trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
Tư tưởng
Triết học
  1 - 20 / 177 bài
  1 - 20 / 177 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tư tưởngTriết học
28.9.2007
William Barrett
Giới thiệu Thiền luận
Cao Hùng Lynh dịch
 
I.

Nền văn minh phương Tây được hình thành từ hai dòng ảnh hưởng chính, Do Thái và Hy-lạp; cả hai nền văn minh này đều in đậm dấu ấn của tinh thần nhị nguyên. Điều này có nghĩa là, chúng chia thực tại thành hai phần riêng biệt và đối lập nhau. Người Do Thái thực hiện cuộc phân chia này dựa trên những căn nguyên luân lý và tôn giáo: Thượng đế tồn tại hoàn toàn tách biệt và bên trên vạn vật, từ đó nảy sinh các thuyết nhị nguyên về Thượng đế và sinh linh, linh hồn và thể xác. Người Hy-lạp, trái lại, chia thực tại thành các phạm vi tri thức. Plato, người hầu như đã một mình sáng lập triết học phương Tây – Whitehead nhận xét rằng 2500 năm triết học phương Tây rốt cuộc chỉ sự chú thích cho triết học Plato – chia thực tại thành thế giới tri thức và thế giới cảm giác. Thành tựu to lớn của người Hy-lạp là họ đã định nghĩa ý niệm về sự hợp lý (rationality) nơi con người; tuy nhiên, khi làm như thế, Plato và Aristote không chỉ biến lý trí thành một chức năng cao cả và có giá trị nhất, mà còn đi xa hơn nữa bằng cách biến nó thành điểm trọng tâm của đặc tính cá nhân. Người phương Đông không bao giờ thừa nhận điều nhầm lẫn này. Họ thiên về sự trực giác hơn là lý trí, và thông qua trực giác, họ thấu hiểu điểm trọng tâm của nhân tính, cái luôn luôn đạt được sự đồng nhất đối với các mặt xung khắc với nhau như lý trí và phi lý trí, tri thức và cảm giác, luân lý và bản chất. Chúng ta là người phương Tây, cho nên đã thừa hưởng các học thuyết nhị nguyên như đã nói trên; chúng là yếu tố tạo nên chúng ta: chúng khởi nguồn từ lương tâm không ngừng ray rứt một cách phi lý của người Do Thái, và từ tâm thức duy lý đậm tính phân chia của người Hy-lạp. Tuy nhiên, những kinh nghiệm thu nhặt được trong một nền văn hoá hiện đại, qua nhiều lãnh vực khác nhau, khiến cho chúng ngày càng ít được chấp nhận.

Thiên chúa giáo trung cổ luôn sống trong thế giới duy lý của người Hy-lạp. Vũ trụ của thánh Thomas Aquinas chính là vũ trụ địa tâm khép kín của Aristote, một thực thể bé nhỏ, gọn gàng và duy lý, nơi mà tất cả đều nằm trong một tình trạng rất trật tự, và mọi thứ chiếm lĩnh một vị trí đầy ý nghĩa và hợp lý theo một thứ bậc tuyệt đối của tình trạng hiện hữu. Khi chúng ta, từ loại vũ trụ nhân tính hoá này, nhìn sang cách suy nghĩ của Ấn-Độ, thoạt tiên, chúng ta sẽ bị bối rối trước hình ảnh các không gian bao la, trước sự bất tận của thời gian, trước một vũ trụ trùng trùng điệp điệp, mà khi đối diện với nó, con người trở nên bé nhỏ và vô nghĩa; sau đó, chúng ta chợt nhận ra đây chính là không gian và thời gian của thiên văn học hiện đại, thế là ý niệm vũ trụ của người Ấn-Độ sẽ trở nên gần gũi hơn với chúng ta. Nhà thần học Tin lành lỗi lạc Paul Tillich đã mô tả kinh nghiệm thiết yếu của con người hiện đại là một sự chạm trán với “sự vô nghĩa”: khi bị mất hút trong cái bao la của vũ trụ, con người bắt đầu nghĩ rằng sự tồn tại của chính mình và của vũ trụ đều vô nghĩa. Thượng đế của thuyết hữu thần, Tillich nhắc lại từ âm vọng của Nietzsche, đã chết, và người phương Tây phải tìm được một Thượng đế khác huyền vi hơn Thượng đế của thuyết hữu thần: Thượng đế mà chúng ta có được nhờ vào thần học duy lý nay đã không còn được chấp thuận. Đứng trên quan điểm Thiên chúa giáo trung cổ, nhiều tiền đề của tư tưởng Phật giáo có vẻ như “vô nghĩa”; chúng phiền não và khó được chấp thuận hơn, nhưng lại rất gần gũi với những gì mà chúng ta, những con người hiện đại, phải dung nạp.

Riêng trong khoa học, nhiều thành tựu hiện đại đã làm cho thuyết duy lý của chúng ta bị lung lay. Vật lý học và toán học, hai ngành phát triển nhất của khoa học phương Tây, hiện nay mang nhiều đặc tính nghịch lý; nghĩa là, đã bước đến tình trạng sản sinh nhiều nghịch thuyết vì lợi ích của chính lý trí. Một trăm năm mươi năm trước, triết gia Kant đã nỗ lực trình bày cho ta thấy rằng luôn có những giới hạn không thể tránh khỏi đối với lý trí, nhưng tâm thức phương Tây, vốn mang tính thực dụng, chỉ có thể thừa nhận kết luận ấy một khi tính đúng đắn của nó, về phương diện khoa học, được chứng minh. Vào thế kỷ này, khoa học cuối cùng cũng đã theo kịp Kant: gần như là đồng thời, Heisenberg của vật lý học và Godel của toán học đã chứng minh được những giới hạn mà lý trí con người không thể vượt qua. Nguyên lý bất định (Indeterminacy) của Heisenberg cho thấy giới hạn căn bản trong khả năng nhận biết và tiên đoán tình trạng vật lý của phần tử, đồng thời mở ra cho chúng ta ý niệm về một thế giới tự nhiên, về thực chất, hỗn độn và không duy lý. Các kết quả nghiên cứu của Godel dường như mang lại những hệ quả có ảnh hưởng sâu rộng hơn, vào lúc mà người ta vẫn nghĩ rằng theo truyền thống phương Tây, từ các môn đồ của Pythagore và Plato trở đi, toán học đã tạo ra những lời khẳng định duy lý mang tính tuyệt đối. Giờ thì nhận định ấy bắt đầu đổi thay: con người, ngay cả trong ngành khoa học chính xác nhất, nơi mà lý trí của anh ta được xem như là một điều gì đó mang tính chất toàn năng, cũng không thể nào vượt thoát được tính hữu hạn cố hữu của mình: mọi hệ thống toán học mà anh ta dựng xây đều bị kết án là bất toàn. Toán học giống như con tàu trôi giữa đại dương đang có những vết rạn nứt (nghịch thuyết) hiện đang được tạm thời vá lại, nhưng lý trí của chúng ta không thể quả quyết rằng con tàu ấy sẽ không còn phải gánh chịu một vết rạn nứt khác. Tình trạng bất an này của con người, cho đến nay, đã hiện diện ngay trong thành luỹ cuối cùng của lý trí – toán học – và điều này đã ghi nhận một bước ngoặt mới trong tư tưởng phương Tây. Bước tiếp theo là phải nhận ra bản chất nghịch lý của chính lý trí.

Một số triết gia hiện đại đã nỗ lực thực hiện bước đi này, một trong số đó là Martin Heidegger, triết gia hiện sinh người Đức, một nhà triết học độc đáo và có nhiều ảnh hưởng tại Âu châu. Một bằng hữu của Heidegger kể với tôi rằng ngày nọ, khi đến thăm Heidegger, ông thấy Heidegger đang đọc Suzuki; “Nếu tôi hiểu đúng về con người này,” Heidegger nhận xét, “thì đây là những gì mà tôi đang đề cập đến trong tất cả các tác phẩm của tôi.” Nhận xét này có thể là sự vui thích hơi quá mức của một người chịu sự ảnh hưởng của quyển sách mà trong đó, anh ta bất giác nhận ra một số tư tưởng giống mình. Tất nhiên, triết học Heidegger vẫn mang một giọng điệu và xuất phát từ những nguồn cội thuần phương Tây; đồng thời, nhiều thứ có trong ông, lại không có trong Thiền (Zen), nhưng nhiều thứ hơn có trong Thiền lại không có trong Heidegger. Tuy nhiên, các điểm tương đồng của cả hai, mặc dù xuất phát từ hai nguồn gốc khác hẳn nhau, cũng đủ để chúng ta phải chú ý. Thông điệp cuối cùng của Heidegger rốt cuộc là gì, nếu không phải muốn nói lên rằng triết học phương Tây là một sai lầm vĩ đại; đó là kết quả của sự nhận thức mang tính nhị nguyên, cái đã tách con người ra khỏi sự thống hợp với bản thể và khỏi chính bản thể. Sai lầm này khởi đầu (từ Plato) bằng việc đặt ra chân lý trong sự nhận thức; thế giới tự nhiên, vì đó, đã trở thành những đối tượng đối lập với tâm thức, và dần dần trở thành đối tượng bị thao túng bởi sự toan tính có tính chất thực dụng và khoa học. Hai ngàn năm trăm năm siêu hình học phương tây chuyển dịch từ thuyết duy lý trí của Plato đến Ý chí Thống ngự của Nietzsche, và con người đồng thời trở thành bậc thầy về kỹ nghệ trên hành tinh; tuy nhiên, sự chinh phục thiên nhiên chỉ làm cho anh ta rời xa bản thể và đưa anh ta đến một ước vọng quyền lực ngày càng mãnh liệt và điên rồ. “Chia để trị”, do vậy, được xem là phương châm mà người phương Tây đã thực hiện đối với chính Bản thể; nhưng hẳn nhiên đây không phải là một giải pháp quyền lực thông minh. Heidegger không ngừng nói với chúng ta rằng truyền thống này của phương Tây đã đến hồi cáo chung; khi ông nói thế, người ta chỉ có thể kết luận rằng ông đã bước ra ngoài truyền thống ấy. Ông đã thể nhập vào truyền thống phương Đông chăng? Tôi chỉ có thể nó rằng ông đã đến khá gần với Thiền.

Nếu những diễn biến trong khoa học và triết học vừa nêu cho thấy cách suy nghĩ có nhiều đổi thay tại phương Tây, thì nghệ thuật hiện đại xem chừng như đã đưa ra được những dấu hiệu về sự xuất hiện của nhiều lối cảm nhận nghệ thuật mới mẻ. Cho dù có luận bàn gì đi nữa về đề tài nghệ thuật hiện đại vốn đầy dẫy gai góc này, thì đối với những người bảo thủ trong nghệ thuật, vẫn có một sự thật hết sức rõ ràng rằng, nghệ thuật hiện đại đã trình bày một cái gì đó mang tính phá cách và tuyệt giao với truyền thống. Nghệ thuật hiện đại đưa ra một diện mạo hết sức phi lý, dị thường và choáng váng cho đến nỗi nó phải được xem là một sự đoạn tuyệt với những chuẩn mực xưa cũ và duy lý trong nghệ thuật phương Tây. Nhiều họa sĩ và điêu khắc gia phương Tây trong thế kỷ này đã vượt khỏi truyền thống để nuôi dưỡng mình bằng nền nghệ thuật của phần còn lại của thế giới – phương Đông, Phi châu và vùng Tây nam Thái bình dương; điều này có nghĩa rằng cái mà chúng ta hiểu là truyền thống hiện không còn khả năng nuôi dưỡng những đứa con sáng tạo của nó; khuôn vàng thước ngọc của nó đã bị vỡ vụn dưới một áp lực từ bên trong. Hội hoạ của chúng ta đã tách ra khỏi không gian ba chiều, nơi thể hiện trọn vẹn sức mạnh và tính hiếu động của người phương Tây; tách ra khỏi đối tượng, nỗi ám ảnh lớn lao của tính hướng ngoại nơi người phương Tây; và đã bắt đầu mang đậm đặc tính chủ quan, một đặc tính đối lập với tinh thần chung của đời sống phương Tây. Phải chăng tất cả những điều này đơn thuần chỉ là sự bất ổn và nổi loạn, hay lại là dấu hiệu báo trước cho sự xuất hiện của một khuynh hướng tinh thần khác biệt nào đó? Nhiều phong cách hội họa mới trong quá khứ cũng thường mang tính chất tiên tri như thế. Trong văn chương, dĩ nhiên, các nhà văn cũng nói về cái mới, và chúng ta đã thấy một tiểu thuyết gia như D. H. Lawrence đang lên tiếng chống lại chủ nghĩa duy lý lạnh lùng. Lawrence nhấn mạnh đến sự cần thiết của cái mà ông gọi là “sự không chủ tâm.” Ý niệm “sự không chủ tâm” của Lawrence chính là một sự trực cảm mơ hồ thuyết “vô tâm” mà Phật giáo thiền tông đã đưa ra hai ngàn năm trước đó. Tuy nhiên, không như Lawrence, các thiền sư phát triển thuyết này lại không rơi vào tình trạng ngây ngô và sự tôn sùng nhục thể. Đối với Lawrence, nền văn hóa mà ông sống trong đó đã không giúp ích gì cho các vấn đề này cả, và ông phải tự mình mò mẫm trong bóng đêm. Trong thế kỷ này, tác phẩm văn xuôi tiếng Anh đang chú ý nhất có lẽ là Ulysses của Jame Joyce, và đây là một cuốn sách mang đậm tính phương Đông đến độ nhà tâm lý học C. G. Jung đã giới thiệu nó như là một bộ thánh kinh không thể thiếu dành cho người da trắng. Joyce phá vỡ hoàn toàn tiêu chuẩn thẩm mỹ của thời đại các vua George, thứ tiêu chuẩn thường chia cắt thực tại thành một cái Đẹp tách biệt với các yếu tố Xấu hoặc Nhơ Nhuốc đối lập với nó. Ulysses đã thành công trong việc giữ cho tất cả các khía cạnh trái ngược với nhau được kề cận bên nhau: sáng và tối, đẹp và xấu, cao cả và tầm thường. Tác phẩm này là một sự nhìn nhận cuộc đời mà không một quan điểm nhị nguyên nào – dù mang tính chất khắt khe hay thẩm mỹ – có thể bao quát nổi.

Phải thừa nhận rằng tất cả các biến cố mà tôi vừa đề cập đến – từ khoa học, triết học cho đến nghệ thuật – chỉ là một sự liệt kê có tính cách rất chọn lọc. Nó có thể được mở rộng hơn nữa; tuy nhiên, nếu làm như thế, thì các dẫn chứng minh hoạ sẽ bị trùng lặp, khiến chúng ta không thể tiếp tục công việc khảo cứu. Khi nhiều sự kiện giống nhau cùng xuất hiện dày đặc bên nhau, chúng sẽ không còn được xem là một sự “trùng hợp” vô nghĩa nữa, mà được xem là những dấu hiệu đầy ý nghĩa; trong trường hợp này, chúng là những dấu hiệu cho thấy phương Tây bắt đầu cảm nghiệm cái mới, và trên thực tế, đã bắt đầu cảm nghiệm cái đối lập với nó. Chỉ trong xu thế mới này, sự quan tâm dành cho một điều gì đó, như Phật giáo thiền tông chẳng hạn, mới không thể bị dè bỉu là vọng ngoại, bởi vì nó liên quan đến món ăn tinh thần hàng ngày.

Điều nghịch lý đáng buồn về tất cả những đổi thay này là chúng chỉ diễn ra ở hai tầm mức cao và sâu của nền văn hoá chúng ta, trong khi tại khu vực giữa hai tầm mức ấy, mọi việc vẫn không có gì thay đổi. Bất chấp các khám phá của các nghệ sĩ, triết gia, khoa học gia lý thuyết, phương Tây vẫn chỉ là một phương Tây như trước đây trong mọi giác độ của đời sống. Hàng hóa và vật dụng tiếp tục gia tăng, lối sống Mỹ (hoặc lối sống Nga) ảnh hưởng tràn lan khắp địa cầu, kỹ năng dành cho đời sống hướng ngoại càng lúc càng trở nên láu lỉnh và khôn khéo. Tất cả những điều này cho thấy rằng con người phương Tây đã trở thành con người của những điều mâu thuẫn. Nền kỹ nghệ của anh ta đặt vào tay anh ta một quả bom khinh khí; vậy là, sinh linh vụn vỡ này có đủ khả năng để tự làm vỡ tung chính mình và hành tinh mà anh ta đang sống thành trăm mảnh. Một lời khuyên dung dị và chân thành lúc này có thể là anh ta nên quay lại để nhìn đôi chút vào chiều sâu của đời sống nội tâm.


II.

Không một vấn đề nào trên đây có liên qua tới Thiền. Hay đúng hơn là, Thiền không liên quan gì đến chúng. Những điều ấy dính dấp đến các vấn đề trừu tượng và phức tạp của tri thức – từ triết học, văn hóa, khoa học cho đến mọi thứ tương tự khác – trong khi, cái mà Thiền tìm kiếm lại là những điều giản dị và cụ thể nằm bên ngoài mớ tri thức hỗn độn, rối ren của lý trí. Thiền tự thân vốn là sự cụ thể. Thiền tránh những gì trừu tượng, hoặc như nếu có dùng những điều trừu tượng, thì cũng chỉ để thoát khỏi chúng. Ngay khi Thiền gióng tiếng phản đối những điều trừu tượng, nó cũng phải đặt vấn đề một cách cụ thể: do đó, khi đại sư Tokunsan đạt được sự khải ngộ, ông không nói bằng một lối nói vô hồn rằng mọi ý niệm đều không đủ, mà ông đốt tất cả kinh sách của mình, và thốt lên “Tất cả sự hiểu biết của chúng ta về các vấn đề trừu tượng của triết học có thể được ví như là sợi tóc so với vũ trụ bao la.” Hãy để cho độc giả phương Tây suy nghĩ về hình ảnh này, tức thì anh ta sẽ hiểu được thâm ý của nó một cách dễ dàng hơn. Hoặc khi một thiền sư khác nhận xét về sự khó khăn trong việc làm sáng tỏ một câu hỏi về Thiền, ông không hề nói rằng điều ấy quá khó hoặc khó cho đến nỗi hầu như không thể giải thích được, mà chỉ đáp như thế này: “Nó giống như chuyện con ếch đang cố nuốt chửng con bò vậy.” Hình ảnh luôn sống mãi, vì nó gợi được cái ý nghĩa mà sự giải thích bằng ý niệm không thể làm được.

Chính sự cụ thể trong cách diễn tả, sự phong phú dị thường của hình ảnh minh họa có thể làm cho Thiền trở nên đắc dụng đối với người phương Tây, những kẻ xuất thân từ một nền văn hoá mang đặc tính trừu tượng. Tuy nhiên, sẽ nhầm lẫn khi cho rằng đây chỉ là một trong những thủ pháp hoặc sự điểm tô có tính chất văn chương được áp dụng bởi các thiền sư. Trái lại, ngôn ngữ Thiền là một yếu tố thiết yếu của Thiền, là cách bộc tả gắn liền với chủ đề. Thiền diễn tả rất cụ thể, bởi vì Thiền, trên hết, chỉ quan tâm đến sự kiện chứ không phải lý thuyết, đến thực tại chứ không phải đến những cái không phải thực tại mà chúng ta thường gọi là khái niệm. “Sự kiện” thường gợi lên trong suy nghĩ của người phương Tây một điều gì đó mang tính chất số lượng hoặc thống kê, vì thế nó cũng là một sự việc trừu tượng và tẻ nhạt. Thiền muốn những sự kiện như thế phải trở nên sống động và cụ thể. Trong ý nghĩa này, Thiền có thể được mô tả như là một lý thuyết hoàn toàn dựa trên trực giác [1] – người phương Tây có thể hiểu như vậy, nếu như mong muốn có một cái tay nắm để nhờ vào đó mà bám lấy vấn đề. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa Thiền đơn thuần chỉ là một triết lý trực giác theo kiểu của Bergson, mặc dù nó đồng ý với Bergson rằng sự khái niệm hoá tri thức không đưa đến thực tại. Danh từ lý thuyết hoàn toàn dựa trên trực giác muốn nói Thiền cho rằng suy nghĩ và cảm nhận luôn luôn sống, dịch chuyển và tồn tại bên trong trực giác. Chúng ta nhìn bằng hai con mắt, có nghĩa là chúng ta đang nhìn (mặc dầu có thể chúng ta không nhận ra) bằng con mắt thứ ba – huệ nhãn. Do đó, bất cứ sự kiện nào cũng là đối tượng của Thiền, miễn là chúng được dùng để đánh thức con mắt thứ ba này, và trong các tác phẩm Thiền, chúng ta thường gặp những tình tiết khai thị mới lạ được kết hợp với các sự vật rất tầm thường. Rốt cuộc, ngôn ngữ chỉ là phương tiện dùng để “chỉ ra”: chúng ta sử dụng ngôn ngữ để chỉ ra cái cụ thể nằm bên ngoài ngôn ngữ, bên ngoài khái niệm. Thiền sinh nọ thưa: “Bạch thầy, làm thế nào có thể hiểu được đạo?”, vị thiền sư chỉ dòng suối trên núi và đáp: “Anh có nghe âm thanh của dòng nước xiết kia không? Anh có thể nhảy vào trong đó.” Lần khác, khi đang đi bộ lên núi, vị thiền sư bèn hỏi: “Anh có ngửi thấy mùi nguyệt quế không?” “Thưa có ạ.” “Đấy, tôi có giữ cái gì của anh đâu.”

Khi coi trọng sự kiện sinh động hơn là ý niệm, Thiền đã trung thành với lời dạy căn bản của đức Phật. Đức Phật ít chú ý đến các triết gia; người ta nói rằng vào thời của ngài, có đến khoảng 63 trường phái triết học. Có lần, Đức Phật nói tinh thần con người có thể bị giam hãm trong những mê cung tri thức xuất phát từ những tranh cãi ầm ĩ của họ. Rõ ràng Thiền không phải là một hệ thống triết lý (độc giả phương Tây nên lưu ý điểm này), mặc dầu nằm đằng sau nó là một số trong các triết lý vĩ đại của Phật giáo Đại Thừa. Tuy Đức Phật phản đối các triết gia, nhưng trên bước đường lịch sử của mình, Phật giáo đã hình thành một trong số các hệ thống triết lý uyên thâm nhất của nhân loại. Đây có phải là điều mâu thuẫn với tinh thần nguyên thủy của người sáng lập ra đạo Phật? Câu trả lời là "không"; bởi vì mục đích của triết học Phật giáo hoàn toàn khác với mục đích của triết học phương Tây: Phật giáo dùng triết học như là một công cụ cứu triết gia thoát khỏi nhà ngục khái niệm của anh ta; có thể nói triết học Phật giáo là một dạng triết học phi triết học, một triết học dùng để phá bỏ triết học. So sánh Đức Phật và Plato có thể làm cho chúng ta hiểu được sự tương phản rõ nét giữa Đông phương và Tây phương. Đối với Plato, triết học là một hệ thống kiến thức dẫn chúng ta đi từ một thế giới thấp đến một thế giới cao hơn, từ thế giới cảm giác đến một thế giới ý niệm, để chúng ta được lưu trú trong cái thế giới sau suốt cả một đời người. Trong khi đó, đối với những Phật giáo đồ, triết học dẫn dắt chúng ta ra bên ngoài tri thức để quay về với một thực tại luôn luôn hiện hữu trong một hình thức trọn vẹn và bất khả phân. Thiền bao hàm quan điểm triết lý này, nhưng nó không chỉ lập lại quan điểm ấy, mà còn đi xa hơn bằng việc lợi dụng nó theo phương cách cụ thể và thực tế của người Trung Hoa.

Sự chú trọng đến thực tế sống động đã giải thích một đặc tính vốn có nơi các vị thiền sư, đặc tính tối giản, cái dường như luôn làm kinh ngạc người phương Tây. Thiền sinh hỏi: “Đạo là gì?” “Là những mong muốn hàng ngày,” vị thiền sư đáp và sau đó lại bàn thêm: “Khi ta đói, ta ăn; khi ta mệt, ta ngủ.” Thiền sinh đâm ra hoang mang, bèn nói: “Đây chẳng phải là điều mà mọi người vẫn thường làm sao?” “Không,” vị sư đáp, “hầu hết người ta không bao giờ hiện diện trọn vẹn trong hành động mà họ đang làm; khi đang ăn, họ thường không chú tâm vào việc ăn, vì bị ám ảnh bởi muôn ngàn điều vọng tưởng; cũng thế, khi ngủ, họ thực sự không đang ngủ.” Biểu hiện quan trọng nhất của một người hoàn toàn hoà nhập với thế giới xung quanh là anh ta không còn có một tâm thức phân chia. Tinh thần giản dị này của Thiền được lột tả trong một câu nói nghịch lý: “Trước khi học Thiền, núi là núi và sông là sông; khi đang học Thiền, núi không còn là núi và sông không còn là sông; nhưng một khi đã khải ngộ, thì núi lại là núi và sông lại là sông.” Những câu chuyện về những nỗ lực cam go để đạt đến cõi giác ngộ đã dạy cho chúng ta rằng tinh thần giản dị của các bậc thiền sư không phải là điều dễ dàng thấu đạt: họ thực sự là những nhân vật dị thường, những kẻ băng sông vượt núi để quay về trọn vẹn với những điều dung dị nhất của đời sống thường nhật.

Trong cuộc nỗ lực hướng tới mối quan hệ trực tiếp với thực tế, cũng như trong thuyết Đốn Ngộ nằm ngoài lý trí, Thiền có vẻ mang dáng dấp của chủ nghĩa huyền bí. Tuy nhiên, Thiền không huyền bí theo cái ý nghĩa huyền bí mà người phương Tây hiểu. Huyền bí, theo định nghĩa của William James (W. James không biết gì về Thiền) trong Varieties of Religious Experience, là vượt qua bức màn cản trở của thế giới tự nhiên hoặc của thế giới giác quan để cảm nghiệm sự hoà hợp trực tiếp với một thực thể cao hơn. Định nghĩa này đúng với hầu hết các nhà huyền bí phưong Tây từ Plotinus trở đi, nhưng không thể áp dụng cho Thiền, vì Thiền sẽ phản đối loại huyền bí nhị nguyên luôn phân chia thực tế thành cái thấp hơn và cái cao hơn. Đối với Thiền, thấp hay cao cũng chỉ là một thế giới; và trong các câu chuyện về khải ngộ mà Suzuki trình bày cho chúng ta xem, không có câu chuyện nào nói về sự mơ hồ của ý thức hoặc tình trạng nửa tỉnh nửa mê mà ta có thể tìm thấy ở các nhà huyền bí phương Tây. Ngay cả tại những điểm Thiền có vẻ gần với chủ nghĩa huyền bí nhất, nó vẫn tuyệt đối mang tính chất giản dị và thực tế. Cũng không nên nhầm lẫn Thiền với thuyết phiếm thần, mặc dù các tác phẩm Thiền thường xoay quanh những lời nói như Phật tính hiện diện khắp mọi nơi. Thuyết phiềm thần chủ trương có sự phân chia giữa một bên là Thượng đế, người thấu hiểu vạn vật, và một bên là vạn vật với tư cách là sự thể hiện phi thường của Thượng đế.

Không phải là một triết học theo ý nghĩa phương Tây, cũng không phải là một triết thuyết thần bí, và càng không phải là thuyết phiếm thần hay hữu thần gì cả, vậy thì, xem chừng như Thiền, đối với độc giả, có quá nhiều vấn đề vi tế và huyền ảo, và không mang một giá trị thực tế nào cả. Tuy nhiên, biểu hiện về tính thực tế của Thiền không xuất phát từ các triết gia hay nghệ sĩ, mà lại từ hai vị bác sĩ tâm thần học hàng đầu, C. C. Jung và Karen Horney, những người đã dành hết tâm trí để áp dụng Thiền vào mục đích chữa bệnh. Jung từng viết về Thiền; còn Karen Horney, trước khi qua đời, đã đến Nhật bản để trực tiếp quan sát sinh hoạt của một thiền viện. Điều đưa Jung đến với Thiền chính là sự truy tìm tính nhất thể về phương diện tâm lý của Thiền. Horney cũng nhận thấy điều tương tự và gọi đó là hành động tìm kiếm sự tự nhận thức mà không sa vào hư ảnh về một bản ngã lý tưởng, hoặc không cần phải đeo bám một cách lệ thuộc và nhẫn nại vào những chỗ dựa hằng thường như gia đình, xã hội hoặc giáo hội (sau khi đốn ngộ, một thiền sinh của thiền sư Obaku hốt nhiên tát vào mặt ông và nói: "Rốt cuộc chẳng có gì nhiều trong lời dạy của Obaku"; nghe vậy, Obaku hài lòng lắm, vì kẻ học kia cho thấy rằng hắn đã có thể tự đứng trên đôi chân của chính mình). Tất nhiên, các vị thiền sư, khi chúng ta đọc về họ qua các trang sách của Suzuki, luôn mang đến cho chúng ta một ấn tượng mãnh liệt của những cá nhân tràn đầy cá tính. Điều khó tin nhất đối với người phương Tây là sự đòi hỏi cá tính hoá của môn đồ lại được tôn giáo tạo ra. Các tôn giáo phương Tây luôn luôn muốn hạn chế yếu tố này càng ít càng tốt nơi tín đồ; họ luôn muốn anh ta trở thành kẻ chỉ biết vâng lời, nếu không, anh ta sẽ bị coi như là một kẻ lạc lõng đáng thương. Quan niệm đó có lý do từ việc tôn giáo phương Tây luôn nhấn mạnh đối tượng tôn giáo nằm cao hơn cá nhân n Thượng đế cao hơn vạn vật. Người ta hầu như không tưởng tượng được rằng có một tôn giáo phương Tây nào đó lại có thể phát biểu một lời giáo huấn môn đồ như thế này: "Khi ngươi nói tên đức Phật xong, thì hãy đi rửa mồm cho sạch". Thiền mang đặc tính cá nhân chủ nghĩa, đồng thời bài xích thói tôn sùng thánh tượng và câu chấp đạo lý; điều này khiến cho Thiền dường như không thích hợp với nhiều người phương Tây. Thật ra, các đặc tính trên có nguyên nhân từ việc Thiền muốn lột trần cá nhân, ngõ hầu đưa anh ta về lại với chính anh ta; từ đó, anh ta không còn dựa dẫm vào hình ảnh đức Phật. Đây đích thị là yếu tố thách thức đáng kể nhất của Phật giáo Thiền tông đối với các tôn giáo phương Tây, và đây chính là điều mà chúng ta, tất cả những người phương Tây, cần phải học hỏi; bởi vì kể từ khi thế giới cao cả của các hình tượng tôn giáo trung cổ ngày càng lùi xa khỏi sự hiểu biết của chúng ta và một xã hội thế tục hoá đang ra sức nuốt chửng chúng ta, thì cuộc hành trình lịch sử ấy đồng thời cũng đã lột trần người phương Tây và không để lại chốn nương tựa vững chắc nào cho họ. Kể từ đây, điều mà Phật giáo gọi là sự trống rỗng bắt đầu lởn vởn trước đôi mắt hốt hoảng của người phương Tây; tuy nhiên, nếu họ không chạy trốn trong sợ hãi, thì nỗi hư vô diệu vợi này biết đâu sẽ thăng hoa trọn vẹn với đặc tính của những điều kỳ diệu; đồng thời, trời và đất, một lần nữa cùng với nhau, lại sẽ dễ dàng tạo ra những kỳ công mà tiền nhân của họ đã có lần gầy dựng.

Đối với vấn đề Thiền là gì, tôi để cho độc giả tự khám phá trong những trang sách tiếp theo của Suzuki; những gì tôi đã cung cấp chỉ là một vài lời lưu ý mang tính chất phiến diện, hoặc chỉ là những biển báo giúp cho kẻ bộ hành khỏi lạc lối; tất cả đều xuất phát từ những thất bại ban đầu của tôi trong tiến trình tìm hiểu Thiền. Tuy nhiên tôi nghĩ rằng vẫn có một câu hỏi quyết định đang định hình trong tâm trí độc giả, vì nó cũng đã hình thành trong tâm trí tôi khi bắt đầu chấp bút; chúng ta cần phải đối diện với nó trước khi trút bỏ nó, câu hỏi ấy là: Phật giáo phải chăng không bao giờ là một tôn giáo xa lạ với người phương Tây? Phải chăng đó là một tôn giáo mà anh ta không thể thích hợp với, để từ đó không thể biến Phật giáo thành tôn giáo của chính anh ta? Phải chăng những điều kiện tạo nên chúng ta và đời sống của chúng ta lại chính là những điều kiện khiến cho Thiền không thể tồn tại được? Chúng ta không thể né tránh câu hỏi này; Thiền cũng sẽ không né tránh như thế, bởi vì Thiền cho rằng không hề có chân lý sách vở hoặc chân lý trừu tượng, chỉ có chân lý sống động mới đáng để chúng ta quan tâm. Thực vậy, câu hỏi cứ hiện ra trong tâm trí tôi một cách mãnh liệt cho đến nỗi dường như đang có một vị thiền sư tưởng tượng nào đó vừa vung gậy, vừa giơ nắm đấm và hét lên: "Trả lời đi chứ, trả lời nhanh lên!" Ừ thì nhanh vậy: tôi đồng ý với Suzuki khi ông cho rằng Thiền là một thực tế sống động có mặt trong mọi tôn giáo dù là phương Đông hay phương Tây, hay chính xác hơn, Thiền đề cập đến đến những gì được xem là thực tế sống động hiện diện trong mọi tôn giáo. Đối với độc giả của cuốn sách này, câu hỏi hầu như không dẫn đến việc phải trở thành một Phật tử, nhưng cũng không hề làm suy giảm tâm quan trọng của Thiền đối với họ: bởi vì cho dù tác phẩm về Thiền này, một tác phẩm tạo nên mối tương giao sống động với người phương Tây, có bé nhỏ đến đâu, thì sự ảnh hưởng của nó chắc chắn sẽ khiến anh ta không còn bao giờ giống như trước đây nữa. Theo lời lẽ tuyệt đẹp của Thiền sư Hoyen: “Khi nước được vốc đầy đôi bàn tay, ánh trăng sẽ lấp lánh trong đó; khi nâng niu những đoá hoa, mùi hương của chúng đã vương vào xiêm áo.”

Bản tiếng Việt © 2007 talawas



[1]tạm dịch từ Radical Intuitionism.
Nguồn: Trích từ Zen Buddhism (1956), D. T. Suzuki