trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 497 bài
  1 - 20 / 497 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tư tưởngTriết họcXã hộiKinh tế
Loạt bài: Tranh luận về chủ nghÄ©a Marx
 1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11   12   13   14   15   16   17   18   19   20   21   22   23   24   25   26   27   28   29   30   31   32   33   34   35   36   37   38   39   40   41   42   43   44   45   46   47   48   49   50   51   52   53   54   55   56   57   58   59   60   61   62   63   64   65   66   67   68   69   70   71   72   73   74   75   76   77   78   79   80   81   82   83   84   85   86   87   88   89 
21.6.2004
Norman Barry
Kinh tế học và triết học của chủ nghĩa xã hội
Nguyễn Đức Thành dịch
 1   2 
 
Norman Barry là Giáo sư Chính trị học tại Trường Đại học Buckingham và là tác giả của các bộ sách: Nhập môn Lý thuyết Chính trị hiện đại, Triết học Kinh tế và Xã hội của Hayek, Pháp quyền mới, và Bàn về Chủ nghĩa Tự do Cổ điển và Chủ nghĩa Tự do-Vị lợi Cổ điển.

Nguồn: Bút ký kinh tế, số 6 - The Libertarian Alliance, 1986
http://www.libertarian.co.uk/lapubs/econn/econn006.pdf
1. Nguồn gốc của cuộc tranh luận về ‘tính toán’ xã hội chủ nghĩa [1]

Có một thực tế lạ lùng trong lịch sử tư tưởng chính trị và xã hội của thế kỷ này, đó là hai hệ thống kiến giải xã hội mang tính lý thuyết và duy lý, thống trị mạnh mẽ nhất, một bên là những người theo chủ nghĩa cá nhân tự do cổ điển và bên kia là những người theo chủ nghĩa tập thể, lại rất hiếm khi đối đầu nhau một cách trực tiếp trong lãnh địa của những phép tắc khảo cứu khoa học. Bất chấp dung lượng khổng lồ của chúng, những bài viết trong các ngành triết học xã hội này chẳng mấy khi được viết ra theo cách cho phép đi tới những giải pháp rốt ráo cho hàng loạt vấn đề chúng đặt ra: thay vào đó, chúng xuất hiện như những công trình kiến trúc vĩ đại, với nhiều tầng bậc mỹ thuật khác nhau, đứng kế bên nhau chứ không phải trên cùng một mảnh đất chung. Như những bà nội trợ xứ Glaswegia [2] gân cổ lên cãi nhau từ hai bên hè phố, người theo chủ nghĩa cá nhân và người theo chủ nghĩa tập thể dường như luôn luôn tranh luận từ hai hệ tiền đề khác nhau. Như người được giải Nobel về Khoa học Kinh tế George Stigler [3] từng nói, những cuộc tranh luận giữa những người xã hội chủ nghĩa’ và những người ‘tư bản chủ nghĩa’ là không ăn khớp với nhau (‘unjoined’). [4] Tuy nhiên, sự chệch choạc này, theo Stigler, hoàn toàn bắt nguồn từ sự thất bại của cả hai phe khi đánh giá các kết quả thực tiễn của những lập luận tương ứng của họ. Theo một lối ‘thực chứng’ điển hình, ông tuyên bố rằng chỉ ‘bằng chứng thực tế’ (evidence) mới có thể giải quyết được sự bất đồng giữa các hệ tư tưởng.

Trái với quan điểm trên, cần phải nhấn mạnh rằng những nhận định thực nghiệm riêng nó không bao giờ có thể mang tính quyết định trong các lập luận triết học về chính trị và xã hội. Nguyên nhân một phần vì dữ liệu trong lĩnh vực xã hội là rất phức tạp, không thể kiểm soát, mang tính tạm thời và lộn xộn. Rõ ràng là, những thất bại hiển nhiên của việc kế hoạch hoá tập trung nhằm tối đa hoá các mục tiêu xã hội chủ nghĩa đã không làm thay đổi ngay cả những người theo chủ nghĩa tập thể có đầu óc thực nghiệm, dù những thất bại này chắc chắn làm anh ta thất vọng. Anh ta luôn có thể quy kết chúng cho những tình huống không thuận lợi, những thứ hiển nhiên là không thể tránh khỏi, chứ không phải do một số sai sót nội tại trong lý thuyết của anh ta. Nhưng, quan trọng hơn, mọi lập luận thực chứng trong khoa học xã hội đều sống ký sinh trên một lý thuyết tổng quát nào đó, đòi hỏi một cơ sở mang tính triết học nhiều hơn. Vấn đề đã được nêu lên và trả lời bởi người theo chủ nghĩa cá nhân là tại sao những thất bại rõ ràng như thế của chủ nghĩa tập thể đã diễn ra: phải như thế thì sau đó anh ta mới có thể nói một cách tự tin rằng, những thất bại đó thực chất là những đặc điểm không thể khắc phục được của lâu đài kinh tế học xã hội chủ nghĩa.

Tất nhiên, đây là một vấn đề cực kỳ nan giải: liệu những cuộc tranh cãi trong triết học xã hội có thể được làm cho "ăn khớp" với nhau theo một cách thức nào đó, mà không phải theo lối thực nghiệm (và do đó chỉ liên hệ với nhau một cách cục bộ) hay không, câu hỏi này bản thân nó nhất định vẫn cứ là một đối tượng của sự bất đồng quan điểm thường hằng. Tuy nhiên, đã có một cuộc tranh luận trong lịch sử tư tưởng kinh tế, "cuộc tranh luận về tính toán" nổi tiếng giữa các nhà kinh tế xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa trong những năm 1920 và 1930, mà trong cuộc tranh luận đó những người tham gia không đứng tranh cãi trên những mảnh đất khác nhau, mà dường như ở trong cùng một khuôn khổ lý thuyết chung. Thêm vào đó, không những họ không tranh luận về "thực tiễn", mà trái lại, không có bên nào trong số họ bị xô đẩy bởi bất cứ một hiện tượng thực tế nào. Từ quan điểm của lịch sử tư tưởng kinh tế, cuộc tranh luận này đã được các nhà kinh tế khảo cứu cẩn thận rồi. Thật vậy, cho tới tận gần đây, vẫn có một sự đồng thuận giữa các nhà kinh tế chuyên nghiệp rằng, theo một nghĩa trừu tượng hay lý thuyết nào đó, các nhà kinh tế xã hội chủ nghĩa đã "thắng". [5] (Bất kể những vấn đề đạo đức, chính trị và thực tế khá hiển nhiên, những thứ vẫn có thể làm sự chống đối kế hoạch hóa xã hội chủ nghĩa trở thành dứt khoát). Mục đích của bài viết này là chứng tỏ rằng kết luận trên là sai lầm xét từ quan điểm của lý thuyết kinh tế. Tuy nhiên, người ta cũng biết rằng cuộc tranh luận về tính toán không thuần tuý chỉ liên quan đến kinh tế học; nó còn liên quan đến những vấn đề rộng lớn hơn của triết học xã hội, mà đa phần đã không được những người trong cuộc thừa nhận một cách công khai.

Nguồn gốc lịch sử dẫn tới cuộc tranh luận tương đối đơn giản. [6] Nó diễn ra giữa một bên là các nhận vật chủ chốt của Trường phái Kinh tế chính trị học Áo [7] , mà chủ yếu là Ludwig von Mises (1881-1973) và Friedrich von Hayek (sinh năm 1899), còn bên kia là các môn đồ của cách tiếp cận cân bằng tổng quát chính thống, nổi bật nhất là H. D. Dickinson (1899-1968), Fred M. Taylor (1855-1932), Oscar Lange (1904-1965) và, về sau này, Abba P. Lerner (1903-1982). Cuộc tranh luận được mở màn vào năm 1920 với sự công bố bài báo nổi tiếng của Mises, ‘Tính toán kinh tế trong Khối thịnh vượng chung Xã hội chủ nghĩa’ [8] , [9] trong đó, ông lập luận rằng nếu không có một thị trường cho hàng tiêu dùng và nhân tố sản xuất, thì các giá trị kinh tế (không chỉ giá cả của hàng tiêu dùng, mà bao hàm tất cả các loại tiền tô, tiền công và lãi suất) sẽ không thể nào được tính toán ra là bao nhiêu, mà sẽ phải bị quyết định một cách độc đoán (arbitrarily) bởi một chính quyền trung ương. Nếu một hệ thống xã hội chủ nghĩa loại bỏ thị trường, thì nó cũng loại bỏ cách tổ chức hợp lý của một nền kinh tế.

Lúc này các nhà kinh tế xã hội chủ nghĩa có tên trên kia đã xem xét những phê phán của Mises một cách rất nghiêm túc (điều này có thể là một lý do vì sao họ không mấy khi được nhắc tới trong các cuốn lịch sử chuẩn về tư tưởng xã hội chủ nghĩa do các nhà khoa học và lý thuyết chính trị viết nên) nhưng họ nghĩ rằng câu trả lời cho những câu hỏi của Mises có thể được tìm thấy ngay trong hệ thống lý thuyết kinh tế chính thống. Hệ thống này đã thực sự cung cấp một cách tính toán giá trị, xét cho cùng thì dựa trên sự ưa thích chủ quan, nhưng không nhất thiết đi tới kết luận rằng hệ thống kinh tế nên bao hàm các thể chế tư bản chủ nghĩa điển hình với quyền tư hữu và các ‘hãng’. Chính Hayek là người đã bảo vệ và triển khai những tiền đề của Mises bằng cách tấn công một cách công khai vào quan điểm chính thống về tính toán kinh tế. Tuy nhiên, bản chất của phê phán Mises- Hayek chưa bao giờ được hiểu cho thấu đáo vào thời điểm đó, chủ yếu là vì kinh tế học Áo chưa bao giờ được phân định cho rõ ràng như một loại lý thuyết kinh tế khác biệt so với lý thuyết thị trường cạnh tranh truyền thống, và cuộc tranh luận dường như được khép lại vào cuối những năm 1930 với phần thắng vẻ vang thuộc về các nhà xã hội chủ nghĩa. Sau năm 1920, Mises tiếp tục tấn công chủ nghĩa xã hội nhưng phê phán của ông có khuynh hướng trượt theo những nghiên cứu mang tính tâm lý học và xã hội học nhằm chống lại các nhà xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa xã hội [10] . Thật thú vị, cả Hayek cũng chuyển hướng từ lý thuyết kinh tế thuần tuý sang triết học xã hội một cách tổng quát và phát triển một học thuyết phức tạp về phương pháp luận và nhận thức luận, mà học thuyết này, giờ đây nhìn lại, có liên quan trực tiếp đến cuộc tranh luận ban đầu. Cách giải thích của ông về bản chất của tri thức kinh tế, nếu đúng, loại bỏ hoàn toàn cách tính toán do các nhà xã hội chủ nghĩa đưa ra vào những năm 1930. Lý thuyết kinh tế không còn là một công cụ trung tính phục vụ bất cứ một hình thức kinh tế cho trước nào, mà chỉ có ý nghĩa trong một hệ khái niệm triết học mong muốn tìm cách lĩnh hội đầy đủ bản chất của đời sống xã hội mà thôi.
 

2. Phê phán mang tính xã hội chủ nghĩa về chủ nghĩa tư bản

Cuộc tranh luận giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản diễn ra dưới nhiều hình thức. Nhìn lại sự phát triển về lý luận của chủ nghĩa xã hội trong 150 năm qua, chúng ta có thể quy sự phản đối mang tính xã hội chủ nghĩa đối với chủ nghĩa tư bản thành bốn loại. Loại thứ nhất, bắt nguồn từ chủ nghĩa Marx, cho rằng các hình thức của đời sống kinh tế và xã hội chỉ mang tính lịch sử và do đó chủ nghĩa xã hội là kết quả tất yếu của những quy luật không thể đảo ngược. Những người theo quan điểm này không bận tâm nhiều lắm với vấn đề tính toán. Trật tự tư bản chủ nghĩa sẽ để lại một thế giới sung túc nên thế giới xã hội chủ nghĩa mới trong tương lai không cần tới lý thuyết kinh tế vì lúc ấy không còn sự khan hiếm. [11] Thực vậy, những cư dân của nó thậm chí sẽ không còn lòng ham muốn vô hạn độ nữa vì đó chỉ là một đặc tính riêng có của con người tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này của con người được coi là chỉ mang tính tạm thời trong một giai đoạn lịch sử nhất định, chứ không phải là một chân lý phổ biến đối với loài người.

Phê phán mang tính xã hội chủ nghĩa thứ hai về chủ nghĩa tư bản thực chất là sự triển khai khía cạnh vừa nhắc đến trên kia của chủ nghĩa xã hội lịch sử. Theo quan điểm này, người tiêu dùng không phải là những tác nhân chủ động tự do quyết định nhu cầu của họ, trái lại, họ là những nạn nhân "tự nguyện" của hệ thống sản xuất, cái quyết định nhu cầu của họ. Tự do xã hội chủ nghĩa thực thụ chỉ tồn tại khi con người thoát khỏi những ham muốn có tính chất tự huỷ hoại chính bản thân họ. Quan điểm này thể hiện rõ trong cuộc tấn công của Galbraith [12] vào vai trò của những nhà quảng cáo và các tập đoàn "vô trách nhiệm". Điều này được thể hiện dưới một hình thức cuồng loạn (hysterical) hơn trong những tác phẩm của Marcuse [13] . Một lần nữa, người ta cho rằng không có vấn đề tính toán nghiêm trọng nào cần phải giải quyết bởi vì một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có thể dễ dàng tạo ra một năng lực sản xuất đủ để thoả mãn mọi nhu cầu chủ động thực sự. Nhưng ngay cả ở đây, sự thoả mãn những nhu cầu thiết yếu nhất cũng đòi hỏi một số kỹ thuật sản xuất hợp lý nào đó; một điểm được nhấn mạnh trong các phê phán của chủ nghĩa xã hội.

Phê phán mang tính xã hội chủ nghĩa thứ ba ít chú trọng hơn đến những tính toán siêu hình trên và tập trung nhiều hơn đến sự phân phối thu nhập và của cải bất công hiển hiện trong xã hội vận hành theo thị trường tư bản chủ nghĩa. Học thuyết này liên hệ đến những khái niệm quen thuộc về công bằng và bình đẳng xã hội, và đề cao điều này như là những tiêu chí đạo đức ngoại biên (external) để đánh giá sự vận hành của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Hiển nhiên là ở đây tồn tại vấn đề tính toán, bởi vì nếu nhu cầu được coi là chủ động và mục tiêu của hoạt động kinh tế là làm thoả mãn những nhu cầu đó, thì vẫn tồn tại một vấn đề cực kỳ hệ trọng, đó là liệu chủ nghĩa bình quân có thể không mang tính phá hoại to lớn đối với năng lực sản xuất của một nền kinh tế, mà những thành quả của nó đòi hòi sự mất mát ròng trong việc thoả mãn nhu cầu thậm chí của cả những người đã bị làm cho nghèo đi, hay không. [14] Trên thực tế, theo quan điểm này, không có một lý thuyết sản xuất nghiêm túc nào cả.

Sự chống đối mang tính xã hội chủ nghĩa thứ tư tập trung mạnh mẽ vào vấn đề hiệu quả nằm ẩn sau những phê phán trên. Một lần nữa, nhu cầu của người tiêu dùng được xem như những nhân tố quyết định đầu ra, nhưng vấn đề là liệu các hệ thống tư bản chủ nghĩa truyền thống, với những đặc tính như độc quyền, hiệu suất tăng theo quy mô và các hình thức "quyền lực" thị trường khác, có thể gặt hái được những mục tiêu đã được thiết lập một cách nội sinh hay không? Nói cách khác, người ta cho rằng một hệ thống sản xuất kế hoạch hoá tập trung (và thuộc sở hữu công), có thể đem lại những cải thiện về tính hiệu quả, và loại trừ những mất mát phúc lợi bắt nguồn từ những khuyết điểm nêu trên của các hệ thống thị trường hiện thời, đồng thời vẫn duy trì được sự lựa chọn của cá nhân trong tiêu dùng và chiếm hữu. Quan điểm trên chính là quan điểm về chủ nghĩa tân cổ điển chính thống của các nhà xã hội chủ nghĩa "thị trường" được đề cập trên kia, những người xây dựng hệ thống của họ từ lý thuyết cân bằng tổng quát.

Tuy nhiên, phần nhiều cảm hứng của các lý thuyết gia kinh tế của chủ nghĩa xã hội, như Lange, Lerner, Taylor và Dickinson [15] , bắt nguồn từ niềm tin của họ, rằng sự bất bình đẳng về của cải và sự phân định nguồn lực là những sai sót vốn có và có khả năng chỉnh sửa mà không phá hoại những đặc điểm về tính hiệu quả của một hệ thống kinh tế. Những "bất công" này không bị chống đối xét theo bất cứ một nghĩa triết học sâu xa nào: giả định ẩn ở đây là những bất công ấy chỉ đơn thuần là sự tuỳ tiện (arbitrary). Do đó, có một sợi chỉ xuyên suốt không thể tiệt trừ được của chủ nghĩa duy lý trong lý thuyết kinh tế của chủ nghĩa xã hội, dẫn tới một giả định không được đưa ra luận bàn, là quyền sở hữu có thể được tráo đi đổi lại một cách vô hạn và vì thế tạo nên một điểm tối ưu mong muốn nào đó.

Chính loại phê phán cuối cùng này trong bốn loại phê phán trên có liên quan nhiều nhất đến cuộc tranh luận về tính khả thi của một xã hội xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, cả ba quan điểm trước cũng sẽ vẫn được xem xét ở một mức độ nhất định trong những lý giải của tôi về cuộc tranh luận cũng như cách tôi suy diễn những gì sẽ diễn ra sau đó. Cuộc tranh luận về tính toán có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong lịch sử tư tưởng kinh tế và xã hội vì trong cuộc tranh luận đó, những người tham chiến chính dường như cùng thao tác trên những khái niệm quen thuộc về tính duy lý, về "con người cá thể" (‘person’), và về bản chất của vấn đề kinh tế. Vào năm 1920, Mises đã thiết lập cương giới cho cuộc tranh luận khi nói rằng việc chạy trốn sang lĩnh vực siêu hình học, tại đó các vấn đề về sự tồn tại tối hậu được đặt lên trên vấn đề phân bổ nguồn lực khan hiếm, là không thể được. Như Hayek đã viết một cách súc tích khi nhìn nhận lại Cuộc tranh luận: "Do đó, vấn đề kinh tế phát sinh ngay khi những mục đích khác nhau phải cạnh tranh với nhau vì các nguồn lực hiện có." [16] Vì vậy, không có một mục đích nào được phép có vị thế siêu hình học cao hơn các mục đích khác.


© 2004 talawas



[1]"Tính toán xã hội chủ nghĩa" (Socialist Calculation) là đối tượng của một trong những cuộc tranh luận lớn nhất trong lịch sử kinh tế học thế kỷ XX, mà bài viết sau đây sẽ đề cập tới. Cuộc tranh luận xoay quanh vấn đề liệu một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa kế hoạch hoá có thể thay thế việc tính toán của thị trường (tự do) trong việc phân bổ nguồn lực và điều tiết giá cả hay không. Nếu tính toán xã hội chủ nghĩa không thay thế được thị trường, thì coi như Chủ nghĩa xã hội là không khả thi về mặt lý thuyết, và tất yếu sẽ bị thủ tiêu. (ND)
[2]Miền đất phía Tây Bắc Scotland, nổi tiếng với những bà vợ ghê gớm. (ND)
[3]George J. Stigler (1911-1991), nhận giải Nobel về Kinh tế học năm 1982, "vì những nghiên cứu đột phá của ông về cấu trúc ngành, chức năng của thị trường và những nguyên nhân và hậu quả của điều tiết công" (Hội đồng trao giải Nobel 1982). Stigler còn được giới kinh tế học kính trọng với tư cách một sử gia tư tưởng kinh tế sắc sảo và độc đáo. (ND)
[4]G. Stigler, Công dân và Nhà nước, Chicago, Nxb trường Đại học Chicago, 1975, tr. 1-13.
[5]Xem A. Bergson, ‘Chủ nghĩa xã hội’ trong Howard Ellis (ed.), Khảo cứu về Kinh tế học đương đại, Illinois, Homewood, 1952.
[6]Về luận điểm trường phái áo xem F. A. von Hayek (ed.), Kế hoạch hoá kinh tế tập thể chủ nghĩa, London, Routledge, 1935 và các tiểu luận của ông về ‘Tính toán Xã hội chủ nghĩa’ trong Chủ nghĩa cá nhân và Trật tự kinh tế; L. von Mises, Chủ nghĩa xã hội, London, Cape, 1936; và T. J. B. Hoff, Tính toán kinh tế trong xã hội xã hội chủ nghĩa, Indianapolis, Liberty Press, 1981. Trong số rất nhiều đóng góp về chủ nghĩa xã hội, tôi đã sử dụng các tài liệu sau: F. M. Taylor, ‘Định hướng sản xuất trong một Nhà nước xã hội chủ nghĩa’, American Economic Review, tập XIX, 1929, tr. 1-9; Oskar Lange, ‘Về Lý thuyết kinh tế của Chủ nghĩa xã hội’, Review of Economic Studies, Tập I, 1936, tr. 53-71, in lại trong A. Nove và D. M. Nuti (Eds.), ‘Kinh tế học Xã hội chủ nghĩa’, Economic Journal, tập 47, 1937, tr. 253-270; và B. Lippincott (ed.), Về Lý thuyết Kinh tế của Chủ nghĩa xã hội, Minnesota, Nxb trường Đại học Minnesota, 1938. Về những khảo cứu gần đây của các nhà kinh tế, xem K. I. Vaughan, ‘Tính toán kinh tế dưới Chủ nghĩa xã hội’, Economic Enquiry, tập 18, 1980, tr. 534-554; Don Lavoie, ‘Phê phán cách giải thích chuẩn về sự tính toán [xã hội chủ nghĩa]’, Journal of Libertarian Studies, tập v, 1981, tr. 41-87; và P. Murrell, ‘Liệu lý thuyết của Chủ nghĩa xã hội thị trường có trả lời được thách thức của von Mises?’, History of Political Economy, tập 15, 1983, tr. 92-105.
[7]Trường phái kinh tế học Áo (Austrian School of Economics) do Carl Menger (1841-1921) sáng lập vào những năm 1870, sau đó được các môn đồ là Eugen von Böhm-Bawerk (1851-1914) và Friedrich von Wieser (1851-1926) kế tục. Trường phái Áo kêu gọi một thị trường tự do và chống lại gần như bất cứ sự can thiệp nào của nhà nước. Vào thế kỷ XX, lý luận của Trường phái Áo đạt tới đỉnh cao nhờ công lao của hai nhà kinh tế lỗi lạc Ludwig Edler von Mises (1881-1973) và Friedrich August von Hayek (1889-1992). (ND)
[8]xem nguyên tác tiếng Anh: www.mises.org/econcalc.asp (ND)
[9] In lại trong Hayek, Kế hoạch hoá kinh tế tập thể chủ nghĩa, tr. 87-130.
[10]Xem cuốn Chủ nghĩa xã hội của L. von Mises.
[11]Sự thiếu nhiệt tình quan tâm đến kinh tế học về xã hội cộng sản của bản thân Marx là dễ thấy.
[12]John Kenneth Galbraith (sinh năm 1908), kinh tế gia người Mỹ gốc Canada, được xem là một lãnh tụ của phái Thể chế Mỹ (American Institutionalism), mặc dù ông không thừa nhận điều này. Galbraith có những phê phán chua cay về xã hội tư bản hiện đại, và về chính các đồng nghiệp là kinh tế gia theo phái chính thống, khi ông coi họ như những tên nô lệ giáo điều. Các tác phẩm nổi tiếng của ông là American Capitalism (1952), The Affluent Society, (1958), The New Industrial State (1967). (ND)
[13]Herbert Marcuse (1898-1979) nhà tư tưởng, nhà triết học người Đức. Thoạt tiên cộng tác với Heidegger, nhưng đã chia tay vì những bất đồng quan điểm trong lý thuyết Quốc xã. Marcuse nổi tiếng với tư cách một nhà tư tưởng phê phán mạnh mẽ xã hội tư bản hiện đại. Ông đã nỗ lực tổng hợp lý thuyết của Freud với chủ nghĩa Mác, thể hiện rõ qua tác phẩm Eros and Civilization (1955) (bản tiếng Việt "Dục tính và Văn minh" do NXB Kinh Thi xuất bản ở miền Nam Việt Nam trước Giải phóng). Marcuse còn là một nhà hành động cánh tả, nhận được nhiều ủng hộ của thanh niên phương Tây những năm 1960-70. Xem thêm: www.marcuse.org/herbert/ (ND)
[14]Điều này ít khi được nhắc tới, ngay cả trong tư tưởng xã hội chủ nghĩa ôn hoà, khi mà sự phân phối bình quân chủ nghĩa không nhất thiết trợ giúp cho những người nghèo nhất.
[15]Lange: xem chú thích chi tiết ở phần sau. Abba P. Lerner (1903-1982) kinh tế gia gốc Nga nhưng được đào tạo ở Trường Kinh tế London (LSE), di cư sang Mỹ năm 1937, có nhiều đóng góp cho kinh tế học thời bấy giờ. Lerner đứng về phía Lange trong cuộc tranh luận từ năm 1934. Fred M. Taylor (1855-1932) kinh tế gia người Mỹ, tham gia vào cuộc tranh luận từ rất sớm với bài viết "The Guidance of Production in a Socialist State" (AER 1929). Henry Douglas Dickinson (1899-1968), được biết đến với các tác phẩm "Price Formation in a Socialist Community" (EJ 1933) và The Economics of Socialism, (1939). (ND)
[16]‘Bản chất và lịch sử của vấn đề’, trong Kế hoạch hoá kinh tế tập thể chủ nghĩa, tr. 6.

Nguồn: Tiểu luận này lần đầu tiên xuất hiện trên Il Politico, má»™t tạp chí về Khoa học Chính trị của Italia (Trường Đại học Pavia), Tập XLIX, Số 4, năm 1984