trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
Nghệ thuật
Âm nhạc
  1 - 20 / 123 bài
  1 - 20 / 123 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Nghệ thuậtÂm nhạcTư tưởngChiến tranh nhìn từ nhiều phía
22.11.2004
Lê Trương
Phong trào Dân ca, Sử ca, Kháng chiến ca
 
Năm 1966 dân ca bộc phát thành một phong trào. Bỗng nhiên giới thanh niên đô thị hướng về dân ca, sưu tầm dân ca, đem dân ca vào tập thể như đem một luồng gió mới. Tất cả những buổi văn nghệ cũng như những sinh hoạt khác đều có dân ca. Ai không biết một câu quan họ Bắc Ninh hay một điệu lý miền Nam là có thể bị chê ngay là xa cách đời sống dân tộc, không biết gì về dân tộc.

Trong những bài dân ca thịnh hành, chúng ta có thể kể đến: Lý ngựa ô, Lý con sáo, Xe chỉ luồn kim, Hát hội trăng rằm, Cây trúc xinh, Qua cầu gió bay v.v… Thanh niên đô thị đua nhau hát những bài đó, tiếng ca của họ là tiếng ca Việt Nam thuần tuý, không thể nhầm lẫn với nhạc Pháp, nhạc Mỹ hay nhạc Việt lai căng. Ngoài dân ca, còn có dân nhạc và dân vũ. Họ rất thích thú và hãnh diện khi được nghe dân nhạc Việt Nam, điển hình là buổi trình diễn dân nhạc của nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba tại trường Đại học Khoa học.

Phong trào học đàn Đông phương phát triển mạnh mẽ: phái nữ chơi đàn Tranh, đàn Tỳ bà càng ngày càng nhiều, cây độc huyền cầm (đàn bầu) của Việt Nam được đề cao. Dân vũ xuất hiện rất nhiều trong sinh hoạt văn nghệ, điển hình là những màn vũ Lúa thơm đồng xanh diễn tả sinh hoạt cấy cày của nông thôn Việt Nam, màn Tiếng trống hào hùng diễn tả hình ảnh Việt Nam vùng dậy chống xâm lăng. Dân ca, dân vũ, dân nhạc trở thành một loại văn nghệ thời trang quyến rủ.

Phong trào Dân ca đã lớn lên rất mạnh, mang nhiều ý nghĩa đặc biệt. Muốn giải thích sự hiện diện của phong trào này, chúng ta cần phải dựa trên những yếu tố lịch sử xảy ra hồi bấy giờ. Chúng ta có thể nhận thấy rõ ràng đời sống tại các đô thị hoàn toàn bị xáo trộn kể từ khi quân đội ngoại quốc hiện diện trên đất nước ta, trong đó có sự xáo trộn về sinh hoạt văn nghệ. Nhiều sản phẩm lai căng được đẻ ra khiến cho những người có ý thức dân tộc thấy khó chịu đến khổ sở. Họ nhìn đó là những đứa con hoang, con lai phản ảnh một tình trạng mất gốc nô lệ. Họ phản ứng lại bằng cách dùng văn nghệ thuần tuý Việt Nam. Thứ vũ khí sẵn có của dân tộc có thể đem ra dùng ngay được trong hoàn cảnh này chính là Dân ca. Đó là lý do của sự có mặt của phong trào Dân ca.

Trong khi tay họ chưa có cái gì để chống đỡ thì Dân ca Cổ điển vẫn là một thứ vũ khí cần thiết, quá cần thiết. Thực sự những bài dân ca mà quần chúng đô thị hát không liên quan gì đến đời sống hiện tại của họ, không phải là hơi thở của con người trong không gian, thời gian này. Các bài Lý con sáo, Lý ngựa ô, Hát hội trăng rằm, Qua cầu gió bay, Mẹ Việt Nam… chỉ phản ảnh sinh hoạt của dân Việt trong một hoàn cảnh đã qua. Chúng thành những câu chuyện đời xưa, rất xưa nói về tình yêu trai gái trên một cỗ xe ngựa hay trên một dòng sông nhỏ chảy qua làng hay bên chiếc cầu tre, trong một buổi hội hè, hay nói về những bà mẹ Việt Nam lam lũ một đời sau lũy tre xanh. Đó dĩ nhiên là một loại nhạc dân tộc, nhưng chắc chắn không phải là dân tộc hiện tại.

Những bài ca đó gắn liền với một xã hội đã qua, cách đây hàng chục năm, hàng trăm năm. Những bài ca này không có gì thay đổi, trong khi đó dân tộc đã thay đổi rất nhiều. Dân tộc ta đã chuyển mình đứng lên giải phóng khỏi chế độ phong kiến thực dân. Từ trong lũy tre xanh, trong hải cảng đóng kín, dân tộc đã vươn dài cánh tay cách mạng ra khắp năm châu. Do đó những nhân vật điển hình trong giai đoạn lịch sử này không thể là những nhân vật trong những bài dân ca cổ điển trên mà là những bà mẹ Việt Nam mới, những thiếu nữ mới, những thanh niên mới, những thiếu nhi mới, những lời ca tiếng hát mới. Tất cả đều mới để phù hợp với cuộc chiến tranh giành độc lập, tự do, gương mẫu là một dân tộc tiền phong giải thực. Loại dân ca cổ điển kia không phản ảnh được thực tại của quần chúng mà chỉ giúp quần chúng trong phản ứng đầu tiên nhằm đề kháng những ảnh hưởng văn hóa ngoại lai. Hết giai đoạn đó, quần chúng không dùng dân ca cổ điển nữa và bước vào giai đoạn văn nghệ mới, tức là phong trào Sử ca, Kháng chiến ca.

Điều đáng ghi nhận là sau khi quần chúng tiến bộ chấm dứt giai đoạn dân ca cổ điển để tiến tới một giai đoạn ca hát tranh đấu mới thì chính quyền Việt Mỹ lại tung ra chiêu bài dân tộc bằng loại dân ca trên nhằm đánh lạc hướng tranh đấu của thanh niên sinh viên. Họ lại nâng đỡ, khuyến khích việc “Về Nguồn” đáng được tôn trọng của người Việt bằng cách cổ võ loại dân ca: Cây trúc xinh, Xe chỉ luồn kim, Lý ngựa ô, Lý con sáo,…bằng cách phục hưng thời sĩ phu la cà trong những quán cô đầu để uống rượu, nghe Hát nói, Hát chèo, những chuyện Bích Câu kỳ ngộ, Trương Chi Mỵ nương v.v…

Người Mỹ đứng bên cạnh người Việt để hát dân ca, kháng chiến ca, làm như họ yêu mến tiếng hát dân tộc Việt Nam, họ cũng đồng tâm chống thực dân như dân tộc Việt Nam. Đó là hình ảnh của Phạm Duy và anh chàng Steve Addiss đã một thời khuấy loạn trước mắt quần chúng cách đây không lâu. Trong cuộc chiến tranh giải thực, chúng ta có một hình ảnh một bà mẹ tiêu biểu cho những bà mẹ Việt Nam, đó là bà mẹ Gio Linh:

Mẹ già cuốc đất trồng khoai,
Nuôi con đánh giặc đêm ngày,
Cho dù áo rách sờn vai,
Cơm ăn bát vơi bát đầy.

Trong cuộc chiến tranh hiện nay, hình ảnh bà mẹ Việt Nam tiêu biểu chắc chắn không phải là hình ảnh một bà mẹ trong một khúc ca âm hưởng dân ca như sau:

Đôi má tươi hồng, má tươi hồng, với bàn tay trắng,
Nhỏ người vai lẳn, vú căng tròn, tròn lưng ong,
Mẹ nằm phơi gió trăng.
Ôi! Mẹ Việt Nam!
Nghiêng mắt xanh, chải tóc mây ngàn,
Mẹ Việt Nam!
Bên bờ đại dương
Mẹ duỗi chân dài chờ mưa tuôn…

(“Mẹ xinh đẹp” trong Trường ca Mẹ Việt Nam)

Ngay cả tại Sài gòn cũng không thể có hình ảnh một bà mẹ Việt Nam “nằm phơi gió trăng, duỗi chân dài chờ mưa tuôn” như vậy trong lòng quần chúng được.

Có chăng là hình ảnh của Quách thị Trang:

Em ngã xuống rồi cho cuộc đấu tranh,
Em ngã xuống rồi khi tóc còn xanh.

Có chăng là hình ảnh của Nhất Chi Mai:

Lửa bốc lên cao mắt người cháy đỏ,
Lửa tràn bốn phía co quắp chân tay:
Phan Thị Mai! Phan Thị Mai!
Cả tấm hình hài.

Phân tách như vậy chúng ta có dịp thấy thế nào là một bài ca dân tộc, thế nào là một bài ca rất có vẻ dân tộc, từ âm thanh đến nội dung, nhưng trong một hoàn cảnh nào đấy thì chỉ là một thứ chất độc nguy hại cho dân tộc. Chúng ta lại có dịp thấy thêm rằng việc khảo cứu, sưu tầm dân ca là công việc của người nghiên cứu văn hóa, tìm những mạch sống của dân tộc để nuôi dưỡng dân tộc mỗi khi cần đến. Trong khi đó, việc phục sinh một giai đoạn dân ca nào đây là việc của người làm chính trị. Sự xuất hiện của nó phản ảnh một đường lối chính trị, do đó chúng ta có thể lấy nó để hiểu được đường lối chính trị, hay ngược lại lấy chính trị để giải thích sự hiện diện của nó. Như vậy chúng ta thấu hiểu một cách dễ dàng tại sao chính quyền Việt Mỹ nâng đỡ loại dân ca lỗi thời trên và tại sao quần chúng đi vào phong trào Sử ca, Kháng chiến ca.


Phong trào Sử ca, Kháng chiến ca

Trong một giai đoạn mà người ta không được nói thẳng cái cảm nghĩ hay thái độ của mình thì họ tìm cách nói gián tiếp, nhưng khi nghe thì ai cũng hiểu được ý muốn của họ. Đó là lý do xuất hiện của Phong trào Sử ca, Kháng chiến ca.

Những bài sử ca như Khúc khải hoàn, Hội nghị Diên Hồng, Bạch Đằng giang, Thăng Long hành khúc, Gò Đống Đa v.v… là những bài gián tiếp chống thực dân trước đây. Đó là những bài dành cho quần chúng đô thị trong cuộc tranh đấu khéo léo, tế nhị. Những bài Kháng chiến ca như Lên đàng, Du kích sông Thao, Tiếng hát sông Lô, An Phú đông, Nhạc tuổi xanh, Đường về quê v.v… là những bài dành cho cuộc tranh đấu trực tiếp chống lại thực dân Pháp vừa qua. Cả hai loại nhạc này nay lại được sinh viên học sinh Sài Gòn phục sinh thành một phong trào khá rầm rộ nhằm tạo một cuộc tranh đấu gián tiếp tại các đô thị. Chúng tôi gọi đó là phong trào Sử ca, Kháng chiến ca.


1. Đặc tính thứ nhất của phong trào là làm sống lại những trang sử oai hùng.

Giữa lúc chiến tranh khốc liệt và dai dẳng có thể làm cho nhiều người bi quan, tuyệt vọng về tương lai của đất nước thì vẫn còn rất nhiều người vẫn tin tưởng vào lịch sử, vào sức mạnh của dân tộc. Sử ca có tác dụng làm cho niềm tin trên vững vàng hơn. Niềm tin càng vững, tiếng hát lại càng mạnh với kẻ đã cố gắng dùng Sử ca để thổi một luồng gió dân tộc anh hùng vào các đô thị. Những bài ca này được kết lại thành những nhạc cảnh nên lại trở thành mới mẻ, lôi cuốn người thưởng thức.

Đại nhạc cảnh Việt Nam Gấm Vóc kể lại một huyền thoại hình thành giang sơn Việt Nam: Người Việt không muốn bị tiêu diệt nên đào đất đắp lên trụ đồng của Mã Viện; đất đào đi còn lại sông hồ, đất đắp nên thành núi, thành gò. Những bài Sử ca được dùng trong nhạc cảnh này là: Giòng sông Hát, Hồ Lãng Bạc, Du kích sông Thao, Chiều Yên Thế, Bạch Đằng giang, Gò Đống Đa, Tiếng sông Hương, Tiếng hát sông Lô, Cửu Long giang, Khúc Khải Hoàn.
http://dactrung.net/nhac/noidung.aspx?BaiID=
gNRuXOfl97v0SVGL1lYOgA%3d%3d


Đại nhạc cảnh Xuân Việt Nam vẽ lại hai mùa xuân dân tộc: một mùa xuân thanh bình có hội chùa hái hoa, trẩy lộc và một mùa xuân chinh chiến có cuộc tiến công đại phá hai mươi vạn quân Thanh. Những bài ca được sử dụng trong đại nhạc cảnh này là: Chùa Hương, Xuân và Tuổi trẻ, Thúc quân, Thăng Long hành khúc v.v…
http://dactrung.net/nhac/noidung.aspx?BaiID=
Yk9fI2llx7TihdKBCsTqUQ%3d%3d


Nhạc kịch Sơn Tinh, Thủy Tinh thể hiện ý chí vô cùng vĩ đại của dân tộc: nước càng lên cao, núi càng cao hơn nữa, cũng như không có một sức mạnh nào có thể phá vỡ được những con đê Việt Nam.


2. Đặc tính thứ hai của phong trào là ngợi ca, tán dương các cuộc chiến đấu chống chế độ thực dân

Sinh khí Kháng chiến ca còn bàng bạc trong lòng mọi người, Kháng chiến ca còn là hơi thở của người Việt hôm nay. Hễ nhạc trổi lên là máu trong người cuồn cuộn chảy. Đại nhạc cảnh Hoàng Hoa Thám thể hiện ý chí sắt đá của dân Việt không hề lùi bước trước quân sài lang. Đại vũ Lúa thơm đồng xanh diễn tả sinh hoạt nông thôn phục vụ chiến tranh giải thực:

Lúa của anh thơm trên đồng xanh,
Lúa người nghèo nuôi dân cả nước,
Lúa một trăm năm nuôi anh kháng chiến,
Lúa còn đời đời đuổi giặc xâm lăng.

Hoạt cảnh Bà mẹ Gio Linh thể hiện một bà mẹ Việt Nam điển hình trong cuộc chiến tranh giải thực.


Đặc tính thứ ba của phong trào là thức tỉnh trí thức đứng dậy cứu nước

Không có một giới nào trong xã hội lại bị chê bai mạt sát bằng giới trí thức. Hễ đất nước lâm nguy là bởi sĩ phu sa lầy trong quyền lợi nhất thời của cá nhân, trong hèn nhát, trong yếu đuối. Thảm trạng đó được mô tả rất nhiều trong văn chương.

Với hiện tình đất nước, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy nhiều vở kịch xuất hiện để công kích hay để thức tỉnh trí thức. Vở kịch Tiếng trống Hà Hồi mô tả tâm trạng ray rứt, dằn vặt của giới trí thức Bắc hà trong những ngày giặc Thanh xâm chiếm nước ta. Cho đến khi họ dứt bỏ được mọi ràng buộc của tư tưởng, của gia đình để ra đi cứu nước thì tiếng trống Tây Sơn đã nổi lên thúc quân đánh tan xâm lăng. Vở kịch Hàm Tử Quan mô tả tâm trạng sĩ phu Bắc hà trong thời đất nước bị giặc Minh xâm chiếm. Người thì vì quyền lợi riêng tư, viện đạo quần thần mà phù Trần diệt Hồ, người thì cho rằng nhà Trần vì chiếc ngai vàng mà cấu kết với quân Minh rước voi về giày mả tổ cho nên họ nhất định theo Hồ Quý Ly chiến đấu chống xâm lăng. Nhưng mấy ai thoát được vòng danh lợi, chọn con đường gian khổ mà đi, do đó Hàm Tử Quan trở thành một vết nhục trong Việt sử.

Chúng tôi nhận thấy không những người ta dùng Sử ca, Kháng chiến ca trên sân khấu mà ngay trong những sinh hoạt khác như trong những công tác xã hội, Hội thảo, Xuống đường tranh đấu, Đêm không ngủ v.v… Tiếng hát sông Lô, Du kích sông Thao, Lên đàng, Khúc Khải hoàn, Nhạc Tuổi xanh, Thanh niên ca, Đường về quê, An phú đông v.v… là những bài kháng chiến ca trên môi những người trẻ hiện đang bất mãn chế độ.

Sử ca, Kháng chiến ca trở thành một phong trào phản ảnh cảm nghĩ của quần chúng trước tình trạng hiện tại của đất nước. Do đó phong trào hàm chứa một ý nghĩa chính trị bất lợi cho chính quyền Việt Mỹ lúc bấy giờ. Cũng vì vậy, những nhà chính trị này lại khua đũa phù thủy triệt hạ phong trào bằng cách cũng ca ngợi những trang sử oai hùng bằng Sử ca và ngợi ca kháng chiến giải thực bằng Kháng chiến ca. Bài ca nào không thể hát được thì họ thay lời đổi nghĩa, phá cho hư thối đi, làm cụt hứng người nghe cho dù nghe lại nguyên bản. Ví dụ ở bài Tình Nước, câu cuối “Nằm kề nhau chờ giặc đến, Lòng súng nao nao”, đã bị đổi thành “Nằm kề nhau chờ trăng lên, Lòng thấy nao nao”. Trong bài Bà mẹ Gio Linh, chữ TÂY trong câu hát Nhà thì Tây đốt còn đâu, đã bị đổi thành .

Nhưng một hậu quả của hành động chính trị trên là sự hình thành của một phong trào Tranh đấu ca, tức là những bài ca nhắm thẳng vào chế độ mà tấn công, chớ không còn nói úp mở bóng gió gì nữa hết. Quần chúng lại tiến lên một bước nữa trong cuộc tranh đấu và nhờ hiện tượng này, chúng ta càng hiểu rõ chủ tâm của phong trào Sử ca, Kháng chiến ca vậy.

© 2004 talawas