trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
Tư tưởng
Lịch sử
  1 - 20 / 227 bài
  1 - 20 / 227 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tư tưởngLịch sử
9.2.2008
Hồ Bạch Thảo
Quỹ tín dụng của đất nước
 1   2 
 
Nói đến tín dụng mọi người nghĩ ngay đến thẻ credit card để vay tiền trả góp; điều đó không sai. Người Việt mình [ở Hoa Kỳ] chăm trả, lại có khi trả trước cho mau hết nợ, nên được các chủ ngân hàng tín nhiệm tăng tiền cho vay; bằng cách cho đổi từ thẻ thường, sang thẻ bạc, đến thẻ vàng v.v… Tín nhiệm đến nỗi càng vay nhiều càng tốt, tiền lời giảm, lại có thêm quà cáp.

Bàn về tín dụng của đất nước, thường người ta liên tưởng đến trữ lượng vàng, bạc nằm trong ngân khố. Nhưng lãnh vực này không nằm trong chuyên môn của người viết, tại đây chỉ muốn bàn đến lòng quả cảm quyết chiến của một dân tộc, làm một thứ “tín dụng” bảo đảm, để nhiều trường hợp không bị ngoại bang ăn hiếp. Theo tài liệu về việc tiêu phí chiến tranh ghi trong Google, như chiến tranh Iraq nếu kéo dài đến năm 2010 thì Hoa Kỳ có thể tốn đến 600 tỷ đô la. Bởi vậy nếu cái uy dũng của một dân tộc giúp tránh được những cuộc chiến trong lịch sử, thì “tín dụng” đó còn cao hơn số lượng tài sản trữ trong ngân khố nhiều lần; riêng sinh mệnh con người thì hẳn là không tiền nào mua được. Tín dụng này có giá trị hai chiều:
  • Đối nội, mọi người tin rằng một khi thực sự bị xâm lăng thì toàn dân quyết đánh.
  • Đối ngoại, kẻ ôm mộng xâm lăng phải kiêng dè, không dám liều lĩnh.
Qua lịch sử, xin nêu lên một vài bằng chứng đã xẩy ra:
  • Dưới đời Trần, Nguyên Thế Tổ gửi một đạo dụ cho vua Trần Nhân Tông vào năm 1291, trong đó thú thực rằng vì mất Toa Đô, Ô Mã Nhi nên tạm thời chưa sang đánh nước ta:

    ...Vì viên Trấn nam Vương trẻ tuổi nông nổi tiến quân bằng đường thủy, sai lầm không nghe lời chỉ bảo nên bọn Toa Đô, Ô Mã Nhi mới rơi vào tay ngươi; nhờ vậy ngươi mới được tạm thời được yên ổn… [1]

    Năm sau (1292) lập An Nam Hành tỉnh, sai Lưu Nhị Bạt đô đóng quân ngày biên giới để lăm le sang đánh, nhưng rút cuộc không dám.

  • Vào đời nhà Thanh, nhân được tin vua Quang Trung mất; vua Càn Long điều danh tướng Phúc Khang An đến ngay biên giới hờm sẵn, và cho Thành Lâm sang nước ta mượn cớ phúng điếu để dò la. Nhưng nội bộ ta lúc bấy giờ không có triệu chứng nội loạn, lại nghĩ đến sự thảm bại trước kia tại thành Thăng Long, nên đành phải bóp bụng làm lành. [2]
Riêng nhà Minh thì rất lý thú, vua Gia Tĩnh muốn rửa mối nhục của các vua trước, nên định mang quân sang đánh nước ta. Nhưng các đạI thần lúc bấy giờ lần lượt vạch ra rằng An Nam không dễ khuất phục, cùng nêu rõ bánh xe đổ của tổ tiên dưới thời Vĩnh Lạc [1403-1424]; những lời nói thẳng này đã thực sự làm lung lay lòng tham của vua này. Sử liệu đề cập đến sự việc này tương đối nhiều và khá dài dòng, nhưng chúng tôi không dám bỏ sót; vì nghĩ rằng tìm hiểu quá khứ rất khó được chính xác, nhất là việc xảy ra cách hàng sáu trăm năm về trước. Bởi vậy mỗi tài liệu như một tấm hình chụp lại quá khứ, càng có nhiều hình càng thấy rõ vấn đề một cách toàn diện.

Sự việc khởi đầu bởi tin mừng nhà vua mới sinh con trai đầu lòng, bèn sai sứ sang báo tin cho nước Triều Tiên và nước ta và nhân dịp để thăm dò tình hình:

Ngày 30 tháng 10 năm Gia Tĩnh thứ 15 [13/11/1536]

Thiên tử trực tiếp dụ quan Thượng thư bộ Lễ, Hạ Ngôn, rằng:

“Hoàng Thái tử mới sinh đã ban chiếu cáo cho thiên hạ biết; cớ sao riêng các nước ngoại quốc phải đợi đến lúc sách phong mới sai sứ ban chiếu dụ cho hay. Trong cõi trời đất có trăm nơi, Hoa và Di đều coi như nhau; sau này sách phong lại ban chiếu cho biết lần nữa; khanh nên bàn cách thi hành.”

Ngôn tâu xin sai một viên quan Hàn Lâm làm Chánh sứ, một viên Cấp sự trung làm Phó sứ; mang chiếu thư đến dụ hai nước Triều Tiên, An Nam; đợi đến ngày sách phong lại sai đi một lần nữa. Thiên tử mệnh cho thi hành. [3]

Sứ giả đi đến nước ta, nhưng giữa đường phải trở về, vì trong nước lúc bấy giờ có loạn lạc nên kẹt đường không vào được. Lợi dụng tình trạng trong nước ta “cò trai đang cắn nhau”, vua Minh Thế Tông tức Gia Tĩnh muốn dùng thế “ngư ông đắc lợi” định sang đánh nước ta. Quyết định bắt đầu từ năm 1536, nhưng mãi đến năm 1540 mới đòi được Mạc Dung đến biên giới làm lễ đầu hàng một cách đầy hình thức, vì thực sự không có một tên quân nào đặt chân đến lãnh thổ nước ta. Trong thời gian 4 năm dài, xẩy ra cuộc tranh cãi lớn trong nội bộ triều đình nhà Minh về vấn đề đánh hay không nên đánh, có những đại thần, tướng lãnh được giao việc này lại tìm mọi cách để từ chối, dù bị cách chức.

Nói có sách, mách có chứng”; chúng tôi xin lần lượt giới thiệu từng văn bản để chứng minh rằng “quỹ tín dụng” quốc gia về lòng quyết tâm giết giặc, đã làm chùn chân đối phương. Xin hãy đọc qua lời đề nghị bộ Lễ nhà Minh, rồi đến quyết định của vua Thế Tông mang quân sang đánh nước ta:

Ngày 3 tháng Một năm Gia Tĩnh thứ 15 [16/11/1536]

Trước đây Thiên tử lên ngôi, ban chiếu dụ cho An Nam, vì đường lối ngăn trở không đến được, nên phải trở về. Đến nay Hoàng thái tử sinh, lại sai sứ đem chiếu dụ đến. Bộ Lễ tâu rằng An Nam không làm tròn chức cống đã 20 năm nay; trước đây Thủ thần Lưỡng Quảng tâu Lê Huệ [Chiêu Tông], Lê Quảng [Cung Hoàng] không phải dòng đích do Lê Trừu [Tương Dực] lập; Mạc Đăng Dung, Trần Cảo đều là giặc soán nghịch; nay đúng lúc phải sai sứ đi hỏi tội, lấy danh Thiên tử để thay trời thảo phạtr. Lại gần đây quan Thủ thần Vân Nam tâu rằng bọn vong mệnh An Nam là Vũ Nghiêm Uy xâm phạm lãnh thổ, bắt Thổ quan, nên cùng khám xét chung. Phái đoàn trước đi bị ngăn trở vì đường sá không thông, nay tạm đình sai đi, để giữ vẹn quốc thể. Thiên tử phán:

“An Nam chiếu sứ không thông, lại từ lâu không đến cống, phản nghịch đã rõ ràng hãy sai sứ đến ngay hỏi tội. Việc chinh thảo sai bộ Binh bàn định gấp rồi tâu lên. [4]

Kế hoạch dọn đường cho cuộc chiến bắt đầu, nhà vua sai hai phái đoàn quân áo gấm, đến biên giới Quảng Tây và Vân Nam để hạch hỏi tại sao không đến cống.

Ngày 22 tháng Một năm Gia Tĩnh thứ 15 [5/12/1536]

Sai Cẩm y vệ Thiên hộ Đào Phượng Nghi, Bách hộ Vương Đồng đến Quảng Tây; Thiên hộ Trịnh Tỷ, Bách hộ Nạp Triều Ân đến Vân Nam; nhiệm vụ cật vấn và khám về tội An Nam soán đoạt, cùng sự tình bọn Vũ Nghiêm Uy phạm biên giới. [5]

Tiếp đến bắt tay vào việc, nhà vua ra lệnh bộ Binh vạch kế hoạch đánh An Nam:

Ngày 24 tháng Một năm Gia Tĩnh thứ 15 [7/12/1536]

Bộ Binh hội nghị về việc chinh thảo An Nam, rồi tâu:

“Xin long trọng cử một quan võ Đại thần sung chức Tổng binh Tổng đốc quân vụ; tiếp đến tuyển Phó tổng binh 2 viên, 4 viên Tham tướng, 4 viên Du kích tất cả đều dưới quyền tiết chế của Đại tướng Tổng binh. Lại cử một quan văn Đại thần có nhiều kiến thức về kinh bang tế thế để cùng bàn bạc việc đáng làm với quan Tổng binh Tổng đốc quân vụ. Trong hai ty Lưỡng Quảng và Vân Quý, hãy huy động những quan chức lớn nhỏ có tài, có sức, giỏi đảm đang chức vụ; giao cho trọng trách. Đặt hai viên Đại thần tổng đốc quân hướng [6] tại Lưỡng Quảng và Vân Quý; mỗi viên chọn 3, 4 người bộ thuộc có tài thu xếp vay, liệu biện tiền và thực phẩm; để cung cấp cho quân dụng. Quân binh chinh thảo chiếu theo tiền lệ thời Vĩnh Lạc [1403 1424], gần thì lấy tại Lưỡng Quảng, Vân Quý; xa lấy tại Tứ Xuyên, Phúc Kiến, Hồ Quảng, Giang Tây Hán và Thổ quan quân. Vì đường sá xa xôi cách trở, nên truyền hịch mấy tháng trước, sắc cho các xứ Phủ, Án cùng tướng lãnh, để chỉnh đốn quân binh, chuẩn bị khí giới tuân theo sự chinh điều. Về lương hướng cũng sắc cho quan Phủ, Án các xứ tìm mọi cách để xử trí; phàm binh mã ra quân phải có đủ 2 năm lương ăn, để khỏi lo cảnh lâm trận mà thiếu lương. Sớ dâng lên, Thiên tử ban chiếu rằng có thể thi hành; vẫn ra lệnh quan đi tra khám sự thực, rồi báo theo phương tiện nhanh. [7]

Sau khi kế hoạch xâm lăng nước ta được vạch ra, viên Thị Lang bộ Hộ Đường Trụ [tương đương với Thứ trưởng Bộ Kinh tế Tài chánh ngày nay] dâng lên 7 điều không nên đánh An Nam. Bản điều trần như gáo nước lạnh tạt vào mặt triều đình nhà Minh, đặc biệt là điều bốn đánh giá sức phản kháng của dân tộc ta rất cao. Dù không ưa những sự thực phủ phàng, nhưng đây là một văn bản rất có giá trị, nên bộ Binh khi trình lên vua, phải khen là “bàn mưu trung thành”:

Ngày 1 tháng Chạp nhuần năm Gia Tĩnh thứ 15 [12/1/1537]

Tả Thị lang bộ Hộ Đường Trụ dâng sớ can gián về việc đánh An Nam như sau:

“Nhân vì An Nam không đến sân đình triều cống, sai quan Cẩm y vệ khám hỏi tội trạng, chiếu dụ trong ngoài nghiêm túc chuẩn bị, đợi phát binh. Thần thiết nghĩ nếu như việc hôm nay chỉ muốn An Nam đến triều cống mà thôi thì không những việc binh không cần dùng đến, mà quan đi khám cũng không cần. Nếu muốn đánh thì việc này quan trọng khá lớn, có 7 điều xét không thể làm, cần nêu ra:

Đất đai giới hạn giữa Hoa và Di, trời đất đã định phận ra rồi; Đế Vương không thể dùng cách cai trị Trung Quốc để cai trị họ. Bởi vậy vua Cao Hoàng Minh Thái Tổ thần vũ hơn đời, nhưng đã ghi vào lời tổ huấn rằng không nên đánh An Nam, Bệ hạ đáng tuân thủ, đó là điều thứ nhất.

Vua Thái Tông [1403-1424] đánh Lê Quí Ly tội giết chúa, đã cho tìm con cháu nhà Trần nhưng không gặp, bèn chia nước này thành quận huyện. Cái được không bù lại với phí tổn, Vua Nhân Tông [1425] ân hận về việc này. Thời đầu Tuyên Đức [1426-1435] thực hiện ý muốn của vua cha Nhân Tông và tổ Thái Tông, dẹp bỏ quận huyện rút lui khỏi An Nam. Nay chính sách đó đáng nên theo, đó là điều thứ 2.

Trước đây thời An Nam thịnh vượng, các châu Khâm, Liêm, và ngay cả Ung; thường bị đe dọa. Từ đời Đường sau khi Cao Biền chinh phạt, đến Ngũ Đại, Tống; rồi đến việc lần lượt 8 họ Khúc, Lưu, Thiệu, Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần [8] tranh quyền; trong thời gian đó các quận Lĩnh Nam giáp biển của ta, ít bị đe dọa báo động. Vậy Di Địch tao loạn là phúc cho Trung Quốc; không đáng mang quân đi hỏi tội, đó là điều thứ 3.

Nếu bảo rằng An Nam là đất cũ của Trung Quốc, nên nhân lúc loạn chiếm đi. Thần khảo Mã Viện nam chinh, đến được Lãng Bạc quan quân chết gần nửa. Nhà Hán dựng Đồng Trụ làm giới hạn, gần với phủ Tư Minh ngày nay.

Vào năm Vĩnh Lạc thứ 5 [1407-1408] bình Giao Chỉ; năm sau Giản Định tiếm hiệu nỗi lên, đến năm thứ 8 [1410-1411] Trần Quí Khoách làm phản; rồi các thổ dân hưởng ứng theo, chỉ còn một thành Giao Châu an toàn! Năm thứ 11 [1413-1414] Trần Quí Khoách bị bắt, Trần Nguyệt Hồ lại làm phản; rồi năm Tuyên Đức thứ 2 Lê Lợi làm phản. Các quan văn võ của ta bị chết rất nhiều, như bọn Lưu Tử Phụ, Hà Trung, Dịch Tiên, Lý Nhiệm, Cố Phúc vv.. Quân sĩ, của cải vật chất tổn thất có đên mấy chục vạn; làm kiệt sức lực Trung Quốc hơn 10 năm, chỉ được cái tiếng thu phục được một số quận huyện trong mấy năm. Còn các triều đại khác, đánh mà không thắng như Tống Thái Tổ, Tống Thần Tông, Nguyên Thế Tổ, Hiến Tông thì quân đội chôn vùi, uy danh thương tổn. Các sự kiện kê ra như tấm gương sáng có thể soi, đó là điều thứ 4.

Phàm Di Địch vào triều cống là có lợi cho họ; thứ nhất có uy với lân bang vì đã được ban lịch Chính Sóc [công nhận], có thể thông thương mậu dịch làm giàu cho đất nước. Bởi vậy An Nam tuy có loạn, vẫn mấy lần dâng biểu, mang phương vật gõ cửa quan xin triều cống. Các Trấn, Phủ tại biên giới cho rằng tên tuổi không đúng [9] , bèn đuổi đi. Vậy họ muốn cống mà không được, chứ không phải cậy hiểm không chịu tới. Bây giờ hài tội, về danh nghĩa không thuận, đó là điều thứ 5.

Vả lại muốn mang binh đi đánh cần có tài lực dồi dào. Thời Vĩnh Lạc dùng binh 80 vạn, từ Vân Nam, Lưỡng Quảng chia đường đến; quân lương chất như núi, vận chuyển không ngớt. Nay nghị bàn lấy trong 4 tỉnh, nhưng Tứ Xuyên đang lo việc thu hoạch rừng, Quí Châu thì có quân ốm đói, lương trữ tại Lưỡng Quảng từ lâu bị hao hụt vì việc đánh Sầm Mãnh tại Điền Châu. Với những công trình dựng lên tại một số tỉnh, kho tàng thiếu hụt; lụt lội, hạn hán đói kém. Nhìn tài lực thì thời Vĩnh Lạc giàu có hơn nhiều; đó là điều thứ 6.

Tất cả những điều nêu trên đều có căn cứ có thể dẫn ra được, nếu suy nghĩ xa như người nước Kỷ lo việc trời [10] thấy được nhà Đường suy từ thời Huyền Tông sau chiến dịch đánh Nam Chiếu; nước Tống suy vi từ khi Thần tông đánh Liêu. Nay kho tàng tích trữ chỉ 400 vạn [lạng bạc?] chính trị suy hoại, ruộng bỏ hoang ngày càng nhiều, quản lý muối ngăn trở, nên việc buôn bán càng giảm; giặc phương Bắc ngày một mạnh chiếm cứ vùng eo lớn sông Hoằng Hà, lính biên phòng mấy lần làm loạn, biên cương rào dậu triệt hồi; mối họa phương Bắc ngày một lớn; lại bắt đầu bàn bạc đến việc đánh phương Nam! Nếu có điều lo ngoài ý muốn, ai là người chịu trách nhiệm; đó là điều thứ bảy.

Huống quan võ Cẩm y không hiểu đại thể, vạn nhất theo ý riêng, gây hấn. Hoặc tìm ra sự thực, đánh cũng không được, không đánh cũng không được; tiến thoái lưỡng nan. Nay nghiêm binh đợi xuất phát, lệnh mới ban ra mà sự tao nhiễu đã xẩy ra 4 phương; mối lo không tại tứ Di [11] mà tại trong nội bộ!

Thần tấu xin bỏ việc chinh phạt, đình chỉ việc sai Cẩm Y vệ đi khám, bãi bỏ lệnh dự phòng binh lương.

Sớ dâng lên, bộ binh khen bàn mưu trung thành; riêng chiếu chỉ truyền đợi Cẩm Y vệ khám tâu, rồi bàn sau. [12]

Tiếp đến Minh Thực lục đề cập đến một phái đoàn cầu viện nhà Minh do vua Lê Trang Tông và Đại tướng quân Nguyễn Kim gửi sang Trung Quốc. Cầm đầu phái đoàn này là Trịnh Duy Liêu, vất vả đi theo đường Chiêm Thành, phải dừng lại tại nơi này đến 2 năm:

Ngày 3 tháng 2 năm Gia Tĩnh thứ 16 [13/3/1537]

Cháu dòng đích của vua An Nam tên là Lê Ninh [Lê Trang Tông] sai người trong nước là bọn Trịnh Duy Liêu gồm 10 người đến kinh đô tâu rằng:

“Vào năm Chính Đức thứ 11 [1516-1517] nghịch thần Trần Cảo làm loạn, giết vua là Lê Trừu [13] , người trong nước lập con trưởng của người anh đã mất là Huệ [vua Chiêu Tông], lên trông coi việc nước. Vào năm thứ 16 [1521-1522] Huệ đánh Trần Cảo giết được. Kẻ bầy tôi là Mạc Đăng Dung mưu loạn, đuổi vua [Chiêu Tông] ra ngoài, lập người em thứ còn thơ ấu là Quảng [Cung Hoàng] làm bù nhìn coi nước. Rồi giết Quảng, ngụy lập người con, và tự xưng là Thiên vương. Vì lý do này nên đường lối ngăn trở, Cống sứ không thông; Huệ vì vậy buồn giận phát bệnh chết, người trong nước lập Ninh là cháu dòng đích quyền coi việc nước. Ninh là con của Huệ, mấy lần cho người đưa thư đến Tổng trấn cáo nạn, đều bị Đăng Dung ngăn giết trên đường đi, nên không đến được. Mới đây nhân nhờ thuyền buôn Quảng Đông, bèn ngầm theo đến kinh đô, xin hưng binh hỏi tội để cứu ngay nạn nước.”

Lời tâu đưa xuống bộ Lễ, nhận phúc tấu như sau:

“Sứ chính thức tin cậy từ An Nam không thông đã hơn 20 năm, nay triều đình mới định hưng binh hỏi tội, thì lời cáo biến từ nước này đến. Sự việc thuộc khả nghi, vả lại bọn Liêu theo thuyền đi, lại trú thêm tại Chiêm Thành 2 năm, đến Quảng Đông lại không trình “Thân phó cáo” [14] ; tuy có quan ty sở tại cấp văn thư đưa đi cũng khó mà tin được. Nay nên tạm thời cho bọn Liêu lưu tại sứ quán; lệnh Cẩm Y vệ đã sai đi, phúc trình sự việc tại nước này, cấp tốc tâu lên để đợi khu xử.”

Thiên tử theo lời bàn của bộ, ra chiếu lệnh Cẩm y vệ câu lưu bọn Trịnh Duy Liêu, không được tiếp xúc với bên ngoài. Theo lệ đối xử giống với trường hợp Cống sứ Triều Tiên, do Quang lộc tự cung cấp. [15]

Dựa theo những lời tố cáo của Trịnh Duy Liêu, đình thần nhà Minh hội họp, dưới sự chủ trì của bộ Lễ và bộ Binh, tuyên bố kết tội Mạc Đăng Dung gồm10 điều:

Ngày 12 tháng 4 năm Gia Tĩnh thứ 16 [20/5/1537]

Hai bộ Lễ và Binh hội họp đình thần bàn về việc chinh thảo An Nam tuyên bố rằng Mạc Đăng Dung có 10 tội, không thể khoan dung mà không đánh:

Tội thứ nhất: đuổi Lê Huệ [vua Lê Chiêu Tông], chiếm thành đô của nước.
Tội thứ hai: cưỡng bách lấy mẹ của vua.
Tội thứ ba: đầu độc Lê Quảng [vua Lê Cung Hoàng], đem con y lên làm vua ngụy.
Tội thứ tư: Bức Lê Ninh phải bỏ trốn.
Tội thứ năm: tiếm xưng Thái thượng Hoàng đế.
Tội thứ sáu: cải nguyên Minh Đức Đại Chính.
Tội thứ bảy: đặt binh tại quan ải, ngăn trở chống cự Sứ thần.
Tội thứ tám: bạo ngược vô đạo, độc hại sinh linh.
Tội thứ chín: Ngăn dứt đường đi cống.
Tội thứ mười: đặt quan lại ngụy.

Xin ban bố quyết định, truyền bá trong ngoài, khiển tướng luyện binh, định ngày tiến đánh. Bọn Trịnh Duy Liêu được đưa theo quân môn, để quan Tổng binh tham khảo sử dụng.”

Thiên tử phán:

“An Nam từ lâu không đến cống tại sân đình, theo phép đáng hỏi tội. Nay nước này tâu rằng nghịch thần Mạc Đăng Dung soán đoạt, ngăn trở đường đi cống, lại tiếm xưng danh hiệu, đặt quan lại ngụy, tội ác đã rõ ràng, mệnh tướng xuất sư chinh thảo. Các quan Tổng đốc đề cử tuyển chọn những người có tài năng để sử dụng, điều động binh lương thích hợp. Hai bộ Hộ và Binh bàn định cách xử trí rồi tâu lên...” [16]

Tuy ra lệnh đánh nước ta, nhưng nhà vua đã bị ảnh hưởng bởi lời khuyến cáo trong bản điều trần của Đường Trụ, nên muốn hoạch định một cuộc chiến hạn chế để khỏi bị sa lầy như dưới thời Minh Tuyên Tông:

Ngày 13 tháng 4 năm Gia Tĩnh thứ 16 [21/5/1537]

Thiên tử lại dụ bộ Binh rằng:

“Ngày nay có việc tại An Nam, giúp nước này trừ loạn, so với thời Thái Tông sự thể không giống nhau; nên dụng binh như thế nào, hãy suy nghĩ rồi tâu trình.”

Bộ binh trình 11 điều:

“1. Xin Thiên tử ban ấn cho Đại tướng quân; cấp cho văn võ Đại thần chế sắc, phù nghiệm, kỳ bài.
2. Bắc quân không tiện Nam chinh. Nên điều Hán binh tại Lưỡng Quảng, Tứ Xuyên, Quí Châu, Hồ Quảng, Phúc Kiến; cùng Thổ binh như Miêu, chuyên sử dụng câu liêm. Tổng binh, Tham tướng tùy nghi điều động; nghiêm quân lệnh, cấm chỉ tham hàng hóa [17] , giết hàng binh.
3. Việc binh tiến hay dừng đều tuân lệnh Tổng đốc, Tham tán, mà thi hành. Các Phó Tham, Tam Ty trở xuống đều được ủy nhiệm sử dụng.
4. Sai Khoa Đạo quan mỗi nơi 2 viên để ghi chép công và thứ hạng.
5. Thống lĩnh quan binh Hán, Thổ cần khéo chỉ huy, khuyến khích thành công. Bán, đổi, thả giặc hoặc tiềm thông gian tế, tội không tha.
6. Các xứ Khâm Châu, Tư Minh, Bằng Tường thuộc Lưỡng Quảng, Lâm An, Mông Tự thuộc Vân Nam; có thể dùng đường để tiến binh; hãy chọn những người hiểu dân địa phương làm hướng đạo.
7. Ngày tiến binh, giữ kỹ các quan ải để đề phòng kẻ chạy trốn.
8. Khi lâm trận, kẻ lập thành tích giết bắt cừ khôi được thưởng hoặc thăng cấp; kẻ trái lệnh chần chừ dòm ngó, xử theo quân pháp.
9. Phàm những nơi quan quân sắp đi qua, vật dụng khí cụ lệnh quan địa phương chuẩn bị.
10. Các cấp Tuần, Phủ kiểm tra việc chinh tiến, khao thưởng, tướng sĩ được lệnh hậu đãi.
11. Các đồ ban thưởng như ngân bài, huy chương, lụa trao cho Tổng binh, Tham tướng trước; để sẵn sàng lúc dùng.”

Chiếu chấp nhận như đề nghị. Lại mệnh Binh Khoa Cấp sự trung Lý Hạc Minh, Phúc Kiến Ngự sử Truyền Phượng Cao đến Quảng Đông; Hình Khoa Cấp sự trung Mã Nhữ Chương, Quảng Đông đạo Ngự sử Hồ Thời Tế đến Vân Nam; mỗi người theo quân để ghi công. [18]

Trong khi bộ máy chiến tranh đang rục rịch làm việc, thì chính viên Thị lang bộ Binh Phan Trân (tương đương với Thứ trưởng Bộ Quốc phòng hiện nay), không tin ở sự thành công. Y cũng đem những kinh nghiệm lịch sử ra cảnh cáo, và đề nghị số quân điều đến biên giới chỉ nên thay phiên luyện tập, án binh bất động để chờ thời. Chắc không phải hoàn toàn phản đối lập luận của viên này, nhưng có lẽ tại viên Thị lang bộ Binh là người trong cuộc, lại viết những lời chống lại chính sách, nên bị nhà vua phạt cho thôi việc:

Ngày 13 tháng 4 năm Gia Tĩnh thứ 16 [21/5/1537]

Tả Thị lang bộ Binh Phan Trân dâng sớ rằng:

“Đất An Nam xưa thuộc Giao Chỉ, nhiều đời không chịu xưng thần; lúc vua Thái Tổ ta mới mở nước, chúa họ Trần nước này đầu tiên đến qui phụ, được chấp nhận để chiêu phủ. Vào năm Vĩnh Lạc Lê Quí Ly phản họ Trần, vua Thái Tông mang nghĩa binh đánh dẹp, cầu con cháu nhà Trần nhưng không được, bèn chia đất này thành quận huyện. Rồi tiếp tục có đảng nghịch của Giản Định Đế nổi loạn, đánh mấy năm bình định được. Sau đó Lê Lợi dấy lên chống mệnh. Sau khi Lợi xin lập con cháu nhà Trần, vua Tuyên Tông Chương Anh Đế bèn bỏ đất này, Lê Lợi nhân được thay thế làm Vương. Đời sau Lê Trừu [vua Tương Dực] làm sai đường, bị Trần Cảo giết, không có con nên con người anh là Lê Huệ [vua Chiêu Tông] không đợi mệnh triều đình mà tự lập; bị Mạc Đăng Dung bức phải trốn xa. Dung bèn uy hiếp lập người em là Lê Quảng [vua Cung Hoàng], rồi giết đi mà chiếm lấy nước. Vậy cha con họ Mạc và Trần Cảo là bọn giặc thí nghịch; còn Lê Ninh và cha là Lê Huệ không cầu phong và triều cống đã 20 năm nay; chiếu theo phép Xuân Thu [19] không khỏi phải mang 6 quân đi hỏi tội. Nhưng hà tất phải mang binh đánh cả hai bên.

Vả lại đất này không đủ tiêu chuẩn để đặt quận huyện, lúc loạn lúc theo không giống như Trung Quốc; dân Di ngày càng sinh sôi, lều trướng từ đông sang tây có đến vạn lý; lửa báo động từ mùa đông đến mùa xuân không ngày nào ngớt. Phía ta quân sĩ không sung túc, lương thực không đủ, các biên giới đều có mối lo ngầm; nay bỏ những mối lo trước mắt, để gánh sự tổn hại làm kiệt sinh lực ở nơi xa xăm. Kẻ bầy tôi ngu muội này cho rằng không phải là kế sách đúng.

Nay không nên điều Phó Tổng binh, Tham tướng trở xuống, cùng Tổng đốc lương thực, văn thần; cũng không nên điều động ngay lính Miêu chuyên sử dụng câu liêm, và các đơn vị vận tải [20] . Nên cẩn thận cử 2 viên Đại thần văn, võ có tài và uy tín, đeo ấn mệnh chinh thảo; đến biên giới Giao Chỉ và Lưỡng Quảng, để điều động các quân Hán, Thổ gần đó thay phiên luyện tập. Riêng các đơn vị nhỏ cùng với Thổ binh thì cho huấn luyện tại địa phương chuẩn bị đợi đi đánh.

Sau đó truyền hịch đến Giao Chỉ phía nam, hài tội họ Mạc soán nghịch, tru diệt không tha; kỳ dư những người bị cưỡng bách theo nếu qui thuận, gắng sức đánh giặc lập công sẽ được tưởng thưởng. Lại truyền hịch cho Lê Ninh ban cho y quyền đánh giặc họ Mạc, lệnh đốc thúc binh mã đợi khi đại quân nhập cảnh, hợp lực tiến đánh. Bọn Vũ Nghiêm Uy [21] cũng được dụ giúp cho Ninh. Khiến mọi người trong nước đó hợp mưu đánh giặc, mượn tiếng Thiên triều làm mạnh khí thế, công việc bình định có thể hoàn thành được.

Thiên tử giáng chỉ trách là không rành sự thể, có những lời mê hoặc nhân tâm. Bi lột chức và thôi việc. [22]

Tuy nhà Minh muốn can thiệp, nhưng tình trạng nước ta lúc bấy giờ có hai phe: Lê Trang Tông và Mạc Đăng Dung. Phe bảo thủ chủ trương bảo hoàng lẽ dĩ nhiên phải ủng hộ Lê Trang Tông. Nhưng ngược lại Đề đốc Lưỡng Quảng Tả Thị Lang Phan Đán, đóng quân sát tại biên giới, hiểu rõ thực lực của mỗi bên; hơn nữa y là con người thực dụng, thấy Mạc Đăng Dung mới cho người xin sang cống, nên nghiêng về sự ủng hộ họ Mạc, để khỏi phải đánh nhau:

Ngày 19 tháng 4 năm Gia Tĩnh thứ 16 [27/5/1537]

Đề đốc Lưỡng Quảng quân vụ Tả Thị lang bộ Binh Phan Đán tâu:

“Loạn An Nam bắt đầu từ Trần Cảo giết chúa Lê Trừu, Cảo bị giết nhưng con là Thăng chiếm cứ đất Lạng Sơn. Mạc Đăng Dung lúc đầu cưỡng lập Lê Huệ, tiếp lại đuổi ra biển, rồi Huệ đóng tại Thanh đô; cuối cùng [Đăng Dung] giả danh được nhường chức, để đoạt lấy nước. Nay Trần Thăng đã bị Mạc Đăng Dung đánh dẹp; phần lớn đất đai cương thổ, họ Lê chỉ chiếm được hai phần mười; họ Mạc chiếm đến tám phần mười. Mới đây triều đình sai sứ hỏi tội, Đăng Dung sai Sứ mang văn thư xin cống.

Phàm Di Địch như cầm thú, vốn không có luật của nhân luân; dùng pháp độ của Trung Quốc không thích hợp. Nếu xử theo đạo lý của Di Địch thì Nguyên Ngô được ban tước, Hạ Nghĩa được phong Hầu, Lê Lợi cũng có thể làm vua! Bọn chúng phân tranh, binh cách không ngớt, đều muốn mượn danh hiệu Thiên triều để lên làm chúa.

Kính mong Bệ hạ sắc xuống cho hai bộ Lễ và Binh phúc trình giải pháp hay nhất; riêng bọn thần giới nghiêm quân sĩ xem sự biến, để đợi nước đó tự ổn định, đó là phép của Đế Vương xưa dùng bất trị để trị.”

Lúc này Thượng thư bộ Lễ Nghiêm Tung, Thượng thư bộ Binh Trương Tán phúc tấu rằng:

“ An Nam là nước hoang dã nơi biên giới, xưng thần chăm chỉ phụng cống; so với bắc Địch, tây Nhung cũng tương tự. Mạc Đăng Dung đuổi vua giết chúa, chuyên chế chiếm nước, tình tội rõ ràng, vả lại An Nam là nước nhận sắc phong của tổ tiên. Sao Quảng có thể tự tiện trao cho nghịch Dung; sao nghịch Dung có thể tự tiện nhận từ Quảng. Nếu bảo nước Di Địch vốn không có nhân luân, Nguyên Ngô có thể làm Vương, Hạ Nghĩa có thể làm Hầu, lại như nghịch Dung giết vua đoạt nước, nay dâng biểu xin thỉnh phong, quốc gia lấy gì để xử đây?

Nếu bảo rằng cho hai bên đánh nhau, binh cách không tắt, để vậy không hỏi đến, thì không khỏi giúp loạn lớn lên, buông thả cho bọn gian tà, lại không đáp ứng lời cầu cứu của Lê Ninh. Nay nêu hai việc Tử Mật, Nguyên Ngô làm chứng, lập luận không hợp lý, không có thể khuất phục bọn Di gian trá, và giữ gìn quốc thể. Vả lại Lê Ninh còn tại Thanh Đô, sai người đến cáo biến, chí mưu đồ khôi phục. Nay Đăng Dung lại xưng bản quốc đã ổn định, dâng biểu xin cống, thật che dấu quá lắm! Vào năm Hồng Vũ có lần An Nam sai Sứ đến cống Thái Tổ Cao Hoàng đế phán: “An Nam soán giết vua [23] , không chấp thuận cho đến cống.” Nay nghịch Dung đến xin cống, khó mà có thể bằng lòng ngay được nên giao Đề đốc, Tuần vũ, Tổng binh xét kỹ nghịch thuận, theo thời cơ mà phủ ngự, tuân theo chiếu chỉ trước mà thi hành để chính sách phục hưng nước bị diệt, nối dòng bị đứt, tru lục kẻ tàn bạo; hai đường vẹn toàn.”

Sớ dâng lên, Thiên tử chấp nhận, mệnh Đề Đốc các quan thi hành theo chiếu chỉ trước. [24]

Một người có thái độ uyển chuyển, dung hòa được mọi khuynh hướng là Hữu Đô Ngự sử Mao Bá Ôn, lúc này đang chịu tang, được nhà vua vời ra để lo giải quyết việc An Nam. Viên này chủ trương cô lập Mạc Đăng Dung, tập trung binh lực mạnh tại biên giới, để buộc Đăng Dung phải đầu hàng:

Ngày 9 tháng 5 năm Gia Tĩnh thứ 16 [16/6/1537]

Hữu Đô Ngự sử Mao Bá Ôn trở lại làm việc, đến trình diện tại kinh sư; Thiên tử mệnh trong ngày đến nhận việc, để đợi mệnh chinh thảo An Nam. Bá Ôn điều trần việc An Nam gồm 6 điều:

Thứ nhất: Chính danh An Nam không đến triều cống là do Mạc Đăng Dung thoán nghịch; nay mệnh tướng xuất sư đánh giặc. Trước tiên truyền hịch dụ rõ những người bị ức hiếp theo, cho được đầu hàng; kẻ chém đầu giặc được thăng thưởng. Nếu đầu sỏ giặc đến hàng, bọn thần cẩn thận tâu lên xin khu xử, để không bị tội chếtr. Nếu như hôn mê không tỉnh ngộ, thì bị diệt trừ không tha.

Thứ hai: Sử dụng lính gồm Điền Châu, các thành Tư, Ân, Tứ; các xứ Tả, Hữu giang thuộc Quảng Tây; Vĩnh Thuận, Bảo Nha thuộc Hồ Quảng; Tây Dương thuộc Tứ Xuyên, Thổ binh kiêu dõng có thể dùng được. Sợ có sự xâm nhiễu tại các địa phương đi qua, sức các Trấn thủ, Tuần quan nghiêm lệnh cấm chỉ. Tổng đốc, Đô Ngự sử Lưỡng Quảng trách nhiệm rất lớn, nên dùng những bầy tôi giỏi để lo giúp. Thổ binh Vân Nam tại các phủ, cần có ấn bài của Kiềm Quốc công mới có thể điều dụng. Sau khi di chuyển trách nhiệm chỉ huy điều động do Phó Tổng binh, Bố chánh, Tuần phủ, Đô Ngự sử phụ tá. Các đơn vị tại Quảng Đông, Giang Tây, Chiết Giang, Phúc Kiến không nên điều động tất cả; Thần cần trích những đơn vị cần thiết đưa đi. Tổng binh Quí Châu Lý Chương; Phó Tổng binh Quảng Tây Trương Kinh, Tham tướng Trầm Hy Nghi đều mưu dõng hơn người, nên dùng. Từ Quảng Tây do châu Bằng Tường vào biên giới, qua quan ải đầu Kinh Bốc, Lân trạm, Bộc Thượng trạm, tới sông Phú Lương, tức Đông Quan. Quảng Đông từ châu Khâm, qua một ngày tới Vĩnh An. Vân Nam do đường huyện Mông Tự, qua 2 ngày có thể đến thác Liên Hoa bằng 3 đường. Đến ngày cùng tiến, hẹn đúng ngày đến nơi. Đánh giặc chớ giết càn; ngày nay tướng sĩ vào An Nam trước, đánh chém đầu sỏ giặc lập kỳ công; nếu cố tình buông thả giặc hoặc giết bừa bãi người vô tội, lấy quân pháp trừng trị. Việc luận công thưởng phạt nên sắc cho bộ Binh dự định.

Thứ ba: Dùng người. Xin sắc bộ Binh cử những bộ thuộc tài cán theo quân: gồm 2 người chuyên vẽ; một số quan phụ trách kỳ bài, tùy viên, thiên văn, âm dương, thông dịch, y sĩ, bói toán. Các tỉnh, 3 ty, cùng phủ, châu, huyện ; các chánh quan và phụ tá đều dưới quyền Thần lâm thời sử dụng.

Thứ tư: Về phương diện tài vật; xin sắc bộ Hộ lệnh Bố chánh các tỉnh phàm các vật tư phải nạp về kinh mà chưa kịp đưa đi, thì Phúc Kiến, Chiết Giang, Giang Tây, Lưỡng Quảng chở về phủ Nam Ninh tỉnh Quảng Tây; Quí Châu, Hồ Quảng, Tứ Xuyên chở về phủ Lâm An, Vân Nam. Quan coi về lương thực tại các tỉnh chờ lúa mùa thu chín, mua trữ vào kho. Số lượng quân lương mà Giang Tây, Hồ Quảng dự định mang đi trong năm Gia Tĩnh thứ 16 thì sửa đổi nơi đến, cho vận chuyển đến phủ Nam Ninh. Cần kiểm tra việc nạp lúa, mở kho muối tại Lưỡng Hoài, phát bạc nén tại kho Thái Thương 400 vạn để có thể đủ cho sự chu cấp trước mắt.

Thứ năm: Về minh bạch phép thưởng phạt, thành ngữ có câu “Thưởng đến kịp thời, phạt đến đúng lúc.” Phép thưởng trong quân, nhỏ thì thưởng bằng tiền lụa, lớn thì quan tước. Nên sắc hai bộ Lại, Binh đưa sẵn số lượng các chức quan văn võ đến nơi giao cho Thần, để thưởng trong quân hoặc cử làm quan hoặc thăng thưởng. Còn như có tội thì xét nặng nhẹ, không tha.

Thứ sáu: Đồng nhất. Nay 3 đường cùng tiến công; quan lại tướng sĩ số lượng nhiều, nếu hiệu lệnh bất nhất làm sao có thể thành công được. Các văn thư phải truyền đạt đến từng nơi, mọi người cần đồng tâm hiệp lực, dù công nhỏ cũng ghi chép; không được chia rẽ kẻ này kẻ kia, mỗi người cố chấp với ý kiến mình, làm lộ quân cơ; kẻ làm trái lệnh Thần xin tâu lên trên.

Thiên tử nói: “ Xem tấu của khanh thấy rõ được sự từng trải; y theo điều nghĩ mà thi hành. Sẽ đưa Đề đốc Lưỡng Quảng Thị lang Phan Đán về Nam Kinh để phụ tá cho bộ; điều ngay một người có tài hiểu biết, thích hợp với nhiệm vụ thay thế.”

Bộ Binh phúc tấu về lời thỉnh cầu của Bá Ôn: “Xin một đạo sắc phong Bá Ôn và tuyên bố triều đình ân uy, cùng ban hành dụ cho nước này. Ban thưởng cho bất cứ ai lập kỳ công, dẫn đầu phá quốc thành An Nam, thưởng bạc 3.000 lượng, thăng 5 cấp; bắt hoặc giết đầu sỏ giặc, cha con Mạc Đăng Dung cũng được thưởng như vậy. Ai bắt hoặc giết bọn giặc có tiếng, được thưởng 500 lạng và thăng 3 cấp. Lâm trận phấn dõng lập thành tích đáng khen, sẽ theo lời của Tổng đốc, Tham tán thưởng một cách đích đáng. Người An Nam nội phụ có công, cũng được thưởng như vậy. Xin bộ Lại chọn 2 quan chức có tài năng theo quân để điền bổ các chức vụ. Về vận chuyển lương thực, bộ Hộ cử nhân viên theo quân để tùy nhu cầu hoạch định vận chuyển. Bộ Lại chuẩn bị giấy bổ nhiệm văn chức và võ chức mỗi thứ 100 bản, dùng để thăng thưởng trong quân. Tổng đốc, Tham tán các chức, dùng binh ngoài quan ải, tiến hoặc dừng theo tiện nghi. Trừ Lưỡng Quảng, Vân Nam Tổng binh, Tổng đốc, khi có việc cùng bàn bạc mà thi hành; kỳ dư Phó, Tham trở xuống, cùng Phủ Trấn, ba ty đều theo sự tiết chế. Các quan tam ty trở xuống phải nghe theo lệnh, khi ủy nhiệm không được từ chối.

Thiên tử phán: “An Nam từ lâu không đến triều cống, vì nghĩa đáng hưng binh hỏi tội. Gần đây nghe Lê Ninh tâu rằng Mạc Đăng Dung ngăn chặn đường tiến cống, chưa thẩm tra được chân ngụy; hãy lệnh cho quan địa phương xem nên chiêu phủ, hay đánh. Đề đốc Lưỡng Quảng, Thị lang Tuần phủ Vân Nam, Đô Ngự sử, cùng các quan Tổng binh đều có sắc riêng. Lệnh Mao Bá Ôn tại viện lo quản lý công việc. Các quan đôn đốc lương hướng, ghi công đều tạm đình chỉ.” [25]

Lúc này trong đầu óc nhà vua Thế Tông và Mao Bá Ôn đã sẵn có một dự định, nên nhà vua thẳng tay trách phạt người khác ý kiến:

Ngày 27 tháng 5 năm Gia Tĩnh thứ 16 [4/7/1537]

Giám sát Ngự sử đạo Hồ Quảng Từ Cửu Cao theo lời chiếu, trình bày 3 việc:

3. Bàn về việc đi đánh: Gần đây Quốc vương An Nam bị tặc thần đuổi; Bệ hạ hưng binh hỏi tội đến biên giới, đó là điều không tốt. Hiện nay Vân, Quý, Lưỡng Quảng lương thực thiếu thốn, các vùng đông nam mất mùa vì đại hạn, lụt lội. Thần xin tạm hoãn sai quân đi trước; Tổng đốc Lưỡng Quảng, Đô ngự sử, Tổng binh nên chia nhau sắp xếp thi hành, lệnh sở tại tích trữ lương thực, quan sát sự biến động. Nếu chúng sửa đổi thuận tòng, có thể không phiền đến binh. Trường hợp chúng ương ngạnh, đợi binh lực đầy đủ, từ từ làm việc thảo phạtr. Nên sắc 2 bộ Binh và Hộ chú ý đề phòng các trấn phía tây bắc; phàm quân lính thiếu, đồn ải phế hủy, lương thực thiếu hụt; hãy lo liệu lý để khôi phục việc làm tốt của tổ tông, thực hành kế trường cửu của quốc gia…

Thiên tử cho rằng nội dung có sự dối trá, tội trọng bất kính, dùng lời nhục mạ, cắt bổng Từ Cửu Cao 2 tháng. [26]

Để chuẩn bị cho vấn đề An Nam, vua Thế Tông ra lệnh cho các quan tại các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam được miễn dự lễ tại triều:

Ngày 30 tháng 6 năm Gia Tĩnh thứ 6 [5/8/1537]

Cho 3 Bố chánh Sứ ty Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam; chánh quan tại hai phủ Nam Ninh, Thái Bình thuộc Quảng Tây; cùng các phủ Khúc Tĩnh, Sơ Hùng, Lâm An, Đại Lý, Vĩnh Xương thuộc Vân Nam được miễn dự lễ tại triều vì công việc về An Nam. Thể theo lời tâu xin của các quan Đốc, Phủ. [27]

Lại cho đình chỉ nạp về kinh đô số bạc thu thuế, tồn kho tại các tỉnh biên giới:

Ngày 21 tháng 8 năm Gia Tĩnh thứ 16 [24/9/1537]

Vương Tuấn, Đề đốc Đô ngự sử Nam Cống Định Chương tâu rằng: “Trước đây quyết định đem về kinh số bạc nén đánh thuế muối. Nay vì có việc chinh thảo tại An Nam, xin giữ lại tất cả số bạc đó.” [28]

Nhắm cô lập Mạc Đăng Dung, nên những thành phần chống đối nhà Mạc được vua Thế Tông ra lệnh khen thưởng, khuyến khích:

Ngày 6 tháng 9 năm Gia Tĩnh thứ 16 [9/10/1537]

Trước đó người Giao Chỉ Vũ Văn Uyên mang đồng đảng đến hàng; Đô ngự sử Uông Văn Thịnh sai Chỉ huy Triệu Quang Tổ đến phủ dụ. Văn Uyên bèn sai người Di bọn Nguyễn Hoằng Qui đến hiến bản đồ tiến binh, nhân nói về tình trạng loạn lạc tại An Nam rằng Văn Uyên vốn là bầy tôi của nhà Lê, do loạn Đăng Dung nên ra đóng quân tại Tuyên Quang, cựu thần nhà Lê như Nguyễn Nhân Liên, Lê Kinh My, mỗi người chiếm đóng mỗi phương, đánh nhau với Đăng Dung. Văn Uyên có 10.000 quân, đợi Thiên binh xuống phía Nam, sai cháu là Vũ Tử Lăng đóng tại cửa ải Thạch Lang để nhập theo, rồi hiệu triệu người trong nước, thế có thể dẹp Đăng Dung được. Văn Thịnh xin ban cho Văn Uyên quan và cấp sắc dụ để tiện liệu việc. Bộ Binh nói:

“ Thực tình hay ngụy trá chưa lường được; tuy muốn gia ân nhiều, nhưng cũng nên xét thực tế sự việc để liệu cấp thưởng.”

Thiên tử phán:

“ Văn Uyên khuynh tâm quy phụ, mộ điều phải thực đáng khen, ban cho y khăn, dây đai, chương phục quan võ tứ phẩm, và bạch kim, tiền. Bọn Tử Lăng được ban mũ, dây đai; còn bọn Triệu Quang Tổ được ban tiền. [29]

Lúc này viên Tuần Án Quảng Đông thấy được tình hình, dâng sớ xin tự ý làm lấy cái việc ép Mạc Đăng Dung triều cống; nhưng vua Thế Tông và quần thần cho rằng lập luận có vẻ khinh suất, nên phạt viên này bằng cách đoạt lương một năm:

Ngày 6 tháng 10 năm Gia Tĩnh thứ 16 [8/11/1537]

Tuần Án Quảng đông Ngự sử Dư Quang dâng lời tâu:

“Việc An Nam không cướp được thời cơ nên mưu không hay, không thừa đúng thế nên không đạt được thành công. Xưa kia Câu Tiễn mưu diệt Ngô âm thầm trong hai chục năm mới phát lộ công khai, đó là dùng trì hoãn để mưu đồ, Đổng Tấn đánh Biện chỉ một buổi sáng thì bình định, là dùng nhanh để chế thắng. Thần mới đây tại kinh đô nghe việc An Nam được mô tả có 3 phe; như chuyện ngụ ngôn cò trai lo tranh dành để cuối cùng ngư ông hưởng lợi! Nay đến biên giới hội bàn với tam ty, thấy được sự thực không phải như vây. Vì hiện nay Mạc Đăng Dung có toàn thể đất đai, các Tù trưởng đều bị thu phục. Lê Ninh thì chạy trốn không biết hiện ở đâu. Họ Lê giết vua, đối với họ Trần là giặc; lúc hàng lúc chống, đối triều đình ta là kẻ đứng đầu tội; nay con cháu chạy trốn, hoặc giả trời sai Mạc Đăng Dung báo ứng vậy! Phàm Di Địch soán đoạt là sự thường; từ nhà Tống đến nay tại nước này từ họ Đinh chuyển sang Lý, rồi họ Lý bị soán đoạt bởi Trần, Trần lại bị soán bởi Lê, nay Mạc lại soán Lê; đó là đạo tuần hoàn vậy. Nếu ta khôi phục Lê thì chỉ là giúp một họ bạo ngược, thế khó mà trường cửu. Vận số của Di Địch nếu một lần bại vong khó phục hưng; thời thịnh vượng của Liêu, và Kim không phục hưng lại được; triều ta đặt Trung Tuấn lên làm Vương mà không chế ngự được dân Thổ Phồn. Dù rằng Trung Quốc phân cắt như Ngũ Quí, Lục Triều, cũng không trung hưng lại được; rồi đứng anh hùng trung hưng cứu vớt dân, phạt kẻ ác, nhận mệnh trời thảo phạt, thừa vận hội, mới hưởng được sự thống nhấtr. Nếu như nay đặt Lê Ninh lên, thì sau này ngôi cũng về tay người khác. Tại sao vậy, cây đã nghiêng ngả không trồng lại được, tro tàn không nhen lên được, đó là đạo trời vậy. Nay đối với An Nam nên hỏi tại sao không đến triều cống, nếu chúng phục tòng chịu xưng thần triều cống, thì trao chức cho; như vậy do thế mà định, không phải mệt binh lính. Nếu mang quân chinh tiễu, thì khó mà truy đuổi đến cùng, khó đồn trú lâu, quân đóng lâu dễ sinh biến, không thấy được sự tiện lợi.

Thần dựa vào Hoàng thượng thánh minh, chính trị theo cổ nhân, cho thần ra biên cương an xã tắc, chịu hoàn toàn trách nhiệm. Mặt khác sai quan đến biên giới tuyên dương uy Thiên tử, hỏi tại sao không đến triều cống, bắt phải xưng thần nhập cống, và tâu ngay không chậm trễ. Phàm không xin mệnh, thì tội rõ ràng không tránh được; đợi trình báo lên thì chậm trễ, cơ hội dễ bị mất. Vả lại từ Quảng Đông đến kinh sư hơn 8.000 dặm, đến An Nam lại thêm 4.000 ngàn dặm; nếu đợi đi về trần tình rồi mới thi hành thì mất thời gian, không hợp với thời cơ. Phàm việc tại biên cương nhắm lợi triều đình thì làm, không nên sợ tội hoặc hiềm nghi; vì kẻ sợ tội thì không trung, hiềm nghi là không trực, thần không dám như vậy. Mong Thánh thiên tử từ nơi xa xôi soi cho, cho thần được tiện nghi hành sự.”

Sớ dâng lên, Thiên tử phán:

“Sự tình trong tờ tâu, cùng những lời dẫn dụng Ngũ Quí, Lục Triều, bộ Binh hãy tham duyệt rồi trình.”

Bộ Binh phúc tấu rằng:

“Trình bày không đích đáng, so sánh không hợp lý, hành động khinh hốt, nên trách phạt.”

Mệnh đoạt lương 1 năm. [30]




[1]An Nam Chí lược q. 2, tr. 52.
[2]Hồ Bạch Thảo, Phản ứng của nhà Thanh khi được tin vua Quang Trung mấtr. Talawas, 3/7/2007.
[3]Minh Thực lục v. 80, tr. 4066; Thế Tông q. 192, tr. 11b.
[4]Minh Thực lục v. 80, tr. 4070-4071; Thế Tông q. 193, tr. 1b 2a.
[5]Minh Thực lục v. 80, tr. 4083; Thế Tông q. 193, tr. 8a.
[6]Quân hướng: tiền lương và lương thực cho quân đội.
[7]Minh Thực lục v.80, 4083 4084; Thế Tông q. 193, tr.8a 8b.
[8]Khúc, Lưu, Thiệu, Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, chỉ các đời họ nước ta lần lượt cầm quyền như: Khúc Thừa Dụ, Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý Thái Tổ, Trần Thái Tông; riêng Lưu, Thiệu, thì có lẽ nhầm với Dương Diên Nghệ, Kiều Công Tiễn chăng?
[9]Tên tuổi không đúng: vì lúc này tao loạn nước ta thay ngôi đổi chủ liên miên, nên tên vua mới không đúng với hồ sơ; nên bị nhà Minh bắt bẻ.
[10]Xưa có người nước Kỷ lo chuyện trời sụp, nên có thành ngữ “ Kỷ nhân ưu thiên” để chỉ người quá lo xa.
[11]Tứ Di: bốn Di; chỉ các nước ngoài tại 4 phương đông, tây, nam, bắc xung quanh Trung Quốc.
[12]Minh Thực lục v. 80, tr. 4115- 4117; Thế Tông q. 195, tr. 1a 2a.
[13]Theo Toàn thư (tập 3, trang 76) Lê Trừu tức vua Tương Dực bị Trịnh Duy Sản giếtr.
[14]Thân phó cáo: tờ tự khai tại cửa khẩu lý do tại sao đến.
[15]Minh Thực lục v. 80, tr. 4156 4157; Thế Tông q. 197, tr. 1b 2a.
[16]Minh Thực lục v.80, tr. 4177-4179; Thế Tông q. 199, tr. 2a 3a.
[17]Hàng hóa: ý chỉ chiến lợi phẩm.
[18]Minh Thực lục v. 80, tr. 4180-4182; Thế Tông q.199, tr. 3a 4b.
[19]Kinh Xuân Thu là sử ký nước Lỗ, do Khổng Tử soạn ra.
[20]Xem văn bản ngày 11/5/1537 về 11 điều của bộ Binh.
[21]Xem chỉ dụ ngày 2/11/1535.
[22]Minh Thực lục v. 80, 4182-4184; Thế Tông q. 199,tr. 4b 5b.
[23]Chỉ việc Trần Đế Nghiễn bị phế năm 1387.
[24]Minh Thực lục v. 80, tr. 4186-4187; Thế Tông q. 199, tr. 6b 7b.
[25]Minh Thực lục v. 80, tr. 4194-4197; Thế Tông q. 200, tr. 1b 3a.
[26]Minh Thực lục v. 80, tr.4208-4210; Thế Tông q. 200, tr. 8b 9b.
[27]Minh Thực lục v. 80, tr. 4224; Thế Tông q.201, tr. 6b.
[28]Minh Thực lục v. 80, tr. 4255; Thế Tông q. 203, tr. 5a.
[29]Minh Thực lục v. 80, tr. 4262; Thế Tông q. 204, tr. 1b.
[30]Minh Thực lục v. 80, 4277-4279; Thế Tông q. 205, tr. 2a 3a.
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu và phát triển – Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên - Huế, các số 3(62) (tr. 109-122) & 4(63) (tr. 106-117), 2007