sự đối với Biển Nam Trung Hoa.
[18]Hoa Kỳ - Cộng Hòa Phi Luật Tân (Hiệp Ước Phòng Thủ Hỗ Tương, 1952), ANZUS (Úc – Tân Tây Lan – Hoa Kỳ, 1952), Hoa Kỳ - Cộng Hòa Đại Hàn (Hiệp Ước Phòng Thủ Hỗ Tương, 1954), Phòng Thủ Tập Thể Đông Nam Á (Hoa Kỳ - Pháp – Úc – Tân Tây Lan – Thái Lan – Phi Luật Tân, 1955), và Hoa Kỳ - Nhật Bản (Hiệp Ước Phòng Thủ Chung, 1960).
[19]Văn phòng Bộ trưởng Quốc phòng, Sức mạnh quân sự của CHND Trung Hoa, 2005, op. cit.
[20]Coi, ví dụ: Ma Ying. Vấn đề Hoa Kỳ đối với Trung Quốc. Policy Review, Feb/Mar 2002. p. 43-57. Jefferey S. Robertson. Tâm lý chống Mỹ ở Hàn Quốc và tương lai sự hiện diện của Hoa Kỳ. Journal of International and Area Studies, Vol. 9, No. 2, 2002. pp. 87-103.
[21]Pew Research Center. ình ảnh Hoa Kỳ tụt dốc, nhưng các đồng minh chia sẻ quan ngại của Mỹ về Iran, Hamas. Công bố ngày 13/12/2006.
[22]Pearlstein, Steven. Thế giới giảm tốc cuộc chạy tới đích Toàn cầu hóa. Wahsington Post, 5/6/2006. p. D01.
[23]Chua, Amy. Một thế giới bên lề, The Wilson Quaterly, tháng Tám 2002. Vol. 26, Issue 4; p. 62-78.
[24]Rosenberger, Leif. Một chính sách Kinh tế-Xã hội để chống bạo động cực đoan Asia-Pacific Economic Update, 2005. Tư lệnh Thái bình dương. Vol. III, p. 23.
[25]Để tham khảo thêm về thảo luận về khả năng này, coi Unger David C. Mối lo ở Châu Á, và màn dạo đầu ở Thái Bình Dương , Thử nghiệm an ninh cho một cộng đồng châu Á – Thái bình dương mới. World Policy Journal, Summer 1994, 11, 2. p. 37-44.
[26]Coi Tường Trình CRS RS22391, U.S.-Peru Trade Promotion Agreement, của M. Angeles Villareal, và Tường Trình CRS RL33328, Proposed U.S.-Oman Free Trade Agreement, của Mary Jane Bolle.
[27]Coi, ví dụ, Tường Trình CRS RL33436, Quan hệ Hoa Kỳ-Nhật Bản: Các vấn đề đặt ra cho Quốc Hội, của Emma Chanlett-Avery, Mark E. Manyin, và William H. Cooper, hay Tường trình CRS số RL33567, Hàn Quốc: Quan hệ Hoa Kỳ - Hàn Quốc – Các vấn đề đặt ra cho Quốc Hội:của Larry A. Niksch.
[28]Tường trình CRS số RL32882, Sự lớn mạnh của Trung Quốc và Hiệu ứng đối với Đài Loan, Nhật Bản và Hàn Quốc: Sự lựa chọn chính sách của Hoa Kỳ, của Dick K. Nanto.
[29]Để tham khảo văn bản của hiệp ước, coi ASEA. Văn bản Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á và các thông tin liên quan. ASEAN Knowledge Kit, March 2005. [http://www.aseansec.org/TAC-KnowledgeKit.pdf].
[30]Mười thành viên của ASEAN, Nhật, Trung Quốc, Nam Hàn, Ấn, Úc và Tân Tây Lan.