trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 235 bài
  1 - 20 / 235 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tủ sách talawas
Loạt bài: Sách xuất bản tại miền Nam trÆ°á»›c 1975
 1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11   12   13   14   15   16   17   18   19   20   21   22   23   24   25   26   27   28   29   30   31   32   33   34   35   36   37   38   39   40   41   42   43   44   45   46   47   48   49   50   51   52   53   54   55   56   57   58   59   60   61   62   63   64   65   66   67   68   69   70   71   72   73   74   75   76   77   78   79   80   81   82   83   84   85   86   87   88   89   90   91   92   93   94   95 
26.2.2007
Henry Miller
Thời của những kẻ giết người - Nghiên cứu về Rimbaud
Nguyễn Hữu Hiệu dịch
 1   2   3   4   5 
 
Tựa

Đúng một trăm năm trước đây, vào tháng Mười vừa qua, Rimbaud ra đời. Tại Pháp, lễ tưởng niệm đệ bách chu niên được tổ chức một cách ngoạn mục. Những nhà văn lừng danh khắp thế giới đều được mời đến để dự cuộc hành hương tới Charleville, nơi chôn rau cắt rốn của chàng. Những buổi lễ mang tính chất quốc gia đại sự. Về phần Rimbaud, có lẽ chàng cũng trở mình trong mộ. Từ ngày mất đi, phần lớn tác phẩm vĩ đại của Rimbaud đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, trong đó có tiếng Thổ Nhĩ Kỳ và tiếng Bengali. Ở bất cứ nơi nào còn biết cảm thi ca và phiêu đãng, tên chàng là một tiếng nói cửa miệng. Trong những năm gần đây, sự sùng bái của những tín đồ Rimbaud đã lên đến những kích thước dị thường và sách biên khảo về cuộc đời và tác phẩm chàng gia tăng bằng những bước nhẩy vọt. Không một thi sĩ nào của thời hiện đại có thể nói là đã nhận được sự chú ý và tôn kính nhường ấy.

Từ Một mùa địa ngục Thần cảm, chỉ có một số ít thơ của chàng tìm được đường vào ngôn ngữ chúng ta. Ngay cả số lượng dịch thuật ít ỏi này cũng đã cho thấy một sự sai biệt sâu xa và không thể tránh được trong cách diễn dịch. Tuy nhiên, dù bút pháp và tư tưởng khó khăn và bất khả lãnh hội đến mức nào chăng nữa, Rimbaud không phải là không thể dịch được. Khu xử công bình tác phẩm chàng lại là một chuyện khác. Tuy vậy trong Anh ngữ, chúng ta phải tạo ra được một thi sĩ nào khả dĩ có thể làm cho Rimbaud điều mà Baudelaire đã làm cho thơ của Poe, hay Nerval đã làm cho tác phẩm Faust, hoặc Morel và Larbaud đã làm cho Ulysses.

Tôi muốn làm sáng tỏ sự kiện rằng thiên nghiên cứu mỏng manh này, được viết mười năm về trước, là kết quả của một cuộc dịch thuật thất bại có chủ định cuốn Một mùa địa ngục. Tôi vẫn còn nuôi hy vọng phiên dịch bản văn này bằng một ngôn ngữ sát với ngôn ngữ “mọi đen” của Rimbaud hơn nữa. Những tác giả Really the Blues, hay như Lord Buckley [1] , gần Rimbaud hơn những thi sĩ đã tôn sùng và bắt chước chàng, dầu họ không thể ý thức về điều đó.

Điều Rimbaud đã làm cho ngôn ngữ, chứ không phải chỉ riêng cho thi ca, mới chỉ đang bắt đầu được hiểu. Và theo tôi, dường như được hiểu bởi độc giả nhiều hơn nhà văn. Ít ra là trong xứ sở chúng ta. Hầu như tất cả những thi sĩ Pháp hiện đại đều chịu ảnh hưởng chàng. Quả thực người ta có thể nói rằng thi ca Pháp hiện đại vay mượn Rimbaud tất cả. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có người nào vượt nổi chàng – trong sự táo bạo hay sáng tạo. Một đương kim thi sĩ duy nhất có thể cho tôi bất kỳ điều gì từ tựa sự thích thú và kích động của Rimbaud là St. John Perse. (Cuốn Vents của ông, đầy đủ một cách kỳ dị, đã được Hugh Chisholm cũng ở tại Big Sur này, dịch).

Bản văn trong sách này tái bản nguyên văn đã xuất hiện trong hai phần trong tác phẩm hàng năm của nhà New Directions, số 9 và 11. Từ đó nó được xuất bản bằng Pháp và Đức ngữ, cả hai ấn bản đều được in tại Thuỵ Sĩ, [2] một xứ sở kém khả năng giao kết với thiên tài Rimbaud nhất. Trong ấn phẩm này, thứ tự hai phần đã bị đảo ngược. Có lẽ tôi phải nói thêm rằng, mới đầu, tôi định viết thêm hai phần nữa, nhưng tôi đã bỏ ý định ấy.

Tôi thành tâm tin tưởng rằng, giờ đây Hoa Kỳ cần phải làm quen với khuôn mặt thần thoại này hơn bao giờ hết. (Cũng như phải làm quen với một thi sĩ Pháp dị thường khác đã tự tử vào tháng Giêng một trăm năm trước đây; Gérard de Nerval). Chưa bao giờ có một thời đại nào mà đời sống của thi sĩ bị đe doạ hơn ngày nay. Những chủng loại Hoa Kỳ, quả thực, đang ở trong hiểm hoạ tuyệt diệt hoàn toàn.

Khi Kenneth Rexroth được tin Dylan Thomas mệnh yểu, ông vội vàng viết một bài “Tưởng niệm” nhan đề Người sẽ không được giết người. [3] Được viết trong một trạng thái cảm xúc cùng cực, và không có ý định đem ấn hành, tuy nhiên lập tức được lưu hành và chuyển dịch ra nhiều thứ tiếng. Nếu người nào còn hồ nghi bất cứ điều gì về số phận mà xã hội chúng ta dành cho thi sĩ, hãy để hắn đọc bài “Tưởng niệm” người thi sĩ xứ Welsh, người viết cuốn Chân dung của nghệ sĩ như một con chó con.

Địa vị và tình cảnh của thi sĩ – tôi dùng chữ theo nghĩa rộng cũng như nghĩa hẹp - hiển nhiên phát lộ trạng thái đích thực sức sống của một dân tộc. Trung Hoa, Nhật Bản, Ấn Độ, Phi châu nguyên thuỷ, ở đây, thi ca hãy còn không thể tuyệt căn được. Điều mà rõ ràng chúng ta thiếu trong xứ sở này, điều mà chúng ta hãy còn chưa thể ý thức, ngay cả được rằng chúng ta thiếu, ấy là kẻ mơ mộng, một cuồng nhân cảm hứng. Với xiết bao hoan hỉ quái đản, khi đến lúc chôn vùi con người ấy, chúng ta chỉ chú mục vào sự “bất khả thích nghi” của cá nhân đơn độc này, kẻ phản kháng đích thực duy nhất trong một xã hội ruỗng nát! Tuy vậy chính những khuôn mặt này đã mang lại cho từ ngữ “bất khả thích nghi” bị lạm dụng một ý nghĩa.

Trong một bài bào về “Baudelaire chính trị” trong tờ Beaux-Arts, số ngày 25 tháng Giêng, 1955, Maurice Nadeau viết như vầy: “Dans Mon Coeur mis à nu il veut ‘faire sentir sans cesse (qu’il se sent) étranger au monde et ses cultes. C’est le monde de la bourgeoisie dont ‘la morale de comptoir’ lui ‘fait horreur’, ‘un monde goulu, affamé de matérialités, infatué de lui même et qui ne s’apercoit pas qu’il est entré en décadence, un monde que dans une singlière prophétie il voit de plus en plus ‘américanié’, ‘voué à l'animalité, où tout ce qui ne sera pas l'ardeur vers Plutus sera reputé un immense ridicule.”

Nét nổi bật của những thi sĩ dẫn đạo của thế kỷ Mười chín và của thế kỷ Hai mươi cũng vậy, là khuynh hướng tiên tri của họ. Khác với Blake và Whitman mà tác phẩm đầy ắp sự xuất thần nhập diệu của một viễn tượng vũ trụ, những thi sĩ của chúng ta sau này trú ngụ trong tận thâm sơn cùng cốc. Sự quyến rũ của muôn năm trường trị đã ám ảnh những linh tưởng gia như Joachim de Flore, Hieronymus Bosch, Pico della Mirandola, và ngày nay cấp bách một cách khiêu khích hơn bao giờ, đã bị thay thế bởi tình trạng nô lệ sự hư vô hoá hoàn toàn. Trong xoáy nước của đêm tối và hỗn mang đang tới - một thứ hỗn độn thực sự - thi sĩ ngày nay rút lui, tự ướp mình trong một thứ ngôn ngữ bí hiểm càng ngày càng trở nên bí hiểm thêm lên mãi. Và vì họ lần lượt tắt ngấm nên những xứ sở sản sinh ra họ nhất định lao đầu xuống dốc.

Việc giết người, vì đúng nó là như vậy, chẳng bao lâu sẽ đi tới chung cục của nó. Vì tiếng nói của thi sĩ trở nên tắc nghẹn, lịch sử mất ý nghĩa của nó và hứa hẹn thế mạt luận bừng lên như một bình minh mới mẻ và đe doạ lên ý thức con người. Chỉ bây giờ, bên mép bờ vực thẳm, người ta mới có thể nhận thức được rằng “tất cả mọi điều người ta dậy chúng ta đều sai lầm”. Bằng chứng của lời phát biểu phá hoại này có thể chứng minh được mỗi ngày trong mọi lãnh vực: trên chiến trường, trong phòng thí nghiêm, trên báo chí, trong trường học, trong nhà thờ. Chúng ta hoàn toàn sống trong quá khứ, được nuôi dưỡng bởi những tư tưởng chết, tín đều chết, hiểu biết chết. Và chính quá khứ nhận chìm chúng ta chứ không phải tương lai. Tương lai bao giờ cũng đã và cũng sẽ thuộc về - thi sĩ.

Có lẽ trong khi chạy trốn khỏi thế giới, Rimbaud gìn giữ tâm hồn chàng khỏi một số phận hẩm hiu hơn số phận dành cho chàng ở Abyssinie. Có lẽ La Chosse Spirituelle, nếu có luôn luôn được khai quật lên, sẽ cung cấp một đầu mối hiện bây giờ đang thiếu. Có lẽ - biết đâu? – nó sẽ cho chúng ta một sợ dây nối liền Một mùa địa nguc và “Giáng sinh trên trần gian” đó mà xưa có lần đã là thực tại cho chàng thanh niên mơ mộng.

Trong ngôn ngữ tượng trưng của tâm hồn, Rimbaud mô tả tất cả những gì hiện đang xẩy ra ngày hôm nay. Theo ý tôi, không có chút tương phản nào giữa viễn tượng của chàng về thế giới và về cuộc sống vĩnh cửu, với viễn tượng của những nhà cải cách tôn giáo vĩ đại. Chúng ta được khích lệ đi khích lệ lại nhiều lần sáng tạo một viễn tượng mới về thiên đàng và trần gian, bắt đầu lại lần nữa, để người chết chôn người chết, sống như huynh đệ ruột thịt, biến Giáng sinh trên trần gian thành một thực tại. Và liên tiếp chúng ta được cảnh tỉnh rằng trừ phi ước vọng về một cuộc sống mới trở thành một xác tín sinh động cho mỗi và tất cả mọi người chúng ta, cuộc sống trần gian không bao giờ có thể là gì hơn một Lò luyện tội hay một Địa ngục. Một vấn đề và vấn đề duy nhất đối đầu với chúng ta là - chúng ta có thể trì hoãn cái không thể tránh được bao lâu nữa?

Khi chúng ta suy tưởng rằng người xách tai thế giới chỉ là một cậu bé con, chúng ta ăn nói làm sao bây giờ? Chẳng có chút gì tỷ như kỳ diệu trong sự xuất hiện của Rimbaud trên trái đất này như trong sự giác ngộ của Đức Cồ Đàm, hay trong sự chấp nhận Thánh giá của đấng Christ, hay trong sứ mệnh giải thoát khó tin của Jeanne d’ Are sao? Tha hồ bạn muốn diễn dịch tác phẩm chàng thế nào cũng được, muốn giải thích cuộc đời chàng thế nào cũng xong, song le không có gì cho phép quên chàng. Tương lai là của chàng tất cả, dẫu rằng bây giờ chưa có tương lai.

Henry Miller
Big Sur, California 1955


Phần 1: Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu

Chính vào năm 1927, trong tầng lầu chìm dưới mặt đất của một ngôi nhà tối tăm dơ dáy ở Brooklyn mà tôi được thấy tên tuổi Rimbaud được nhắc đến lần thứ nhất. Lúc ấy tôi ba mươi sáu tuổi và đang ở trong Mùa địa ngục dài đằng đẵng của riêng tôi. Một cuốn sách rất lý thú về Rimbaud đang nằm đâu đó trong căn nhà nhưng tôi chẳng hề ngó ngàng tới một lần. Nguyên do là bởi tôi ghê tởm người đàn bà chủ nhân cuốn sách lúc ấy đang sống chung với chúng tôi. Trong vẻ mặt, tính tình và cử chỉ của nàng, như sau này tôi khám phá thấy, hơi giống Rimbaud như người ta có thể tưởng tượng.

Như tôi đã nói, dầu Rimbaud là tất cả đề tài câu chuyện mất thì giờ giữa Thelma và vợ tôi, tôi không cố gắng tìm hiểu chàng. Thực ra, tôi chiến đấu điên cuồng để đẩy chàng ra khỏi tâm trí tôi, dường như đối với tôi lúc đó chàng là một thiên tài xấu xa vô tình gây cho tôi mọi phiền nhiễu và khổ cực. Tôi thấy rằng Thelma, người mà tôi khinh miệt, đã đồng hoá với chàng, hết sức bắt chước chàng, không những chỉ trong hành vi mà cả trong lối thơ nàng viết. Tất cả mọi sự hiệp lực âm mưu để khiến tôi cự tuyệt tên tuổi, ảnh hưởng, ngay cả cuộc đời chàng. Lúc đó tôi đang ở bậc thang thấp nhất trong toàn thể nghề nghiệp tôi, tinh thần tôi hoàn toàn tan tác. Tôi còn nhớ tôi ngồi trong tầng lầu ẩm lạnh dưới mặt đất cố viết dưới ánh đèn cầy leo lét bằng một cây bút chì. Tôi đang cố gắng viết một vở kịch miêu tả tấn thảm kịch của chính tôi. Không bao giờ tôi vươn lên nổi quá hồi thứ nhất.

Trong trạng thái tuyệt vọng và kiệt quệ đó dĩ nhiên tôi hoài nghi đến cùng cực thiên tài của một thi sĩ mười bẩy tuổi. Tất cả những điều tôi nghe nói về chàng có vẻ như một chuyện bịa đặt của mụ Thelma điên khùng. Lúc đó tôi đã đi đến chỗ có thể tin rằng, với chuyện bịa đặt đó, mụ có thể cầu đảo những cách hành hạ tế nhị để reo rắc tai ương sầu não cho tôi, bởi mụ cũng ghét tôi nhiều như tôi ghét mụ. Cuộc sống mà ba chúng tôi đang sống lúc đó, và tôi kể dài dòng trong Đóng đinh trên cây thập tự hồng, giống như một đoạn trong truyện của Dostoievsky. Đối với tôi ngày nay nó có vẻ không thực và không thể tin được.

Tuy nhiên, điểm chính là tên của Rimbaud đã đeo dính. Mặc dầu tôi chẳng hề ngó ngàng gì đến tác phẩm của chàng cho đến sáu bẩy năm sau, ở nhà Anais Nin ở Louveciennes, sự hiện diện của chàng chẳng bao giờ rời tôi. Đó còn là một sự hiện diện xáo trộn nữa. “Một ngày kia mi sẽ phải vật lộn với ta.” Đó là điều tiếng nói của chàng không ngừng nhắc nhở bên tai tôi. Ngày mà tôi đọc dòng đầu tiên của Rimbaud, tôi sực nhớ lại rằng đó là bài Le Bateau Ivre mà Thelma thường lảm nhảm đọc đi đọc lại khá nhiều lần. Con tầu say! Hàm ngụ xiết bao tựa đề đó ngày nay trong ánh sáng của tất cả những điều tôi cảm thấy nghiệm sau này! Trong thời gian đó Thelma chết trong một dưỡng trí viện. Và nếu tôi không tới Paris, bắt đầu làm việc hăng hái ở đó, tôi nghĩ rằng số phận tôi có lẽ cũng tương tự như vậy. Trong tầng nhà dưới mặt đất trên Đỉnh cao Brooklyn đó, con thuyền của tôi đã đắm. Khi cuối cùng sống thuyền gẫy làm đôi và tôi ý thức được rằng tôi tự do, rằng cái chết tôi đã trải qua đã giải thoát tôi.

Nếu thời kỳ ở Brooklyn đó tượng trưng Mùa địa ngục của tôi, thì thời kỳ ở Paris, nhất là từ năm 1932 đến 1934, chính là thời kỳ Thần cảm của tôi vậy.

Đem tác phẩm Rimbaud ra thảo luận vào thời kỳ này, khi chưa bao giờ tôi phong phú, hân hoan, phấn khởi như thế, tôi phải gạt chàng ra ngoài, đối với tôi sự sáng tạo của riêng tôi còn quan trọng hơn. Chỉ liếc qua văn phẩm của chàng là tôi biết ngay cái gì đang nằm trong kho phần tôi. Chàng là cốt mìn thuần tuý, nhưng trước hết tôi phải liệng cây gậy của tôi. Vào thời gian đó tôi không biết chút chi về cuộc đời chàng trừ từng đoạn rời mà Thelma đã làm vương vãi những năm về trước. Tuy nhiên tôi cũng phải đọc đôi dòng tiểu sử chàng. Đó là vào năm 1943, trong khi sống tại Beverly Glen với John Dudley, hoạ sĩ, lần đầu tiên tôi đọc vể Rimbaud. Tôi đọc Một mùa địa ngục của Jean – Marie Carré, kế đó là tác phẩm của Enid Starkie. Tôi tê điếng lặng câm. Dường như chưa bao giờ tôi đọc thấy một cuộc đời nào bị trù ếm khủng khiếp như cuộc đời Rimbaud. Tôi hoàn toàn quên tất cả mọi nỗi thống khổ của tôi, trầm trọng hơn nỗi thống khổ của chàng rất nhiều. Tôi quên những thất bại và nhục nhã tôi đã chịu đựng, những vực thẳm tuyệt vọng và bất lực mà thường xuyên tôi quị xuống. Giống như Thelma ngày xưa, tôi cũng không thể nói gì ngoài Rimbaud. Tất cả mọi người đến nhà đều phải nghe bài ca Rimbaud.

Mãi tới ngày nay, mười tám năm sau khi nghe tên chàng lần thứ nhất, tôi mới có thể thấy rõ chàng, đọc chàng như một tiên tri thấu trị. Ngày nay tôi mới biết sự đóng góp của chàng vĩ đại nhường nào. Ngày nay tôi mới hiểu ý nghĩa của cuộc đời và tác phẩm chàng - đến cao độ, nghĩa là, đến mức độ mà người ta có thể tự hào mình hiểu cuộc đời và tác phẩm của kẻ khác. Nhưng điều tôi nhìn thấy rõ rệt nhất là tôi đã thoát khỏi cái định mệnh ti tiện đê hèn tương tự một cách kỳ diệu thế nào.

Rimbaud cảm nghiệm cơn khủng hoảng của chàng năm mười tám tuổi, tới phút giây đó trong đời chàng, chàng đã đi tới sát biên giới của cuồng dại; từ điểm đó trên cuộc đời chàng là một sa mạc mênh mông. Tôi tới cơn khủng hoảng của tôi vào tuổi ba mươi sáu tới ba mươi bẩy, tuổi mà Rimbaud chết. Từ điểm đó trên đời tôi bắt đầu nở hoa. Rimbaud từ văn chương quay về cuộc sống, tôi làm ngược lại. Rimbaud chạy trốn những ảo tưởng huyền hoặc mà chàng đã tạo ra; tôi ôm ấp chúng. Tỉnh lại bởi cơn điên cuồng và sợ hãi lãng phí kinh nghiệm thuần tuý của cuộc đời, tôi ngừng lại và chuyển năng lực của tôi vào sáng tạo. Tôi lăn xả vào sáng tác với cùng sự hăng hái và nhiệt tình mà trước kia tôi đã lăn xả vào cuộc đời. Thay vì mất cuộc đời, tôi kiếm được cuộc đời; hết phép lạ này đến phép lạ khác liên tiếp xảy ra, mọi bất hạnh được biến đổi thành truyện hay để kể. Rimbaud, mặc dầu lao vào trong một cảnh giới có phong thổ và cảnh vật khó tin, vào trong một thế giới của ảo giác dị thường và kỳ diệu như thơ chàng, đã trở nên càng ngày càng cay đắng, câm nín, trống rỗng và sầu muộn.

Rimbaud hoàn lại văn chương cho cuộc sống; tôi cố gắng hoàn trả cuộc sống cho văn chương. Trong cả hai chúng tôi tính chất tín điều đều mạnh mẽ, mối quan tâm trí óc và tinh thần quan trọng hơn hết. Khiếu về ngôn ngữ, về âm nhạc hơn là nghề văn chương là một nét chung khác. Với chàng, tôi cảm thấy một bản chất nguyên thuỷ nền tảng tự thị hiện bằng nhiều cách kỳ dị. Claudel gọi Rimbaud là “một người thần bí trong trạng thái man rợ”. Không có gì có thể mô tả chàng hay hơn. Chàng không “thuộc về” – không ở nơi nào, tôi luôn có cảm thức tương tự về mình. Những sự tương đồng không kể hết được. Tôi sẽ đi sâu vào một vài chi tiết của những sự tương đồng ấy, vì trong khi đọc tiểu sử và thư từ tôi thấy những sự tương hợp ấy rõ ràng đến nỗi tôi nghĩ rằng tôi không thể cưỡng lại được việc ghi nhận chúng. Tôi không nghĩ rằng về phương diện này tôi là kẻ độc nhất, tôi nghĩ rằng trên thế giới này có nhiều Rimbaud và con số đó sẽ gia tăng cùng với thời gian. Tôi nghĩ rằng, trong thế giới tương lai, mẫu Rimbaud sẽ thay thế mẫu Hamlet và mẫu Faust. Chiều hướng đang đi đến một rạn nứt sâu xa hơn. Cho đến khi cựu thế giới bị tiêu diệt hoàn toàn, cá nhân “dị thường” sẽ càng ngày càng đi đến chỗ trở thành khuôn mẫu. Con người mới sẽ chỉ tìm thấy mình khi cuộc chiến giữa tập thể và cá nhân ngừng lại. Lúc đó chúng ta sẽ thấy kiểu mẫu nhân loại trong vẻ tràn đầy và rực rỡ của nó.

Muốn nắm trọn tầm quan trọng của Mùa địa ngục của Rimbaud, kéo dài tám năm, chúng ta phải đọc thư từ của chàng. Phần lớn thời gian này trôi qua trên bờ biển Somali, ở Aden một vài năm. Đây là một đoạn mô tả chốn địa ngục trần gian, trong một lá thư gửi cho mẹ chàng:

“Mẹ không tưởng tượng được nơi này: không một ngọn cây, dù là một cây khô héo, không một tấc đất. Aden là miệng của một ngọn núi lửa đã tắt, cát biển lấp đầy. Khắp nơi người ta chỉ thấy phún xuất thạch và cát không thể sản sinh ra một cọng cỏ nào. Xung quanh là sa mạc cát vây phủ. Nơi đây những vách núi nửa tắt chắn gió thổi vào và mọi người bị quay chín như trong một lò hầm.”

Tại sao một thiên tài, một người đầy năng lực, đầy tiềm lực thiên phú lại xếp đặt để tự nhốt mình, quay chín và bó chặt mình trong một cái hang hốc khốn khổ như thế? Đây là một người mà một ngàn cuộc đời cũng không đủ để thám hiểm những kỳ diệu của trái đất, một người cắt đứt với bằng hữu và thân quyến vào lúc tuổi còn xanh để cảm nghiệm cuộc đời trong sự tròn đầy của nó, tuy nhiên dần dà chúng ta thấy chàng mắc kẹt ở trong hang hốc địa ngục đó. Chúng ta làm sao giải thích được sự kiến đó? Dĩ nhiên chúng ta biết rằng lúc nào chàng cũng nóng lòng sốt ruột, rằng chàng trù liệu trăm phương ngàn kế và dự phóng để tự giải thoát mình, và giải thoát mình không phải chỉ khỏi Aden mà khỏi toàn thể thế giới tranh đấu mồ hôi nước mắt. Là một kẻ phiêu bạt song le Rimbaud bị ám ảnh bởi ý tưởng vươn tới tự do độc lập mà chàng diễn dịch bằng sự an ổn tài chính. Vào năm hai mươi tám tuổi chàng viết cho gia đình rằng điều quan trọng nhất, cấp thiết đối với chàng là trở nên độc lập, bất cứ ở đâu. Điều chàng quên thêm vào là, và bất cứ bằng cách nào. Chàng là một sự pha trộn kỳ diệu của táo bạo và nhút nhát. Chàng có can đảm phiêu lưu vào nơi không một người da trắng nào khác dám đặt chân tới, nhưng chàng không dám đối diện với cuộc đời mà không có một nguồn lợi thường xuyên. Chàng không sợ mọi ăn thịt người, nhưng chàng sợ chính những người anh em da trắng của chàng. Dầu chàng cố gắng ki cóp của cải tiện nghi, với của cải đó chàng có thể du lịch thế giới một cách nhàn nhã và thoải mái hay định cư ở một chỗ nào mà chàng thấy đắc địa, chàng vẫn còn là thi sĩ và kẻ mơ mộng, con người bất khả thích nghi với cuộc đời, con người tin vào phép lạ, con người hướng vọng Thiên đàng dưới hình thức này hay hình thức kia. Mới đầu chàng nghĩ rằng năm mươi ngàn quan sẽ đủ để bảo đảm chàng trong đời sống, nhưng khi chàng gần như thành công trong việc thu thập số tiền đó thì chàng lại quyết định rằng một trăm ngàn có lẽ bảo đảm hơn. Bốn mươi ngàn quan đó! Thật là một thời gian khốn khổ khủng khiếp chàng trải qua khi quấn cái ruột tượng đó quanh người! Quả đúng là một tai hoạ của chàng. Khi họ khiêng chàng trên một cái cáng từ Harar tới bờ biển - một cuộc hành trình, một cách tình cờ, có thể so sánh với cuộc hấp hối của đấng Christ – tư tưởng chàng luôn luôn hướng về vàng bạc trong hầu bao của chàng. Ngay cả khi ở tại bệnh viện Marseilles, nơi chân chàng phải cưa đi, chàng cũng vẫn áy náy về cái ruột tượng đó. Nếu không phải là sự đau đớn khiến chàng thao thức ban đêm thì đó chính là ý nghĩa về số tiền chàng mang trên người, mà chàng phải dấu đi để khỏi bị đánh cắp. Chàng muốn gửi số tiền đó vào ngân hàng nhưng làm sao chàng có thể tới ngân hàng trong khi chàng không bước đi được? Chàng viết thư về nhà yêu cầu một người nào tới để giữ gìn kho tàng quí báu của chàng. Có một cái gì quá bi đát và khôi hài đến nỗi người ta không biết nói sao hay nghĩ sao nữa.

Nhưng đâu là căn nguyên của căn bệnh yêu chuộng an ổn thái quá ấy? Đó là nỗi sợ hãi mà bất cứ một nghệ sĩ sáng tạo nào cũng biết: rằng hắn không được ai vời gọi chi cả, rằng hắn vô tích sự trong cuộc đời. Biết bao lần trong thư chàng Rimbaud nói rằng mình không thể trở về Pháp và sống cuộc sống của một công dân bình thường. Tôi vô nghệ, vô nghề, không bạn bè tại đó, chàng nói. Như tất cả mọi thi nhân, chàng thấy thế giới văn minh như một cánh rừng hoang; chàng không biết làm cách nào tự bảo vệ mình trong đó. Đôi khi chàng nói thêm rằng đã quá muộn để nghĩ tới chuyện trở về - chàng luôn luôn nói như thể chàng đã là một ông già! Chàng đã quá quen cuộc sống tự do, hoang dại, phiêu lưu để chẳng bao giờ có thể trở vào khuôn thước gông cùm được nữa. Điều chàng luôn luôn ghê tởm là công việc vất vả lương thiện, nhưng ở Phi châu, Chippre, Ả Rập, chàng làm việc quần quật như một tên mọi đen, tự cấm đoán mình đủ thứ, ngay cả cà phê và thuốc lá, quanh năm suốt tháng bận một cái áo chemise bằng bông, dành dụm từng xu kiếm được, hy vọng một ngày kia mua được tự do. Dầu chàng có thành công đi chăng nữa, chúng ta cũng biết rằng chàng chẳng bao giờ quẳng được gông cùm của chán chường. Từ sự hoang đàng của tuổi trẻ chàng chuyển sang sự cẩn trọng của tuổi già. Chàng, kẻ bị đày ải xa cửa xa nhà, kẻ phản kháng, kẻ bị nguyền rủa hoàn toàn đến nỗi không có gì có thể cứu vớt được chàng.

Tôi nhấn mạnh khía cạnh đó của bản chất chàng bởi nó giải thích nhiều đặc tính thối tha gán cho chàng. Chàng không phải là một kẻ keo bẩn, không phải là một gã nông dân tự cốt tuỷ như một vài nhà viết tiểu sử chàng ám chỉ. Chàng không sắt đá với những kẻ khác, chàng chỉ sắt đá với chàng thôi. Quả thực bản tính chàng rộng rãi. “Lòng bác ái của ông bao la, tự nhiên và kín đáo” Bardey, người giúp việc cũ của chàng nói như vậy. “Có lẽ đó là một trong số ít điều ông làm mà không ghê tởm và không khinh bỉ chế nhạo”.

Có một điều ghê gớm khác nữa ám ảnh chàng suốt ngày đêm: quân dịch. Từ lúc chàng bắt đầu lên đường phiêu lãng cho đến ngày nhắm mắt chàng bị dày vò bởi nỗi sợ hãi không en règle [4] với giới thẩm quyền quân đội. Ngay vài tháng trước khi từ trần, khi nằm trong bệnh viện Marseilles, chân bị cưa, những sự đau đớn gia tăng hàng ngày, nỗi lo sợ nhà cầm quyền khám phá ra nơi ở của chàng và nhốt chàng vào tù đè nặng trên chàng như một cơn ác mộng. “La prison oprès ce que je viens de souffrir? It vaudrait mieux la mort!” [5] Chàng yêu cầu em gái chỉ viết cho chàng khi tối cần mà thôi, và đừng đề tên chàng là Arthur Rimbaud mà chỉ đề là Rimbaud, và gởi đi từ một tỉnh lân cận nào đó.

Toàn thể cơ cấu của bản chất chàng phơi bày trong những lá thư hoàn toàn không có một chút tính chất văn chương hay quyến rũ này. Chúng ta thấy lòng khát khao kinh nghiệm ghê gớm của chàng, óc tò mò không nguôi của chàng, những ước mơ vô hạn của chàng, sự tự đày ải của chàng, sự khắc kỷ của chàng, sự tiết độ của chàng, những nỗi ám ảnh và sợ hãi của chàng, sự bệnh hoạn của chàng, nỗi cô độc của chàng, cảm thức bị đẩy ra ngoài lề của chàng và niềm chán chường cùng độ của chàng. Chúng ta thấy trên tất cả, như hầu hết những cá thể sáng tạo, chàng không thể học hỏi được gì từ kinh nghiệm. Chẳng có gì ngoài cái vòng quẩn quanh của những nhàm chán lập đi lập lại và những dầy vò. Chúng ta thấy chàng là nạn nhân của ảo tưởng rằng tự do có thể thủ đắc được bằng những phương tiện ngoại tại. Chúng ta thấy chàng mãi mãi là thanh niên suốt đời chàng, từ chối chấp nhận khổ đau hay gán cho nó một ý nghĩa. Để có thể thẩm định sự thất bại của nửa phần đời cuối của chàng lớn lao là nhường nào, chúng ta chỉ cần so sánh cuộc hành trình của chàng với cuộc hành trình của Cabeza de Vaca. [6]

Nhưng thôi hãy để chàng giữa sa mạc mà chàng tạo nên cho chàng đó. Mục đích của tôi là nêu ra một vài nét đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Chúng ta hãy bắt đầu với cha mẹ. Như bà Rimbaud, mẹ tôi là mẫu người miền Bắc, lạnh lùng, hay chỉ trích, kiêu hãnh, cay nghiệt và khắt khe. Cha tôi xuất thân từ miền Nam, cha mẹ là người Bavaria, trong khi cha Rimbaud là người Burgundia. Cha mẹ thường xuyên cãi vã xô xát nhau gây ảnh hưởng tự nhiên lên con cái. Bản chất nổi loạn, rất khó vượt qua, tìm thấy ở đây khuôn đúc của nó. Giống như Rimbaud, tôi cũng bắt đầu la lên khi tuổi còn xanh: “Thượng đế chết đi!” Tất cả những gì cha mẹ tán thành hay chấp thuận đều chết đi. Nó còn lan tới cả bạn bè các Người mà tôi công nhiên nhục mạ trước mặt các Người. Đối kháng không bao giờ ngừng cho tới chết, khi cuối cùng, tôi bắt đầu nhận thấy tôi giống chàng biết chừng nào.

Giống như Rimbaud, tôi ghét nơi tôi ra đời. Tôi sẽ ghét nó cho tới ngày nhắm mắt, phản ứng đầu tiên của tôi là thoát khỏi gia đình, khỏi thành phố mà tôi ghét bỏ, khỏi xứ sở và đám dân mà tôi không cảm thấy một chút tương đồng. Cũng như chàng, tôi phát triển quá sớm, ngâm thơ văn ngoại quốc trong khi hãy còn ngồi trong xe tập đi. Tôi học đi sớm và học nói sớm, học đọc báo ngay cả trước khi đến vườn trẻ. Tôi luôn luôn là một đứa trẻ nhỏ nhất lớp và không chỉ là một học sinh ưu tú nhất mà còn là kẻ được thầy cũng như bạn bè ưa chuộng nhất. Nhưng cũng như chàng, tôi khinh bỉ phần thưởng và nhiều lần bị đuổi khỏi trường vì hành vi bướng bỉnh cứng đầu. Hình như tất cả sứ mệnh của tôi, trong khi còn ngồi trên ghế nhà trường, là chế diễu thầy và chương trình học. Tất cả đều quá dễ và quá ngu ngốc đối với tôi. Tôi cảm thấy mình như một con khỉ được huấn luyện.

Từ lúc còn nhỏ xíu, tôi đã đọc say mê ngấu nghiến. Quà lễ Giáng sinh tôi chỉ đòi sách, hai ba chục cuốn mỗi lần. Cho đến năm hai mươi lăm hai mươi sáu tuổi, hầu như không bao giờ tôi ra khỏi nhà mà không cắp theo một vài cuốn sách. Tôi đọc đứng đọc ngồi, đọc trong khi đi làm việc, thường thuộc lòng cả đoạn thơ dài của những tác giả ưa chuộng. Tôi còn nhớ, một trong những cuốn thơ này là Faust của Goethe . Kết quả chính của sự hấp thụ sách vở thường trực này là nung nấu cho tôi cuộc nổi loạn mai sau, kích thích khát vọng du lịch và phiêu lưu tiềm ẩn, khiến tôi trở nên phi văn chương. Nó khiến tôi miệt thị tất cả những cái xung quanh tôi, khiến tôi xa lánh dần bạn bè và bắt buộc tôi chấp nhận cái bản chất cô đơn quái gở khiến bị người ta gọi là một nhân vật “gàn dở”. Từ năm mười tám tuổi (năm khủng hoảng của Rimbaud) tôi trở nên hoàn toàn bất hạnh, khổ cực đáng thương, và ngày một tuyệt vọng. Dường như chỉ có một sự thay đổi hoàn toàn ngoại cảnh xung quanh ít ra mới có thể làm tiêu tán tâm trạng bất di bất dịch này. Năm hai mươi mốt tuổi, tôi bỏ nhà đi trốn, nhưng không đi lâu lắm. Lại nữa, giống Rimbaud, những sự chạy trốn công khai bao giờ cũng tai hại. Tôi bao giờ cũng trở về nhà, hoặc tự ý hoặc miễn cưỡng, và bao giờ cũng ở trong một trạng thái tuyệt vọng. Dường như không có lối thoát, không có cách nào tựu thành sự giải thoát. Tôi nhận làm những công việc vô nghĩa nhất, tóm lại, tất cả những gì không thích hợp với tôi. Giống như Rimbaud trong những hầm đá ở Chypre, tôi bắt đầu với cuốc xẻng, một lao công công nhật, một công nhân phù động, một kẻ lang thang đầu đường xó chợ. Đó vẫn là sự tương đồng, vì khi tôi trốn nhà ra đi, tôi ra đi với ý định sống một cuộc sống phong sương, dày dạn, không đọc một cuốn sách, kiếm sống bằng hai bàn tay, là người của hạc nội mây ngàn chứ không phải một công dân của một thị tứ hay một tỉnh thành.

Tuy nhiên, trong suốt thời gian đó, ngôn ngữ và ý tưởng của tôi phản bội tôi. Tôi hoàn toàn là một văn nhân dầu muốn hay không. Dầu tôi có thể hoà đồng với bất cứ hạng người nào, nhất là người bình dân, cuối cùng tôi luôn luôn bị ngờ vực. Giống hệt như những lần tôi tới thư viện; luôn luôn hỏi mượn sách lộn. Bất kể thư viện lớn thế nào chăng nữa, sách tôi mượn không bao giờ có trong đó hoặc là tôi bị cấm không được đọc. Trong những ngày đó dường như tất cả cái tôi muốn trên đời, hay của đời, đều bị bài xích. Dĩ nhiên, tôi phạm phải những phản kháng dữ dội. Ngôn ngữ của tôi, lúc đó đã ngang chướng dù như một đứa trẻ - tôi còn nhớ lúc lên sáu tôi bị điệu đến bót cảnh sát vì dùng ngôn ngữ tục tĩu – ngôn ngữ của tôi, thú thực, càng ngày trở nên ngang chướng và xúc phạm phong hoá.

Tôi giật mình xiết bao khi đọc thấy Rimbaud, lúc thanh niên thường ký dưới thư chàng –“tên đê tiện nhẫn tâm Rimbaud đó”. Nhẫn tâm là một tĩnh từ tôi thích nghe người ta áp dụng cho chính tôi. Tôi không có nguyên tắc, không trung thành, không quy luật khỉ khô gì ráo, khi nó thích hợp với tôi, tôi có thể hoàn toàn nói phăng ra không ngần ngại thận trọng, với bạn hay thù cũng vậy mà thôi. Tôi xấc láo, kiêu căng, không dung thứ, mà thành kiến một cách tàn bạo, bướng bỉnh một cách khắc nghiệt. Tóm lại, tôi có một cá tính khó thương rõ rệt, một người khó giao du nhất. Tuy nhiên tôi rất được quý mến; người ta thường rất sẵn sàng tha thứ những tính xấu của tôi vì sự quyến rũ và say sưa tôi toát ra. Thái độ này chỉ khiến tôi thêm dạn dĩ phóng túng thêm lên mà thôi. Đôi khi chính tôi cũng không hiểu tại sao tôi có thể sống với thái độ đó trên trái đất. Những người tôi thích sỉ nhục và thoá mạ là những người bằng cách nào đó tự cho là hơn tôi. Tôi mở một cuộc chiến tàn khốc chống lại những người này. Ngoài ra toàn thể con người tôi là kẻ mà người ta có thể gọi là một đứa trẻ ngoan. Bản tính tự nhiên của tôi là bản tính của một cá nhân tử tế, vui vẻ, cởi mở. Khi còn là một đứa trẻ, tôi thường được so sánh với “một thiên thần”. Nhưng con quỷ nổi loạn đã chế ngự tôi từ lúc nhỏ xíu. Chính mẹ tôi đã gieo cây! Nó vào trong tôi. Chính vì chống lại bà, chống lại tất cả những gì bà đại diện mà tôi trực chỉ tất cả năng lực của tôi. Mãi cho tới năm tôi năm mươi tuổi, tôi không bao giờ quan hoài tới bà với một dạ yêu thương, dù chỉ một lần. Dầu bà thực sự không bao giờ ngăn trở tôi (chỉ vì ý chí tôi mãnh liệt hơn), tôi vẫn cảm thấy bóng bà ngang qua đường tối. Đó là một cái bóng của đối kháng, lặng lẽ và nham hiểm, như một thứ thuốc độc chích từ từ vào mạch máu.

Tôi kinh ngạc khi đọc thấy Rimbaud cho phép mẹ chàng đọc bản thảo Một mùa địa ngục. Không bao giờ tôi mơ tưởng tới chuyện khoe cha mẹ tôi bất cứ điều gì tôi đã viết ra hoặc ngay cả việc luận về đề tài văn phẩm của tôi với ông bà. Lần đầu tiên khi tôi báo tin cho cha mẹ tôi hay rằng tôi quyết định trở thành một nhà văn, cha mẹ tôi thất kinh; như thể tôi quyết định trở thành một tội phạm. Tại sao tôi không thể làm một việc gì hợp lẽ phải hơn, một việc gì khả dĩ giúp tôi kiếm sống? Không bao giờ ông bà đọc một dòng tôi viết. Đó là một trò khôi hài bất tận khi bạn bè ông bà soi mói về tôi, khi họ hỏi tôi đang làm gì. Cậu ấy đang làm gì vậy? Ồ, nó đang viết.” Như thể ông bà nói, nó đang điên khùng, nó đang nặn đất cát suốt ngày.

Tôi luôn luôn phác hoạ cậu bé Rimbaud được ăn mặc bảnh bao như một “cô chiêu” và sau này, như một chàng phong lưu công tử. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, đó là trường hợp tôi. Là một người thợ may, dĩ nhiên cha mẹ tôi hết sức lưu tâm đến phục sức của tôi. Khi lớn lên tôi thừa hưởng những những bộ quần áo lịch sự và sang trọng của cha tôi. Chúng tôi đồng một cỡ y như nhau. Nhưng, cũng lại giống như Rimbaud, suốt trong thời gian khi mà cá tính tôi tự khẳng định một cách mãnh liệt, tôi làm dáng một cách kỳ cục, kết hợp những cái quái gở kỳ quặc, bên trong với cái khác thường bên ngoài. Tôi cũng là một đối tượng chế diễu cho lân bang hàng xóm của tôi. Trong thời gian đó, tôi nhớ lại tôi cảm thấy vô cùng vụng về, thiếu tự tin, và đặc biệt xấu hổ khi trò chuyện với người ở bất cứ trình độ nào. “Tôi không biết ăn nói làm sao!” Rimbaud tuyên bố như vậy ở Paris khi ngồi giữa đám người làm văn nghệ khác.Tuy nhiên ai đó có thể nói hay hơn chàng khi không bị gò bó? Ngay ở Phi châu, người ta cũng để ý thấy đôi lúc chàng nói năng quyến rũ biết chừng nào. Tôi hiểu sự mâu thuẫn khó xử này xiết bao! Tôi đau đớn biết chừng nào khi nhớ lại mình đã đã ấp úng và lắp bắp trước mặt những người tôi ao ước trò chuyện! Ngược lại, với một người tầm thường nào đó, tôi có thể nói với giọng lưỡi một thiên thần. Từ lúc còn nhỏ, tôi đã say mê âm thanh những tiếng nói, ma lực, với khả năng mê hoặc điên đảo thần hồn của chúng. Nói chung, tôi thường chếnh choáng vì ngôn từ. Tôi có thể bịa đặt hàng giờ, đưa thính giả của tôi đến chỗ điên cuồng. Tính chất này, tình cờ, tôi nhận thấy nơi Rimbaud lúc tôi liếc qua một trang của chàng. Nó gây chấn động ngay lập tức. Tại Beverly Glen, khi tôi đi sâu vào đời chàng, tôi lấy phấn viết những câu thơ của chàng lên tường – trong bếp, trong phòng khách, trong nhà cầu, ngay cả phía ngoài nhà. Những câu này không bao giờ mất hiệu lực đối với tôi. Mỗi lần lướt qua chúng, tôi đều cảm thấy sự rung động tương tự, nỗi hân hoan tương tự, sự sợ hãi mất trí tương tự nếu tôi dừng lại chúng quá lâu. Có được bao nhiêu nhà văn có thể làm cho bạn điều đó?

Nhà văn nào cũng tạo được một vài đoạn để đời, một vài câu đáng ghi nhớ, nhưng với Rimbaud, chúng nhiều không kể xiết, chúng tràn lan trên giấy, tựa ngọc đá túa ra từ một cái rương thủng lỗ. Chính tài năng này khiến mối giây liên lạc với Rimbaud bền vững không thể chia cắt được. Và tôi ganh tị với chàng về điều đó nhất. Ngày nay, sau tất cả những điều tôi đã viết, ước vọng sâu xa nhất của tôi là chấm dứt với những cuốn sách tôi đã dự định và dấn mình vào sự sáng tạo cái hoàn toàn vô nghĩa, hoàn toàn ảo tưởng. Tôi sẽ không bao giờ là thi sĩ như chàng, nhưng hãy còn có những khoảng rộng tưởng tượng mênh mông cần phải đạt tới.

Và bây giờ, chúng ta nói tới “cô thiếu nữ với cặp mắt tím”. Chúng ta hầu như không biết chút gì về nàng. Chúng ta chỉ biết rằng đó là kinh nghiệm bi thảm đầu tiên của chàng về tình yêu. Tôi không biết có phải trong mối quan hệ với nàng hay với con gái nhà kỹ nghệ gia mà chàng dùng chữ - “dễ sợ như 36.000.000 con chó lông xù mới đẻ”. Nhưng tôi hoàn toàn tin rằng đó phải là phản ứng của chàng với đối tượng của tình yêu thương. Trong bất cứ trường hợp nào tôi biết rằng đó là trường hợp tôi, và nàng cũng có đôi mắt màu tím nữa. Và có lẽ cũng như Rimbaud, tôi sẽ lại nghĩ tới nàng vào phút lâm chung. Tất cả đều mang mầu sắc của kinh nghiệm thảm khốc đầu tiên này. Tôi phải nói thêm, điều lạ lùng nhất là không phải nàng khước từ tôi… Chính vì tôi đã quá kinh sợ và tôn thờ nàng đến nỗi tôi chạy trốn nàng. Tôi tưởng tượng đó phải là trường hợp Rimbaud. Dĩ nhiên, với chàng, tất cả - cho đến năm mười tám tuổi – đều gói ghém trong một khoảng thời gian ngắn ngủi không thể tin được. Cũng như chàng rảo qua toàn thể giai điệu văn chương trong một vài năm ngắn ngủi, cũng vậy chàng rảo qua vòng kinh nghiệm thông thường một cách mau chóng và vắn vỏi. Chàng chỉ cần nếm qua một món là biết tất cả cái nó hứa hẹn hay chứa đựng. Và bởi thế cuộc đời ái tình của chàng chừng nào liên quan tới đàn bà, là một khoảng thời gian ngắn ngủi. Chúng ta không nghe kể về tình yêu nữa mãi cho tới thời gian ở Abyssinie, khi chàng lấy một người đàn bà bản xứ làm nhân tình. Dường như khó mà gọi là tình yêu được. Có chăng tình yêu của chàng hướng về Djami, cậu bé thổ dân Harar, người mà chàng cố gắng để lại cho một kỉ vật. Có lẽ cũng khó mà biết được, trong cuộc đời chàng sống, Rimbaud còn có thể yêu ai với trọn tâm hồn.

Verlaine nổi tiếng vì đã nói về Rimbaud rằng chàng chẳng đem mình hiến dâng ai; chẳng cho Thượng đế cũng chẳng dâng cho người. Điều này đúng xiết bao khi mỗi người phải tự phán xét mình. Đối với tôi dường như không có một người nào có thể muốn hiến dâng mình nhiều hơn Rimbaud. Lúc còn nhỏ, chàng dâng mình cho Thượng đế, lúc thanh xuân chàng hiến mình cho thế giới. Trong cả hai trường hợp, chàng đều cảm thấy mình bị lường gạt và phản bội; chàng thối lui, nhất là sau kinh ngiệm Công xã đẫm máu và từ đó tâm điểm con người chàng mãi mãi còn nguyên vẹn, không chịu nhượng bộ, bất khả xâm phạm. Về phương diện này, chàng khiến tôi nhớ nhiều đến D. H. Lawrence, người đã nói đôi chút về vấn đề này, nghĩa là vấn đề giữ tâm thể mình sao cho toàn vẹn.

Chính từ lúc chàng bắt đầu kiếm sống mà những khó khăn thực thụ khởi sự. Tất cả mọi tài năng, hầu như vô dụng. Thây kệ mọi đảo điên, chàng tiến tới. ”Tiến tới, luôn luôn tiến tới!” Nghị lực của chàng vô biên, ý chí chàng bất khuất, sự khao khát của chàng vô tận. “Hãy để thi sĩ nổ tung với nỗ lực thâu đạt những sự vật lạ lùng và vô danh!”. Khi tôi nghĩ tới thời kỳ đó, đánh dấu bởi một cố gắng hầu như cuồng loạn để mở một đường vào thế giới, chiếm ưu thế, khi tôi nghĩ tới những cuộc ra đi đột ngột liên tiếp trong chiều hướng đó và tựa một đoàn quân bị vây hãm gắng sức xông ra khỏi cái gọng kìm trong đó nó bị kẹp như một cái kìm máy, tôi lại trông thấy tự ngã thanh xuân của tôi từ đầu tới cuối. Ba lần trong thời gian dưới hai mươi tuổi, chàng đã tới Bruxelles và Paris, hai lần chàng tới London. Từ Stuttgart, sau khi đã thông thạo đủ vốn liếng Đức ngữ cần dùng; chàng lang thang đi bộ qua Würtemberg và Thuỵ Sĩ tới Ý Đại Lợi. Từ Milan chàng khởi hành đi bộ tới Cyclades qua Brindisi, chỉ để bị trúng nắng và quay trở về Marseilles qua Leghorn. Chàng vượt qua bán đảo Scandinavie và Đan Mạch với một đám hát dạo; chàng đáp tàu từ Hamburg, Antwerp, Rotterdam; chàng đến Java bằng cách gia nhập đạo quân Hoà Lan, chỉ để đào ngũ sau khi đã nếm qua mùi vị của nó. Một lần vượt qua đảo St. Hélène trên một con tầu Anh Cát Lợi từ chối không ngừng lại đảo, chàng phóng qua lan can tàu xuống biển nhưng bị bắt lại trước khi chàng có thể tới đảo. Từ Vienne chàng bị cảnh sát dẫn độ về biên cảnh Bavari, vì tội lang thang; từ đó chàng lại bị áp giải về biên cảnh Lorraine. Trong tất cả những chuyến tẩu thoát và bỏ nhà ra đi đột ngột đó, chàng luôn luôn không một đồng xu dính túi, đi bộ, và luôn luôn đi bộ với một dạ dầy lép xẹp. Tại Civita Vecchia chàng bị đưa xuống đất liền với chứng sốt đau dạ dày mắc phải vì màng dạ dầy bị sưng lên bởi sự cọ sát của xương sườn vào bụng. Đi bộ thái quá. Ở Abyssinie là sự cưỡi ngựa thái quá. Chàng tự bắt buộc mình một cách phi nhân. Mục đích thì bao giờ cũng ở phía bên kia.

Tôi hiểu tật yêu thích thái quá của chàng xiết bao! Nhìn lại cuộc sống của tôi ở Hoa Kỳ, dường như tôi đã đi muôn ngàn dặm lòng không dạ trống. Luôn luôn tìm kiếm một vài xu, một mẩu bánh, một công việc, một chỗ ngả lưng. Luôn luôn tìm kiếm một khuôn mặt quen thuộc! Đôi khi dầu đói khát, tôi cũng ráng lên đường, vẫy một chiếc xe xin quá giang và để mặc người tài xế muốn cho tôi xuống đâu cũng được chỉ để thay đổi phong cảnh. Tôi biết hàng ngàn tiệm ăn ở New York, không phải vì đã đến đó như một chủ nhân ông nhưng vì đã đứng bên ngoài và thèm thuồng ngó những thực khách ngồi chễm chệ bên trong. Tôi vẫn còn có thể nhớ mùi vị của một vài gian hàng ở góc phố nơi người ta bán hotdog. Tôi hãy còn có thể nhìn thấy những đầu bếp áo trắng lật bánh tráng hay bánh nướng trong chảo trong các cửa tiệm. Đôi khi tôi nghĩ rằng tôi sinh ra để đói khát. Và cộng với đói khát là lang thang, lêu lổng, mầy mò, sốt nóng sốt rét, đi tới đi lui không chủ đích. Nếu tôi xin xỏ được chút ít dư thừa hơn mức cần thiết của một bữa ăn, lập tức tôi tới hí viện hay rạp chiếu bóng. Tất cả điều mà tôi quan tâm tới, một khi cái dạ dày đã no đầy, là kiếm một chỗ ấm áp, dễ chịu nơi tôi có thể nghỉ ngơi và quên đi những nỗi phiền muộn âu lo của tôi một hai giờ. Không bao giờ tôi để dành đủ tiền mua một cái vé xe trong những hoàn cảnh ấy, ra khỏi bầu không khí ấm áp như lòng mẹ của rạp hát, tôi phải xông pha ra mưa gió giá lạnh để đi bộ tới những nơi xa xôi nơi tôi tình cờ sống. Từ trong lòng Brooklyn tới trung tâm Manhattan tôi đã đi không biết bao nhiêu lần, trong mọi thời tiết và trong nhiều cấp độ của cơ hàn đói rách. Khi tôi hoàn toàn kiệt lực, khi tôi không thể bước thêm một bước nữa, tôi bắt buộc phải quay trở lại và thối lui về đường cũ. Tôi hiểu rất rõ người ta có thể được huấn luyện để làm những cuộc diễu hành cưỡng bách trên đoạn đường dài phi thường với lòng không dạ trống như thế nào.

Nhưng đi bộ qua những đường phố của đô thị quê hương giữa những bộ mặt thù nghịch là một chuyện mà lang thang trên xa lộ trong những đô thị liên bang lại là một chuyện hoàn toàn khác hẳn.

Trong tỉnh lỵ quê nhà sự cừu thù chỉ là vẻ lãnh đạm; trong một tỉnh xa lạ hoặc trên những chặng đường dài trống trải liên tỉnh, chính sự cừu hận rõ rệt tiếp đón bạn. Có những con chó dữ, súng săn, cảnh sát, và lính canh đủ loại nằm chờ bạn. Bạn không dám ngả lưng trên nền đất lạnh nếu bạn là khách lạ trong những vùng lân bang đó. Bạn tiếp tục phải dời chỗ, dời chỗ, dời chỗ luôn luôn không ngừng. Sau lưng bạn, bạn cảm thấy mũi súng lạnh của một khẩu súng sáu buộc bạn phải di động nhanh hơn, nhanh hơn, nhanh hơn nữa. Ngay trong chính xứ sở của bạn nữa, nơi tất cả những việc này có thể xảy ra, chứ không cứ gì ở một mảnh đất lạ. Bọn Nhật lùn có thể tàn bạo, bọn Hung Nô có thể man rợ, nhưng những kẻ trông giống như bạn và nói năng giống như bạn, mặc cùng một thứ quần áo giống như bạn, ăn cùng một thứ thực phẩm giống bạn, xua đuổi bạn như những con chó là những con quỷ nào vậy? Phải chăng đó là những kẻ thù tệ hại nhất người ta có thể có? Người khác có thể tìm thấy lý do để tha thứ, nhưng riêng tôi, tôi không tìm thấy bất cứ lý do nào. “Ở đây tôi không có ai là bạn bè cả”, Rimbaud thường viết về nhà như vậy. Ngay cả vào tháng sáu năm 1891, từ bệnh viện Marseilles, chàng vẫn nhắc lại điệp khúc đó. “Je mourrai òu me jettera le destin. J’espère pouvoir retourner là òu j’étais (Abysinnie), j’y ai des amis de dix ans, qui auront pitíe de moi, je trouverai chez eux dutravail, je vivrai comme je pourrai. Jevivrai, toujours là – bas, tandis qu’en France, hors vous je n’ai ni amis, ni connaissances, ni personne.” [7] . Đây là một đoạn ghi chú: “Cependant la gloire littéraire de Rimbaud batt rit alors son plein à Paris. Les admirateurs, qui lui eussent été perso rellement tout dévoúes, étaient déjà nombreux Il l’ignorait. Quelle maléduction!”.

Vâng, thật là xui xẻo! Tôi nghĩ tới cuộc trở về New York của chính tôi, một cuộc trở về miễn cưỡng nữa, sau mười năm ở ngoại quốc. Tôi đã rời Mỹ châu với mười dollar mà tôi vay mượn vào giây phút cuối cùng trước khi lên tàu, tôi trở về không có một xu dính túi, phải mượn tiền trả tiền xe của người thư kí khách sạn, thấy rương vá những cái Vallise của tôi, chắc mẩm thế nào tôi cũng có tiền trả tiền phòng. Việc đầu tiên mà tôi phải làm, khi trở về “ nhà” là gọi điện thoại cho một vài người nào đó để vay chút ít tiền. Khác với Rimbaud, tôi không có hầu bao đầy vàng dấu dưới đầu giường; song le tôi còn có bộ giò khỏe mạnh, và vào buổi sáng hôm sau, nếu không có tiền giúp đỡ đến trong đêm trước, tôi sẽ phải bắt đầu đi lên phố tìm kiếm lại một khuôn mặt quen thuộc. Trong mười năm ở ngoại quốc tôi cũng phải làm việc như trâu ngựa; tôi đã kiếm được quyền sống thoải mái một vài năm. Nhưng chiến tranh bỗng dưng xảy ra, phá huỷ tất cả, giống như những âm mưu của những thế lực châu Âu đã làm cho Rimbaud thất cơ lỡ vận ở xứ Somali. Tương đồng làm sao thanh âm một đoạn thư đề Aden, tháng giêng 1888…” Tous les gouvernements sont venus englloutir des millions (et mème ensomme quelques millierds) sur toutes ces côtes maudites, désolées, òu les indigènes errent des mois sansvivres et sans eau, sous le climat le plus effroi – able du globe; et tous ces millions qu’on a jetés dans le ventre des bédoouitns n’ont rien rapporte que les guerres, les désastres de tous genres!”.

Giống nhau làm sao hình ảnh của những chính quyền thân yêu của chúng ta! Luôn luôn tìm cách đặt chân vào một vài nơi chốn nghịch đạo lý, luôn luôn dày xéo hay tiêu diệt dân bản xứ, luôn luôn bám chặt vào những của phi nghĩa, bảo vệ của cải của mình, thuộc địa của mình bằng bộ binh và hải quân. Với những kẻ tai to mặt lớn nhất, thế giới chưa đủ lớn. Với những kẻ thấp cổ bé họng nhất cần phòng ở, cần những lời hứa hẹn ngọt ngào và những lời hăm doạ ngấm ngầm. Trái đất thuộc về những kẻ mạnh, thuộc về những kẻ có quân đội và thuỷ quân lớn nhất, thuộc về những kẻ nắm trong tay những sức mạnh kinh tế quan trọng. Thật khôi hài khi người thi sĩ cô đơn bôn ba tới tận thế hầu kéo dài một cuộc sống khốn nạn phải ngồi khoanh tay lơ láo ngó những thế lực vĩ đại làm vô số việc bê bối trong chính khu vườn của hắn.

“Vâng, tận thế… Tiến lên, luôn luôn tiến lên! Bây giờ những cuộc phiêu lưu vĩ đại bắt đầu…” Nhưng dầu bạn tiến nhanh thế nào, chính phủ vẫn luôn luôn dẫn đầu, với những hạn chế, cùm xích, khoá tay, với hơi độc, xe tăng và bom ngạt. Rimbaud thi sĩ tự đứng ra đảm nhiệm việc dạy kinh Coran cho những cô cậu bé Harar bằng chính tiếng mẹ đẻ của chúng. Những chính phủ sẽ bán chúng làm nô lệ. ”Có một vài cuộc phá hoại cần thiết“ có lần chàng đã viết như vậy, và thiên hạ đã bầy vẽ bao chuyện ồn ào về lời phán quyết đơn giản đó! Lúc ấy chàng chỉ nói về sự phá huỷ phụ thuộc sự sáng tạo. Nhưng các chính phủ ngang nhiên phá huỷ không một lời biện giải, và chắc chắn chẳng bao giờ nghĩ tới việc sáng tạo cả. Điều mà Rimbaud thi sĩ ao ước là nhìn thấy những hình thức cũ tiến triển, trong đời sống cũng như trong nghệ thuật. Điều mà các chính phủ muốn là duy trì hiện trạng, thây kệ nó gây ra biết bao cuộc tàn sát và phá hoại cũng mặc. Một vài nhà viết tiểu sử chàng, mô tả hành vi chàng như một thanh niên, chứng minh chàng là một đứa trẻ rất xấu xa; chàng đã làm những việc hư hỏng nào đó. Nhưng khi thẩm định những hoạt động của những chính phủ thân yêu của họ, đặc biệt liên quan tới những âm mưu ám muội mà Rimbaud chửi rủa, tất cả bọn họ đều ngọt ngào và tìm cách biện hộ. Khi họ muốn chỉ trích cay độc chàng như một kẻ phiêu lãng, họ nói về chàng là một thi sĩ vĩ đại biết chừng nào; khi họ muốn chế ngự chàng với tư cách một thi sĩ, họ nói về sự nổi loạn lộn xộn của chàng. Họ thất kinh khi thi sĩ bắt trước những tên cướp giật và bóc lột của họ, và họ khiếp đảm khi chàng tỏ ra chẳng quan hoài tới tiền bạc hay tới cuộc sống tẻ nhạt, chán ngắt của một thường dân. Chàng lang bạt kì hồ quá kẻ lang bạt kì hồ, chàng thi sĩ quá thi sĩ, chàng xông xáo xung phong quá kẻ tiên phong, chàng là con người áp phe quá kẻ chạy áp phe, chàng là một kẻ buôn lậu súng khôn ngoan quá kẻ buôn lậu súng, vân vân và vân vân. Bất cứ điều gì chàng làm, chàng đều làm quá hay, đến nỗi dường như đáng phàn nàn. Đáng tiếc là chàng không trở nên một chính khách. Chàng gian lận tài đến nỗi Hitler, Staline và Mussolini - chứ đừng nói tới Churchill và Roosevelt - ngày nay sẽ tựa như tên lang băm bán dầu cù là. Tôi không tin rằng chàng hoàn toàn chỉ mang lại sự phá hoại mà những lãnh tụ đáng tôn kính này đã gieo rắc lên trên thế giới. Đại khái có thể nói chàng chắc chắn sẽ biết dấu diếm để dành phòng lúc cơ hàn. Chàng sẽ không làm đến kiệt sức. Chàng sẽ không đánh mất dấu mục tiêu, như những lãnh tụ lỗi lạc của chúng ta dường như thường phải làm. Bất xét cuộc đại bại hoàn toàn chàng đã làm cho chính cuộc đời chàng, tôi vẫn tin một cách kì cục rằng nếu có dịp chắc chắn chàng sẽ biến thế giới thành một chốn tốt đẹp hơn để sống trong đó. Tôi tin rằng kẻ mơ mộng, dù hắn có vẻ thiếu thực tế thế nào đi chăng nữa đối với con người ngoài đường phố, vẫn tài giỏi hơn, có khả năng hơn gấp trăm ngàn lần so với kẻ tự xưng là chính khách. Tất cả mọi kế hoạch không thể tin được đó là Rimbaud trù dự đem ra thi hành, và bị phản đối vì lí do này hay vì lí do khác, từ đó đến nay đã được thực hiện vài phần. Chàng nghĩ đến những kế hoạch đó quá sớm; chỉ có vậy thôi. Chàng thấy xa hơn những hy vọng và ước mơ của những thường nhân cũng như những chính khách rất nhiều. Chàng không được sự ủng hộ của những kẻ đó, những kẻ thích buộc tội chàng là một kẻ mơ mộng, những kẻ chỉ mơ khi họ ngủ, không bao giờ mơ với đôi mắt mở lớn. Vì đối với kẻ mơ mộng đứng chính giữa lòng thực tại, tất cả mọi diễn tiến đều quá chậm, quá ù lì – ngay cả sự tàn phá.

“Ông không bao giờ hài lòng,” một nhà viết tiểu sử chàng viết. ”Dưới cái liếc nhìn mệt mỏi của ông mọi đoá hoa đều úa tàn, mọi ngôi sao đều mờ nhạt. ”Vâng, có một chút sự thực trong nhận xét đó. Tôi biết thế bởi cũng mắc chứng bệnh tương tự. Nhưng, nếu người ta mơ tưởng một quyền lực tối thượng, quyền lực tối thượng của con người, nếu người ta dám nghĩ đến cái bước đi chậm như sên con người tiến tới việc thực hiện giấc mộng này thế nào, thì rất có thể cái được gọi là những hoạt động của con người mờ nhạt tới vô nghĩa. Tôi không tin, dù trong giây phút, rằng những đoá hoa bao giờ cũng úa tàn hoặc những vì sao bao giờ cũng mờ nhạt trong đôi mắt Rimbaud. Tôi tin rằng với những thứ này trung tâm con người chàng bao giờ cũng duy trì một mối giao cảm trực tiếp và nhiệt thành. Chính trong thế giới con người mà cái nhìn thoáng qua mệt mỏi của chàng thấy mọi sự mờ nhạt và tàn úa. Chàng bắt đầu muốn ”nhìn thấy tất cả, cảm tất cả, khai thác triệt để tất cả mọi sự, nói tất cả mọi sự”. Chẳng bao lâu sau chàng cảm thấy cái hàm thiếc trong miệng chàng, những cái đinh thúc ngựa hai bên hông chàng, roi vọt trên lưng chàng. Hãy để một người ăn mặc khác đồng loại hắn, hắn sẽ trở thành một đối tượng cho sự khinh bỉ và nhạo báng. Luật duy nhất thực sự phù hợp một cách cởi mở trọn vẹn và với một sự trả thù là luật phù hợp. Không có gì đáng ngạc nhiên khi hãy còn là một thanh niên, cuối cùng chàng thấy ”thiêng liêng sự hỗn loạn trong tâm trí”. Ở điểm này thực sự chàng đã tự khiến mình thành một tiên tri thấu thị. Tuy nhiên chành thấy rằng mình bị coi như một thằng hề hay một tên lang băm bán thuốc dạo. Chàng phải lựa chọn giữa việc chiến đấu đến mãn đời để giữ mảnh dất đã chiếm được hay từ khước tranh đấu hoàn toàn. Tại sao chàng lại không thể thoả hiệp? bởi vì sự thoả hiệp không có trong từ vựng của chàng. Chàng là một kẻ quá khích từ thuở nhỏ, một kẻ đi đến cùng hay là chết. Thái độ đó hàm chứa sự tinh khiết, ngây thơ của chàng.

Trong tất cả những điều đó tôi khám phá thấy lại trường hợp của chính tôi. Tôi không bao giờ bỏ cuộc. Nhưng tôi đã phải trả một giá đắt biết bao! Tôi phải trả kinh phí cuộc chiến đấu du kích, cuộc chiến đấu vô hy vọng chỉ có thể sinh ra từ tuyệt vọng. Tác phẩm tôi dự định viết chưa được viết ra hay chỉ được viết ra từng phần. Chỉ nguyên việc cất tiếng nói, nói theo cách riêng của tôi, tôi đã phải chiến đấu từng tấc đất một. Tiếng hát cho cuộc chiến hầu như đã bị bỏ quên thì còn nói làm gì cái nhìn lướt qua trên những bông hoa tàn héo và những vì sao mờ nhạt! Cái nhìn của tôi hoàn toàn có tính cách huỷ hoại! Thật là một phép lạ khi dưới cái nhìn tàn nhẫn của tôi chúng không héo hắt đi. Quá sức cho tâm thể tôi. Về bề ngoài con người ngoại diện dần dần học cách thích nghi với những đường lối ở đời. Hắn có thể ở trong đó mà không thuộc về nó. Hắn có thể tử tế, dễ thương, cởi mở, bác ái. Tại sao không? “Vấn đề đích thực”, như Rimbaud vạch ra ”là khiến tâm hồn trở nên dị thường”. Nghĩa là, không phải dị hợm nhưng phi thường! Dị thường là gì? Theo từ điển, “bất cứ hình thức tổ chức nào của đời sống bị méo mó ghê gớm hoặc bởi thiếu thốn, bởi quá dư thừa, đặt sai chỗ hoặc méo mó từng phần hay từng bộ phận, từ đó, bất cứ cái gì dị hợm hay bất thường, hoặc tạo nên bởi những phần hay tính chất chất không hợp nhau, có thể gớm ghiếc hay không”. Ngữ căn phát nguyên từ động từ Latinh moneo, báo động. Trong thần thoại chúng ta nhận thấy cái dị thường dưới hình thức của quái vật có mặt mũi và thân hình đàn bà, cánh và móng vuốt như chim, nữ thần có phép hoá đá sư thân nữ diện thần, quái vật đầu người mình ngựa, mộc tinh, ngư nhân. Tất cả đều là những vật kì dị, đó là yêu nghĩa của danh từ. Chúng đã lật đổ sự qui phạm, sự cân bình. Điều đó là gì nếu không phải là mối sợ hãi của con người nhỏ bé. Những tâm hồn nhút nhát thường hay gặp quái vật trên đường cùng, dù chúng có tên là quái vật chim ưng mình ngựa hay những đảng viên của Hitler. Tất cả mọi phần kinh sợ của thần thoại đều nảy sinh từ sự sợ hãi này. ”Hãy để chúng tôi sống trong hoà bình và hoà điệu! ”Con người nhỏ bé van nài. Nhưng luật của vũ trụ càn khôn buộc rằng hoà bình và hoà điệu chỉ có thể chinh phục được bằng tranh đấu nội tại. Con người nhỏ bé không muốn trả giá cho hòa bình và hoà điệu đó, nó muốn ăn sẵn, tựa một bộ quần áo may sẵn vậy.

Có nhiều chữ ám ảnh, lặp đi lặp lại mà nhà văn dùng phát lộ nhiều hơn những sự kiện do những nhà viết tiểu sử kiên nhẫn gom góp lại. Đây là một ít những chữ chúng ta gặp trong tác phẩm của Rimbaud: éternité, infini, charité, solitude, angoisse, lumìere, aube, soleil, amour, beauté, inoui, pitie’, démon ange, ivresse, paradis, enfer, ennui,…

Đó là những đường chỉ dọc và đường canh của kiểu mẫu nội tâm chàng; chúng nói cho chúng ta về sự ngây thơ của chàng, sự đói khát của chàng, sự thao thức bồn chồn, lòng cuồng tín của chàng, tính cố chấp của chàng. Thần thánh của chàng là Baudelaire, người đã thăm dò tới những chiều sâu của tội lỗi. Trên kia tôi đã nhấn mạnh, và cần phải nhắc lại, rằng toàn thể thế kỉ Mười chín bị dầy vò bởi vấn đề Thượng đế. Bề ngoài nó dường như một thế kỉ dấn mình vào tiến bộ vật chất, một thế kỉ của khám phá và phát minh, tất cả thuộc về thế giới vật chất. Tuy nhiên, trong tâm điểm, nơi những nghệ sĩ và tư tưởng gia luôn luôn cắm neo, chúng ta nhận thấy một sự giao động sâu xa. Rimbaud tóm tắt cuộc tranh chấp trong một vài trang. Và, nếu điều đó chưa đủ, chàng in lên toàn thể cuộc đời chàng cái ấn bản bí ẩn biểu thị chân tướng đó của thời đại chàng. Chàng là con người của thời đại chàng đích thực hơn Goethe, Shelley, Blake, Nietzsche, Hegel, Marx, Dostoievsky. Chàng bị sâu xé từ đầu tới chân trong tất cả mọi lãnh vực của con người chàng. Bao giờ chàng cũng đương đầu hai cách. Chàng bị xé rách, nghiền nát bởi bánh xe thời gian. Chàng là nạn nhân và kẻ hành hình; khi chúng ta nói đến tên chàng, chúng ta có thời gian, nơi chốn và biến cố. Bây giờ khi chúng ta đã thành công trong việc nghiền nát nguyên tử thì vũ trụ bị xé rách toang ra. Bây giờ chúng ta phải đương đầu trong mọi chiều hướng cùng một lúc. Chúng ta đã thành công, đã thủ hữu được một năng lực ngay cả những thần thánh ngày xưa cũng không thể thu tóm được. Bây giờ chúng ta ở đây, trước địa ngục môn. Liệu chúng ta sẽ có thể đột kích cái cổng, phá tan hoang chính địa ngục? Tôi tin rằng chúng ta sẽ có thể làm. Tôi tin rằng sứ mệnh của tương lai là thám hiểm lãnh vực tội lỗi cho đến khi không còn một mảy may bí mật nào còn sót lại. Chúng ta sẽ khám phá ra cỗi rễ cay đắng của cái đẹp, chấp nhận cả rễ lẫn hoa, lá lẫn nụ. Chúng ta không còn có thể cự tuyệt được tội lỗi: chúng ta phải chấp nhận.



[1]Hãy kiếm tập album tên Euphoria, Vaya Records
[2]Ấn bản Pháp ngữ do Metmod, Lausanne ấn hành, ấn bản Đức ngữ do Verlag der Arche, Zürich.
[3]Horace Schwartz ấn hành, P.O. Box 503, Sunnyvale, California, 1955.
[4]Pháp văn trong nguyên bản: hợp lệ - Ghi chú của dịch giả.
5 Pháp văn trong nguyên bản: “Tù tội sau khi tôi đã chịu đau đớn như thế này? Thà chết còn hơn!” G.c.D.
[5]
[6]Đọc cuốn The Power Within Us của Hantel Long: Duell, Sloan and Pearce, New York.
[7]Pháp văn trong nguyên bản G. c. D.
Nguồn: Henry Miller, The Time of the Assassins - A Study of Rimbaud, New Directions 1955. Bản Việt ngữ của Nguyá»…n Hữu Hiệu: Thời của những kẻ giết người - Nghiên cứu về Rimbaud. Hồng Hà, 1970. Bản Ä‘iện tá»­ do talawas thá»±c hiện. Bản đăng trên talawas vá»›i sá»± đồng ý của dịch giả.