trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 227 bài
  1 - 20 / 227 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Dịch thuật
18.2.2006
Nguyễn Duy Bình
Một giải Goncourt bị "gông cổ"
 
Ngày nay, chúng ta không còn ngạc nhiên trước một bản dịch có vấn đề nữa. Phần lớn những bản dịch ẩu được ký tên bởi những dịch giả trẻ, thiếu kinh nghiệm hoặc những người làm trái nghề (dịch giả tay ngang). Nhưng chúng ta cũng có thể tìm thấy những bản dịch tương tự mà tác giả của nó là những dịch giả có tiếng, có nhiều kinh nghiệm. Đặc biệt đó là những bản dịch các tác phẩm lớn của thế giới. Bản Việt ngữ Tôi đi đây của Phạm Văn Ba dịch từ tiểu thuyết Je m'en vais của Jean Echenoz, tác phẩm đoạt giải Goncourt năm 1999, là một thí dụ tiêu biểu.

Dịch giả Phạm Văn Ba sinh năm 1959. Tức là vào thời điểm bản dịch này được hoàn tất (2002), ông không còn trẻ nữa. Phạm Văn Ba đã từng du học ở Pháp, điều này cho ta giả thiết rằng ông không phải không biết tiếng Pháp và văn hóa Pháp. Việc ông đã từng đoạt Giải thưởng văn học dịch với bản dịch Les Yeux baissés (Đôi mắt nhìn xuống) của Tahar Ben Jelloun chứng tỏ ông là một dịch giả có tầm cỡ. Mà thông thường thì dịch giả tầm cỡ thường dịch các tác phẩm tầm cỡ. Có lẽ vì thế mà ông đã chọn dịch Je m'en vais của Jean Echenoz.

Thế nhưng, tôi thật sự ngỡ ngàng khi đọc so sánh bản gốc và bản Việt ngữ của dịch giả này. Bản dịch này đầy rẫy những lỗi và lỗi. Những lỗi dịch này không phải do vô tình hay hữu ý mà do trình độ tiếng Pháp và văn hóa Pháp của người dịch chưa đúng tầm để dịch một tác phẩm văn học, để dịch một giải Goncourt lại càng không. Trước một bản dịch như vậy, tôi không thể làm gì khác là liệt kê ra đây những lỗi dịch tệ hại nhất khiến bạn đọc nào chỉ biết chút ít tiếng Pháp thôi cũng phải giật mình… [1]


1.

Pas de nom sur cette porte, juste une photo punaisée, gondolée aux angles et représentant le corps sans vie de Manuel Montoliu, ex-matador recyclé péon après qu’un animal nommé Cubatisto lui eut ouvert le cœur comme un livre le 1er mai 1992. (9)

Trên cánh cửa, không ghi tên chủ nhân, chỉ có một bức ảnh đóng đinh ghim, các góc đã bong ra phồng lên, in hình thi thể của Manuel Montoliu, dũng sĩ đấu bò tót gốc gác nông phu, bị con bò Cubatio đâm thủng tim, hình như đó là bìa một cuốn sách đề ngày 1 tháng 5 năm 1992. (9)

Chỉ vọn vẹn chưa đầy 3 câu mà dịch giả đã mắc phải hai lỗi khá nặng ex-matador recyclé péon đâu phải là dũng sĩ đấu bó tót gốc gác nông phu. Đó là một người đã từng là dũng sĩ đấu bò tót sau phải bị hạ bậc thành "phụ tá" (péon) chứ! Tệ hại hơn nữa, theo nguyên bản, vào ngày 1 tháng 5 năm 1992, con bò tót tên là Cubatio phanh thây dũng sĩ này ra như một cuốn sách mở toang hoác, thế mà dịch giả lại viết là hình như đó là bìa một cuốn sách đề ngày 1 tháng 5 năm 1992!

Ngoài ra, bức ảnh đóng đinh ghim được miêu tả là quăn mép / vênh góc, chứ không « bong ra phồng lên » như trong bản dịch.


2.

Il y tua un peu de temps avant de faire enregistrer ses bagages et de trainer en zone détaxée où il n’acquit aucun alcool ni tabac ni parfum ni rien. (11)

Ferrer giết một phần thời gian ở đây trước khi vào làm thủ tục đăng ký hành lí ở khu vực miễn thuế vì anh ta không đem theo rượu, thuốc lá, nước hoa, không có gì hết. (12)

Dịch giả Phạm Văn Ba chắc đã đi máy bay ít nhất vài lần rồi. Xin mạn phép được hỏi là có bao giờ người ta làm thủ tục đăng ký hành lý ở khu vực miễn thuế không? Mà lại vì không đem theo rượu, thuốc lá… nữa chứ! Ở đây ý tác giả muốn nói rằng Ferrer giết một phần thời gian ở đó trước khi làm thủ tục gửi hành lý và (trước khi) lang thang trong các cửa hàng miễn thuế mà không mua gì, rượu, thuốc lá cũng không mà nước hoa cũng không.


3.

Ferrer va distinguer une étendue de mer, ornée d’une île qu’il ne pourra identifier, puis une étendue de terre au cœur de laquelle c’est un lac, cette fois, dont il ne connaîtra pas le nom. (12)

Ferrer nhìn thấy mặt biển rộng mênh mông bao quanh hòn đảo quen thuộc, rồi một giải đất ở giữa là một cái hồ, đến lúc này thì chịu, không thể xác định vị trí phía dưới được nữa. (12)

Theo bản gốc, chẳng có hòn đảo nào là quen thuộc với Ferrer cả (và đây là chủ ý của tác giả khi để Ferrer bay vào một thế giới xa lạ, lạc lõng, khó định hình). Ferrer nhận rõ một vùng biển được trang điểm bằng một hòn đảo mà anh không biết đến. Cho nên câu "đến lúc này thì chịu" không phải do Ferrer nói mà là do dịch giả nói.

Lỗi quan trọng của câu này là không dịch ở thời tương lai. Một vùng biển và một vùng đất. « Cette fois » phải nói rõ hơn một chút : sau khi nói đến biển thì nói đến đất, lần này tương ứng với vị trí hòn đảo trên biển là vị trí cái hồ ở giữa vùng đất. Cả hòn đảo và cả cái hồ Echenoz đều chỉ muốn nói là Ferrer không biết tên thôi, không phải « xác định » gì hết.


4.

Il somnole, il suit nonchalamment sur un écran quelques prégénériques de films qu’il a du mal à regarder jusqu’au bout, distrait par les allées et venues des hôtesses qui ne sont peut-être plus ce qu’elles ont été, il est parfaitement seul. (12)

Ferrer cảm thấy buồn ngủ, nhưng vẫn mơ màng theo dõi trên màn hình vô tuyến những hình ảnh giới thiệu về một bộ phim mà chắc là sẽ rất khó khăn mới xem cho hết được, rồi lại lơ đễnh nhìn mấy cô chiêu đãi viên đi lại, hình như lúc này họ không giống như mọi khi, tâm trạng của Ferrer lúc này hoàn toàn cô độc. (13)

Ở đây dịch giả bị cách hành văn của Jean Echenoz đánh lạc hướng. Thứ nhất, cách dịch của Phạm văn Ba khiến người đọc nghĩ rằng Ferrer sẽ không thể xem hết bộ phim và hành động "lơ đễnh nhìn" là hành động tiếp theo. Dịch giả không lột tả được ý đồ của tác giả. Đúng ra là các cô tiếp viên hàng không (ắt hẳn là xinh đẹp) đi đi lại lại khiến cho Ferrer mất tập trung nên không xem hết được phần giới thiệu những bộ phim sẽ chiếu trong suốt hành trình.


5.

Ferrer arrive et se fait un café, absorbe deux Effaralgan, ouvre son courrier dont il jette l’essentiel, touche un peu aux papiers qui traînent et patiente jusqu’à dix heures en luttant vaillamment contre l’idée d’une première cigarette. (15)

Ferrer đến xưởng, pha một tách cà phê, uống hai viên Efferalgan sủi, mở mấy bì thư, chỉ liếc đọc phần quan tâm, vuốt phẳng vài tờ giấy bị nhàu và kiên nhẫn cho đến mười giờ, định hút thêm một điếu thuốc nữa nhưng kiên quyết cưỡng lại. (17)

Có câu đơn giản vậy thôi mà Phạm Văn Ba sai đến ba lỗi. Ferrer mở thư đọc qua loa (bỏ qua phần quan trọng) thì được dịch thành "liếc đọc phần quan tâm"; xếp vội mấy tờ giấy rơi vương vãi thì dịch là "vuốt phẳng vài tờ giấy bị nhàu"; Ferrer cưỡng lại ý muốn hút điếu thuốc đầu tiên thì dịch thành "định hút thêm một điếu thuốc nữa"! Như thế chẳng oan cho nhân vật bị bệnh tim mạch này không?


6.

Un petit coffre-fort dont Ferrer avait oublié depuis longtemps la combinaison. (16)

Một chiếc két sắt mà từ lâu Ferrer đã quên không chú ý tới sự hiện diện của nó. (18)

Ở đây là một két sắt nhỏ mà Ferrer đã quên mã số. La combinaison được hiểu là La combinaison des chiffres. Chứ đâu phải Ferrer không chú ý sự hiện diện của nó. Cả gia tài ở đó ai mà quên được cơ chứ?


7.

Il ne parvint à s’entretenir un peu qu’avec un jeune matelot timide, vulnérable et musclé, qui attira son attention sur quelques oiseaux de passage. (20)

Anh ta chỉ làm quen được với một thuỷ thủ trẻ có vẻ nhút nhát, dễ xúc động nhưng khoẻ mạnh, vạm vỡ, anh ta đang chăm chú dõi theo những con chim bay ngang qua bầu trời. (23)

Không phải Ferrer làm quen được với viên thủy thủ này mà chỉ nói chuyện đôi ba lời với anh ta thôi. Lại nữa, không phải anh ta đang chăm chú theo dõi những con chim bay ngang qua bầu trời mà anh ta đang chỉ cho Ferrer những con chim đó.


8.

Et dans lesquels on triche aux cartes en attendant vainement les contrordres. (22)

Và trong những chiếc tàu ngầm đó, thuỷ thủ đoàn nói chuyện với nhau bằng những lời giả dối trong thời gian đợi chờ vô vọng những mệnh lệnh mới. (25)

Rõ ràng theo bản gốc thì thủy thủ đang gian lận trong cờ bạc thế mà Phạm Văn Ba lại dịch là "nói chuyện với nhau bằng những lời giả dối" là nghiã làm sao? Trên cơ sở nào?


9.

La Scandinavie car c’est d’elle qu’arrivèrent les premiers explorateurs du coin, la Russie car elle n’est pas bien loin, le Canada car il est proche et les États-Unis car les États-Unis. (22)

Bán đảo Scandinave, những người thám hiểm đầu tiên đặt chân tới vùng đất này là người Nga, bởi nước Nga cách đây chẳng xa xôi gì, rồi Canada cũng là một quốc gia gần gũi, rồi Hợp chủng quốc Hoa Kỳ cũng tương tự như vậy. (25)

Theo bản gốc, các nước tranh chấp địa điểm này vì lý do sau: Bán đảo Scandinave vì những người đầu tiên khám phá ra địa điểm nói trên đã đến từ nước này, nước Nga vì không xa khu vực đó lắm, nước Canada vì nằm gần đó và Hoa Kỳ đơn giản vì đó là Hoa Kỳ. Chứ hoàn toàn không phải như Phạm Văn Ba đã dịch.


10.

Quelques carcasses de phoques desséchées, pendues à des gibets, souvenirs de réserves alimentaires ainsi protégées des ours blancs. (23)

Một vài bộ xương chó biển phơi khô treo lủng lẳng trên những chiếc giá, dấu tích của việc dự trữ thức ăn cũng như phương cách tự vệ chống lại loài gấu trắng. (26)

Tôi đoan chắc rằng người đọc câu dịch này của Phạm Văn Ba sẽ lắc đầu ngán ngẩm vì không hiểu sao ông Echenoz lại viết như thế. Xin thưa là Echenoz không muốn nói là người dân treo chó biển lên giá để dọa gấu trắng (hay "tự vệ chống lại") mà chẳng qua là để lũ gấu trắng khỏi ăn mất phần mà thôi!


11.

Il n’emprunta ces dernières œuvres qu’une fois certain du lien de Brigitte avec le radio-télégraphiste. (23)

Ferrer chỉ mượn những tác phẩm mới nhất cho tới khi biết rõ mối quan hệ của Brigitte với người điệp báo viên. (26)

Câu dịch này của Phạm Văn Ba cũng không đúng với tinh thần của bản gốc. Theo bản gốc thì Ferrer chỉ mượn những cuốn sách đó một khi đã biết chắc mối quan hệ giữa Brigitte với anh chàng điệp báo viên. Chứ không phải anh ta mượn sách cho đến khi biết rõ mối quan hệ này rồi lánh luôn!


12.

Ferrer n’hésita bientôt plus à s’inventer tous les deux jours des affections faciles à simuler – céphalées, courbatures. (23)

Ferrer không đắn đo thêm nữa mà cứ hai ngày một lần, bịa ra những ngón tình cảm trìu mến giả vờ - đau đầu, đau mình mẩy. (27)

Ở đây không có "ngón tình cảm trìu mến giả vờ" nào hết! "Affections" đây là tình trạng viêm, nhiễm (nó có nghĩa là tình yêu thương nhưng không phải trong ngữ cảnh này!). Thực ra thì Ferrer bịa ra mình bị đau bệnh này, nhiễm bệnh kia (những bệnh có thể giả vờ một cách dễ dàng như đau đầu, mỏi cơ) để được cô kia chăm sóc đấy chứ!


13.

C’est le truc typique haussmannien, vous voyez, dit l’agent… (28)

Lắm mánh khoé, đặc trưng của nghề môi giới, cho thuê bất động sản để thuyết phục người thuê nhà với giá cao nhất, anh thấy không, nhân viên của hãng cất tiếng nói dẻo quẹo. (33)

Câu tiếng Pháp rất đơn giản: Nhân viên bất động sản nói: anh thấy đấy, đây là kiểu kiến trúc đặc trưng Haussmann. Thế mà dịch giả Phạm Văn Ba không biết tìm đâu ra những "mánh khóe" (chắc là dịch giả đã dịch từ "truc"), "nghề môi giới", "cho thuê bất động sản… cao nhất" (có lẽ dịch giả thấy trong chữ "haussemannien" có âm [O] (haut?) nên dịch là cao nhất!), rồi "dẻo quẹo"? Dịch như thế không phải là "diệt" sao?


14.

Puis ne prêtant qu’une oreille distraite aux propos embrouillés de Delahaye il va tout faire pour, l’air de rien, se rendre intéressant auprès d’elle et croiser un maximum de ses regards. (29)

Rồi một tai lơ đễnh hướng về những điều Delahaye đang nói lộn xộn, Ferrer vẫn tiếp tục công việc của mình đang dở, như không có chuyện gì xảy ra, mọi cử chỉ tỏ ra thật hấp dẫn và tìm cách đánh mắt liếc nhìn thật nhiều về phía cô gái. (35)

Trong bản tiếng Pháp, Ferrer không có việc gì đang làm dở cả! Lúc này Ferrer chỉ tập trung tìm mọi cách để tỏ ra mình là một thằng đàn ông hấp dẫn và cốt làm sao để liếc mắt đưa tình người phụ nữ đó. Câu dịch của Phạm Văn Ba thêm thắt phịa chuyện làm cho chất lượng câu văn bị giảm rõ.


15.

C’est d’abord un local minable qui découvre généralement l’objet. (31)

Trước hết phải có một cơ sở kiểm tra sơ bộ các món đồ. (36)

Câu của Echenoz có nghiã là: "Một tay địa phương khốn khổ là người đầu tiên phát hiện ra đồ vật". Thế mà Phạm Văn Ba lại dịch là "một cơ sở kiểm tra sơ bộ các món đồ".


16.

Récupérer un trousseau de clefs avec les dents au fond d’une bassine de ketchup. (33)

Mò chùm chìa khoá có những chiếc răng nhọn nằm dưới đáy một chậu nước sốt cà chua. (39)

Trong truyện thì trên tàu, Ferrer bị thử thách bằng những trò tác oai tác quái, chẳng hạn như trong câu trên thì anh phải ngụp xuống chậu xốt cà chua và dùng hai hàm răng ngoạm chùm chìa khóa lên. Phạm Văn Ba lại dịch là mò chùm chìa khóa… có những chiếc răng nhọn! Mò thế bằng tay, thậm chí bằng chân, đâu có khó gì?


17.

Il n’y eut au fond qu’un événement, lorsque pour des raisons techniques on s’arrêtera au milieu de la banquise. (34)

Vì lí do kỹ thuật, con tàu phải dừng lại giữa lớp băng, phía dưới đáy tàu đã có chuyện gì xảy ra. (41)

"Il n'y eut au fond qu'un événement" không có nghĩa là dưới đáy tàu đã có chuyện gì xảy ra mà là "xét cho cùng thì chỉ có một sự cố". Au fond có nghiã là "xét cho cùng", hay đơn giản là "thực ra".


18.

C’est qu’elle s’est encore endormie la veille sous les UV, la pauvre, elle a été un petit peu surdosée (48)

Hôm qua, chắc cô ta ngủ dưới đèn UV lâu quá, tội nghiệp, và đã uống hơi quá chén một chút. (56)

Không phải "chắc" mà là "chắc chắn". Cô ta đâu có uống rượu mà bảo cô ta hơi quá chén cơ chứ? "Surdosée" ở đây có nghĩa là "ngâm mình dưới đèn cực tím hơi quá đà"!


19.

Il s’éveilla plus tard que d’habitude et sans s’être aperçu de rien. Il n’imaginait pas un instant qu’il venait d’être victime de ce qu’on appelle d’un bloc auriculo-ventriculaire. (58)

Càng về sau, khi tỉnh dậy cũng giống như mọi khi, anh ta không nhận ra cái gì đã xảy ra với cơ thể mình. Một thoáng anh ta không nghĩ rằng mình vừa trải qua một cơn đột quỵ nhẹ do khối tâm nhĩ thất gây ra. (67)

Không phải "khi tỉnh dậy cũng giống như mọi khi" mà là "Anh ta thức dậy muộn hơn ngày thường". Không phải "anh ta không nhận ra cái gì đã diễn ra với cơ thể mình" mà là anh ta không nhận thấy gì cả. Không phải "Một thoáng anh ta không nghĩ rằng" mà là "anh ta không mảy may nghĩ rằng". Nếu Phạm Văn Ba dịch thế thì chắc độc giả không hiểu gì hết!


20.

Comme un cran d’arrêt qui se déclenche sans prévenir, de petites lames de vent acéré se levaient parfois pour couper leur élan, ralentir leur allure. (83)

Không thể nào dự kiến được các điểm dừng chân giải lao nghỉ ngơi, những lưỡi gió sắc lạnh đôi khi bùng lên chặn ngang bước tiến của họ, làm cho cuộc hành trình đã chậm lại càng chậm hơn. (95,96)

Ở những câu khó, thiên về kỹ thuật như thế này, dịch giả bí quá đành phịa chuyện ra. Trong nguyên bản không hề có khái niệm "điểm dừng chân giải lao nghỉ ngơi". Nếu dịch giả chịu khó tra tự điển (cẩn thận khi dịch) thì sẽ biết ngay rằng "un couteau à cran d'arrêt" là một con dao nhíp. Echenoz dùng hình ảnh ẩn dụ này để miêu tả những đợt gió giật mạnh và sắc như những lưỡi dao. Theo tôi nên dịch là: "Như con dao bật ra bất ngờ, những lưỡi gió nhỏ, sắc lạnh thi thoảng bung lên để chặn ngang, kìm hãm đường đi của họ".


21.

Que ce bâtiment fût un club, une annexe, un foyer, Ferrer ne le saurait jamais au juste vu qu’il était toujours vide et le gérant muet. En tout cas pas bavard car peut-être au fond se méfiait-il, rares étant les touristes dans ces bleds oubliés des hommes et de Dieu : journées interminables, les distractions sont nulles, il y fait un temps de chien. (95)

Ngôi nhà nơi Ferrer tạm trú là một câu lạc bộ, một phần cơi nới thêm giống như một chái bếp, Ferrer không thể hình dung được nó là cái gì, lúc nào cũng trống trải, người quản lý với vẻ mặt im lìm thường trực. Nơi đây hình như chẳng có một cuộc chuyện trò, giao lưu nào cả, có lẽ vùng đất này đã bị con người và Chúa lãng quên mất rồi, thỉnh thoảng chỉ thấy một vài du khách hiếm hoi. Ngày dài lê thê, chẳng có cái gì gọi là để giải trí, giết thời gian ở nơi đây, đúng là chó má thật. (108)

Điều mà Phạm Văn Ba dịch hoàn toàn đi ngược với bản dịch. Trong bản gốc, Echenoz không khẳng định ngôi nhà Ferrer tạm trú là "một câu lạc bộ, một phần cơi nới thêm giống như một chái bếp"! Hơn nữa, dịch giả lại bịa ra là "Nơi đây hình như chẳng có một cuộc chuyện trò, giao lưu nào cả", là "giết thời gian ở nơi đây, đúng là chó má thật". Echenoz không nói những gì mà Phạm Văn Ba đã dịch. Đoạn này nên hiểu là: "Cho dù tòa nhà này có là một câu lạc bộ, một nhà phụ hay một nhà trọ thì Ferrer có lẽ không bao giờ biết được vì nơi đây khi nào cũng vắng người còn ông quản lý thì như bị câm ấy. Đúng hơn là ông ta ít chuyện trò chắc vì nghi ngại, ở những nơi xa xôi hẻo lánh, người không biết, Chúa không hay này du khách hiếm hoi lắm: ngày dài lê thê, các trò giải trí không có gì hay, thời tiết lại xấu đến tệ hại!".


22.

Deux sujets prévoyants, profitant du dégel, creusaient des trous dans le sol momentanément meuble en vue d’ensevelir ceux de leurs proches qui mourraient pendant l’hiver prochain. (97)

Có hai người, lợi dụng lúc tan băng, đào những cái lỗ trên nền đất mai táng người thân của họ bị chết trong mùa đông vừa qua. (110)

Ở đây dịch giả dịch sai một cách tai hại, một cách chết người. Tôi nói không ngoa bởi vì theo nguyên bản, "Có hai người tính tình lo xa (prévoyants), nhằm lúc tan băng để đào huyệt trên vùng đất lúc ấy đang tơi xốp để chôn cất những người thân có khả năng mùa đông tới sẽ qua đời". Tức là theo bản tiếng Pháp, những người thân này chưa chết mà chắc là ốm đau hay già cả. Thế mà Phạm Văn Ba lại cho những người này... chết trước thời hạn ("bị chết trong mùa đông vừa qua"). Dịch như thế thật đúng là "diệt"!


23.

S’il n’a pas quitté ce quartier de la rive gauche, il a changé d’établissement. Il est maintenant installé carrefour de l’Odéon qui, d’habitude, n’est pas l’endroit idéal pour prendre un verre bien qu’il se trouve toujours des gens pour se dévouer. (141)

Nếu như anh ta chưa từ giã khu phố bên tả ngạn, điều đó có nghĩa là anh ta đã thay đổi chỗ làm ăn rồi. Lúc này, phòng trưng bày và kinh doanh của anh phải là một nơi lý tưởng cho việc giao dịch mặc dù ở đó lúc nào cũng có đủ những hạng người để mà hết lòng vì nhau. (154)
Theo bản gốc, không hế có khái niệm "chỗ làm ăn", "phòng trưng bày và kinh doanh", "việc giao dịch" vv. Dịch giả không hiểu Echenoz nói gì nên bịa chuyện ra để lấp đầy khoảng trống. Thực ra ở đây nhân vật này chỉ đổi quán café thôi. Vì vậy, đoạn này nên dịch là: "Anh ta dù chưa ra khỏi khu phố tả ngạn này nhưng đã sang quán café khác. Bây giờ anh ta đang ngồi trong quán café Ngã Tư Odéon. Thông thường thì nơi đây không phải là nơi lý tưởng để làm một ly mặc dù ở đó luôn có những người mà mình có thể giãi bày tâm sự".


24.

Il eut un geste machinal pour ranger ses cheveux sales qu’avait empesés, par plaques, la solution conductrice de l’électro-encéphalographie de routine subie au moment de son admission. (167, 168)

Một cử chỉ rất máy móc là đưa tay lên đầu vuốt lại mớ tóc dích bết vì lâu ngày không tắm gội, bởi khi nhập viện, Ferrer bù đầu với công việc không còn đâu thời gian để mà vệ sinh nữa. (183)

Trong câu tiếng Pháp không hề có chuyện "Ferrer bù đầu với công việc không còn đâu thời gian để mà vệ sinh nữa". Đọc kỹ bản gốc thì sẽ thấy rằng nhân vật này nhập viện trong tình trạng bất tỉnh nhân sự. Thế thì còn làm gì trong bệnh viện cơ chứ? Dịch giả lại đổ tội cho nhân vật sống bẩn thỉu vì…"lâu ngày không tắm gội"!. Trong bản tiếng Pháp không hề nói đến những chuyện ấy. Tôi tạm dịch: "Anh ta máy móc đưa tay lên vuốt mái tóc dơ bẩn của mình, mái tóc bị đóng cứng thành từng mảng bởi dung dịch mà người ta đã bôi lên đầu anh để ghi điện đồ não khi nhập viện".


25.

D’ailleurs elle n’avait jamais soigné personne, préférant aux patients répétitifs la recherche fondamentale qu’un héritage plus une pension alimentaire lui avaient permis d’abandonner, de toute façon, depuis deux ans. (175)

Trên thực tế cô ta không điều trị cho ai cả, mà chỉ giúp những bệnh nhân trong giai đoạn họ cần có người trông nom, chăm sóc bên cạnh, cho bệnh nhân ăn uống, nhưng hai năm nay cô ấy đã bỏ nghề. (190)

Trong bản tiếng Pháp, việc nhân vật này "giúp những bệnh nhân trong giai đoạn họ cần có người trông nom, chăm sóc bên cạnh, cho bệnh nhân ăn uống" không hề được nhắc tới. Dịch giả hiểu sai hoàn toàn câu văn của Jean Echenoz nên dịch ẩu, dịch bừa. Ở đây nên hiểu là cô gái này thích công việc nghiên cứu (recherche fondamentale) ở phòng thí nghiệm hơn là phải ngày này qua tháng nọ chăm sóc bệnh nhân (patients répétitifs). Nhưng từ hai năm nay, tiền thừa kế và khoản trợ cấp ăn uống đã cho phép cô ta nghỉ làm việc đó.

v.v... và v.v…

Người viết bài này không có ý "vạch lá tìm sâu, bới lông tìm vết" mà chỉ có tham vọng góp phần gạn đục khơi trong cho nền dịch thuật văn học ở Việt nam. Nói không quá lời, bản dịch Tôi đi đây của Phạm Văn Ba có quá nhiều lỗi mà tôi khẳng định là do trình độ tiếng Pháp của người dịch [2] chưa được nhuần nhuyễn để có thể hiểu một tác phẩm như thế. Những lỗi mà tôi đã nêu trên chỉ là một 1/5, 1/6 tổng số lỗi mà trên thực tế tôi đã thống kê được. Có nhiều lý do thúc đẩy tôi viết bài này: Thứ nhất, dịch giả Phạm Văn Ba không còn trẻ, ít nhiều đã có kinh nghiệm, đã từng đạt giải thưởng Văn Học dịch, đã từng du học ở Pháp v.v. Thứ hai, bản dịch này do NXB Hội Nhà văn ấn hành. Một NXB lớn như thế mà lại cho in một bản dịch có hàng trăm lỗi như thế thì có chấp nhận được không? Thứ ba, đây là một tác phẩm đạt giải Goncourt. Một tác phẩm lớn của một nền văn học lớn của thế giới. Tác phẩm đó đáng lẽ các nhà xuất bản, các dịch giả, các nhà văn, nhà nghiên cứu phải quan tâm nhiều, phải tổ chức dịch cẩn thận, hiệu đính và… đọc. Thật đáng buồn là điều đó đã không xảy ra như mong đợi. Tôi đi đây là lời chào từ biệt của nhân vật Ferrer trong tác phẩm, đó cũng là lời chào thoái lui của dịch giả bất lực nhìn theo bản dịch bất thành. Tôi đi đây phải chăng cũng là lời chào thoái thác trách nhiệm của NXB Hội Nhà văn, sự quay lưng của độc giả Việt Nam với nền văn học Pháp? Tôi đi đây!

© 2006 talawas



[1]Bản tiếng Pháp: "Je m'en vais" của Jean Echenoz, Nhà xuất bản Minuit ấn hành năm 1999. Bản Việt ngữ của Phạm Văn Ba là "Tôi đi đây", NXB Hội Nhà Văn ấn hành năm 2002. Số trong ngoặc đơn là số trang.
[2]Theo thiển ý của tôi, cần phân biệt giữa hai tên gọi "người dịch" và "dịch giả". Trước đây, ở bìa một sách dịch, các nhà xuất bản thường đề là người dịch. Chúng ta có thể gọi người dịch là người vừa bắt đầu nghề dịch, hoặc chỉ dịch với tư cách không chuyên và trình độ dịch chưa được khẳng định. Chỉ nên gọi là dịch giả khi đó là người dịch văn học chuyên nghiệp, tay nghề đã được khẳng định và các tác phẩm dịch của ông ta sống được với thời gian. Báo chí lâu nay dùng mỹ từ "dịch giả" hơi bừa bãi khiến một số người dịch không ra gì cũng diễu võ dương oai, tự cao tự đại, hoặc chủ quan.