trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
Nghệ thuật
Sân khấu
  1 - 20 / 24 bài
  1 - 20 / 24 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Nghệ thuậtSân khấu
25.7.2007
Vũ Ngọc Liễn
30 năm một chặng đường nghiên cứu Đào Tấn
 
Đào Tấn sinh ngày 3-4-1845 tại xã Phước Lộc, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, mất ngày 15-7-1907. Ông từng ba lần giữ chức Tổng đốc, bốn lần giữ chức Thượng thư và có quan hệ mật thiết với các lãnh tụ của phong trào Cần Vương. Nhưng trước hết, ông là một tác giả tuồng hát bội tài danh, một diễn viên xuất sắc, một đạo diễn tài năng và một nhà thơ độc đáo.

Di sản nghệ thuật của ông gồm mấy trăm bài thơ và từ, 30 vở tuồng và tập sách lý luận sân khấu hiện còn nhiều nghi vấn mang tên Hí trường tuỳ bút.
Đào Tấn 1845-1907 (Tranh của Lê Văn Miến. Nguồn: Từ điển Văn học bộ mới)
Nếu lấy Hội nghị Nghiên cứu Đào Tấn lần thứ I (1977) làm cái mốc thì đến nay (2007) đã tròn 30 năm.

Bộ sách mang tên Đào Tấn với bề dày 2312 trang, khổ 14 x 20 gồm 3 tập:
  1. Đào Tấn – thơ và từ
  2. Đào Tấn – tuồng hát bội
  3. Đào Tấn – qua thư tịch
do Nhà xuất bản Sân khấu vừa hoàn tất việc ấn hành có thể coi là thành tựu khoa học kết thúc trọn vẹn một chặng đường 30 năm nghiên cứu Đào Tấn. Đồng thời là lễ vật tưởng niệm 100 năm ngày Đào công tạ thế (1907-2007). Đây là trường hợp không hẹn mà gặp, sự trùng khớp kỳ lạ.


1. Bước đi ban đầu

Trong “Lời đầu sách” của bộ sách Đào Tấn, tôi đã viết: “không thể có một nền nghệ thuật sân khấu kịch hát lâu đời, cao đẹp mà lại không có hoặc không biết nghệ sĩ lớn, tác giả, tác phẩm lớn của nền nghệ thuật ấy là ai? là gì? Và nếu không làm sáng tỏ điều này thì sự tôn vinh kia sẽ hoá ra vô nghĩa. Chính vì lẽ đó mà nhiều năm qua ở Bình Định, chúng tôi ra sức nghiên cứu hiện tượng nghệ thuật tiêu biểu cho nền nghệ thuật sân khấu kịch hát của đất nước thông qua một nhân vật – Đào Tấn”. Và Đào Tấn một nhân vật lịch sử tưởng chừng có nguy cơ bị lãng quên, giờ đây đã có một địa chỉ nhà hát mang tên Người; đã có những con đường khu phố mang tên Người nằm ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Huế, Vinh, Đà Nẵng, Quy Nhơn; đã có giải thưởng mang tên Người; và tên tuổi của Người đã chiếm một vị trí xứng đáng trong Từ điển văn học Việt Nam, gần đây nhất là bộ từ điển quy mô Từ điển văn học bộ mới (2004). Cuộc đời thanh bạch với đức độ và tài năng của Đào Tấn đã trở thành niềm tự hào của các nghệ sĩ hoạt động nghệ thuật sân khấu Việt Nam; phần mộ của Người đã được xếp hạng di tích lịch sử; đền thờ Đào Tấn sắp xây dựng nay mai tại quê hương của Người.

Thử ngược dòng thời gian nhìn từ 1975 về trước, lục lọi trong đống sách báo cũ, chúng tôi thấy có mấy cuốn sách dành những chương bức nhất định viết về Đào Tấn như Hát bộ của Đoàn Nồng, Danh nhân Bình Định của Bùi Văn Lăng, Nhân vật Bình Định của Đặng Quí Địch, nói chung tất cả đều đề cập quá sơ sài đối với một vĩ nhân như Đào Tấn. Riêng sách Văn đàn bảo giám của Trần Trung Viên chỉ chọn in hai bài thơ nôm của Đào Tấn, đề tên tác giả là Quan Hiệp Đào. Chỉ có hai bài báo giới thiệu có tính chuyên đề, đó là bài “Đôi nét về Đào Tấn” của Quách Tấn in trên tạp chí Lành mạnh số 47, 48 năm 1960 ở Huế và bài “Đào Tấn – nhà soạn tuồng kiệt xuấtcủa Mịch Quang in trên tạp chí Văn nghệ miền Bắc, cả hai đều cung cấp cho bạn đọc một lượng thông tin còn ít người biết, khổ nỗi bạn đọc của Lành mạnh hầu hết là thầy thuốc và bệnh nhân, họ lo việc chữa chạy cho người khác mau lành bệnh cũng đủ hụt hơi rồi, còn sức đâu mà nghĩ đến chuyện văn chương nghệ thuật. Còn bạn đọc của tạp chí Văn nghệ miền Bắc thì họ chưa hề biết Đào Tấn là ai. Tuy bài báo đã cung cấp đúng đối tượng, nhưng trong hoàn cảnh khách quan thời chiến, cuộc sống đang vật lộn với biết bao cơ cực cho nên người quan tâm cũng chẳng mấy. Rốt cuộc những cố gắng của cả hai bài đều rơi vào khoảng trống, đều như hạt cát rơi vào sa mạc.

Mặt khác, tình hình đất nước bị chia cắt là một thiệt thòi lớn đối với giấc mộng nghiên cứu nhân vật Đào Tấn mà tôi ôm ấp từ nhiều năm, nhất là từ sau khi tốt nghiệp ở Học viện Hý khúc Trung Quốc về nước. Hầu hết tư liệu, tài liệu nghiên cứu Đào Tấn nằm ở phía Nam. Tuy vậy những gì viết về Người hoặc có liên quan đến Người hiện có trên đất Bắc tôi đều không bỏ sót.

Quá trình thu nhặt tư liệu, tài liệu về Đào Tấn trên đất Bắc từng xảy ra một chuyện cười ra nước mắt như thế này: anh Mịch Quang có ông bạn Việt kiều ở Pháp thường đi về Hà Nội, vì khoa học Mịch Quang sốt sắng viết thư nhờ ông bạn ấy liên lạc với cụ bà Trúc Tiên (là mẹ của Giáo sư bác sĩ Đặng Hiếu Trưng, làm việc ở bệnh viện 108 Hà Nội), đang sống với con ở Pháp, với hy vọng moi cho được bản gốc vở tuồng Hộ sinh đàn. Và quả nhiên Mịch Quang “trúng quả”. Nhận được thư, cụ bà Trúc Tiên tự tay phiên âm bản gốc đánh máy gửi sang cho anh Mịch Quang. Có được bản này, tôi lập tức chuyển giao cụ Phạm Phú Tiết làm chú giải. Bản đó hiện nay đang nằm trong kho lưu trữ của Nhà hát Đào Tấn. Bề mặt của sự việc trông yên lành là vậy, nhưng đường ngầm của nó thì khó ai tưởng tượng được. Không biết người nào đã báo cáo với lãnh đạo và công an rằng anh Mịch Quang có liên hệ với nước ngoài (thời ấy có những kẻ chuyên kiếm điểm chính trị bằng nghề này). Vậy mà bọn tôi khờ khạo đến mức cứ hơ hớ mừng rơn vì bắt được của quý. Giá như có nghi ngờ điều gì thì cứ nói thẳng, hỏi thẳng để bọn tôi tấu bạch cho rõ trắng đen. Đằng này cứ im ỉm, dò la, điều tra, nghi vấn, tội nghiệp nhất là trải nhiều năm Mịch Quang không được tăng lương dù làm việc tốt, vì bị xếp vào tốp “có vấn đề” mà!

Mãi đến khá lâu sau, nhân cuộc họp Chi bộ Vụ Nghệ thuật, ông Mai Vi (Vụ trưởng) hỏi dò tôi về chuyện này (tôi đoán là vì tắc nẻo điều tra nên mới hỏi). Nghe hỏi, tôi ngớ người, mới biết có một đường ngầm đen tối. Thế là được dịp tôi xổ hết đầu đuôi câu chuyện mà tôi biết. Tôi còn mang bản tuồng Hộ sinh đàn của cụ bà Trúc Tiên gửi từ Pháp với cả bao bì đầy đủ để chứng minh sự thực. Không rõ có đáp ứng được yêu cầu hay chưa? Sau đó thấy im. Nhưng vì nguyên tắc Đảng không cho phép tôi nói lại với Mịch Quang mà hình như cho đến bây giờ anh Mịch Quang cũng chưa hay biết gì về chuyện này, bằng chứng là trong cuốn hồi ký anh mới in gần đây không thấy đề cập.

Qua đó, chắc mọi người đều thấy quá trình sưu tầm tư liệu, tài liệu cho công trình nghiên cứu Đào Tấn không hề trơn tru tý nào, có lúc phải trả cái giá khá đắt như vậy.

Cuộc tổng tiến công nổi dậy 1975 không chỉ thống nhất đất nước về mặt lãnh thổ mà còn giải phóng những số phận trớ trêu, giải phóng một cuộc đời nghệ sĩ, chí sĩ Đào Tấn. Đúng vậy, không có sự kiện 1975 thì Đào Tấn cũng chưa được giải oan nhiều nỗi, cũng chưa hưởng được vinh hạnh như ngày nay. Lúc tiếp tôi tại nhà riêng ở thành phố Hồ Chí Minh, những ngày đầu giải phóng, cụ bà Chi Tiên (em ruột cụ bà Trúc Tiên) viết vào sổ tay tôi bốn chữ: “Hàm ân bất ký” (含 恩 不 既 nghĩa là chịu ơn, nhận lấy cái ơn không thể nào quên, không thể bỏ qua!).


2. Hội nghị nghiên cứu Đào Tấn lần I

Cuối tháng 12.1977 hội nghị khai mạc.

Mới chỉ sau 2 năm kể từ ngày lá cờ đỏ sao vàng cắm trên “Dinh độc lập”, đất nước còn trăm việc bề bộn mà chúng ta đã tiến hành được một hội nghị khoa học nghiên cứu về một nhân vật lịch sử như Đào Tấn là nhờ có sự chuẩn bị điều kiện một cách âm thầm từ hồi ở Bắc. Riêng khoảng thời gian 2 năm sau ngày giải phóng, tôi vừa ra sức sưu tầm các mặt tư liệu, vừa làm công việc xử lý tư liệu. Khối lượng tư liệu, tài liệu thu thập được trong thời gian này gấp năm lần số đã có từ Bắc mang về.

Hồi đó (1975-1977) tôi còn là cán bộ của Bộ Văn hóa, đang phụ trách Phòng Nghệ thuật Sân khấu Cục Nghệ thuật biểu diễn và là thư ký Hội đồng Nghệ thuật của Bộ, xin được đặc trách làm công tác này. Tôi trình bày với lãnh đạo Bộ rằng: Cuộc sống đang xáo trộn dữ dội, nếu để chậm thì dòng lũ cuộc đời sẽ cuốn trôi, chôn vùi hết thảy các nguồn tài liệu quý hiếm mà sau này hối hận không kịp! Đề xuất của tôi được Thứ trưởng, Bí thư Đảng đoàn Bộ Văn hóa Thông tin Hà Huy Giáp và Thứ trưởng Hà Xuân Trường rất đồng tình. Cục trưởng Cục Nghệ thuật Biểu diễn bà Hà Nhân ủng hộ hết mình. Từ đó, tôi nhận lệnh biệt phái về Nghĩa Bình thuyết phục lãnh đạo Ty Văn hóa thông tin Nghĩa Bình, các ông Nam Hà Nguyễn Văn Minh, Hồng Nhân Hồ Đắc Bích trưởng phó Ty đều nhiệt liệt hưởng ứng việc tiến hành Hội nghị khoa học nghiên cứu Đào Tấn tại Quy Nhơn, quê hương của bậc nhân tài kiệt xuất.

Bây giờ nghĩ lại vẫn cứ bực mình.

Mọi việc chuẩn bị cho Hội nghị Nghiên cứu Đào Tấn đâu đấy xong xuôi, giấy mời đã phát đi khắp nước, lại vấp tiếp một vố, tuy chưa đến nỗi đau như vố anh Mịch Quang nhưng suýt ngã. Ông Trần Quang Khanh – vị lão thành cách mạng của đất Bình Định, người có công đầu trong vụ mưu sát liệt sĩ Võ Xán năm 1945 và hình như bây giờ còn muốn giết tiếp Đào Tấn. Tuy đã về hưu, sát khí vẫn đằng đằng, với tư cách lão thành cách mạng, ông sục sạo đến Tỉnh ủy và Uỷ ban Nhân dân tỉnh Nghĩa Bình, phản đối việc tiến hành hội nghị nghiên cứu Đào Tấn. Theo logic học của ông thì Đào Tấn là quan đại thần của triều Nguyễn, đã là quan to thì ắt có tội lớn. Ông nhấn mạnh: “nếu không có tội lớn thì làm sao làm được quan to”, không cần biết đó là tội gì. Cho nên việc tổ chức nghiên cứu Đào Tấn, tôn vinh Đào Tấn là mất lập trường cách mạng. Ngoài việc phát biểu thẳng với Tỉnh ủy, với UBND tỉnh, ông còn rêu rao khắp chỗ vẫn cái giọng dạy bảo đó. Vị trí và tiếng nói của ông không phải không có tác động nhất định. Lãnh đạo Tỉnh bắt đầu e dè, lãnh đạo Ty bắt đầu lạnh xương sống. Anh Xuân Diệu kết hợp về thăm quê rồi dự hội nghị luôn, nên anh có mặt ở Quy Nhơn khá sớm, chứng kiến được sự tình. Hôm đó tôi, anh Xuân Diệu, Hồ Đắc Bích hẹn gặp nhau tại nhà Hồ Đắc Bích để bàn tính sự cố không bình thường. Vì bực mình, tôi đưa ý kiến trước: “Sự thể đã vậy, nên dừng hội nghị lại, bằng phương tiện thông tin nhanh nhất báo cho đại biểu các nơi biết. Về phần mình, tôi sẽ chuẩn bị lại, nhất định phải tiến hành hội nghị khoa học nghiên cứu Đào Tấn vào một nơi khác, vào thời điểm khác”. Hồ Đắc Bích thì phân vân đến toát mồ hôi. Anh Xuân Diệu thản nhiên nói: “Trên đất nước ta, vào thời buổi này, bất kỳ một sự mở đầu nào cũng đều có ý kiến, có lực cản cả. Chí ít là loại ý kiến ra cái điều tôi cũng có ý kiến. Vì vậy, tôi khuyên các bạn đừng nản lòng, chúng ta hãy cứ để cho thiên hạ làm quen với Đào Tấn, khi đã quen nhau rồi thì chắc chắn họ sẽ yêu nhau, và khi đã yêu nhau rồi thì chắc chắn người yêu sẽ phải “dun mày liễu”, phải “quằn ruột lan” (ý nói có thai), đến chừng ấy cơ quan pháp lý sẽ thúc hối chúng ta làm đăng ký kết hôn cho mà coi”.

Lập luận của Xuân Diệu chinh phục tôi.

Ba chúng tôi tham mưu cho Trưởng ty Nam Hà làm việc với Tỉnh ủy, UBND tỉnh rằng: Nghĩa Bình vì là quê hương của Đào Tấn nên là địa chỉ tổ chức hội nghị, còn nội dung hội nghị, chủ trì hội nghị do Bộ Văn hóa Thông tin đảm nhiệm. Kết quả hội nghị về cụ Đào Tấn như thế nào là do các nhà khoa học, các đại biểu dự hội nghị quyết định. Vì vậy Tỉnh ủy và UBND Nghĩa Bình không việc gì phải băn khoăn. Thế là hội nghị xúc tiến đúng kế hoạch.

Mục tiêu của hội nghị nghiên cứu Đào Tấn lần I là: tập trung nghiên cứu Thân thế và sự nghiệp nghệ thuật của Đào Tấn. Lúc đầu chủ trương nặng về phần thân thế; phần sự nghiệp nghệ thuật bàn tới đâu hay tới đó. Nhưng trên thực tế thì làm sao tách bạch được mối quan hệ giữa hai mặt đó trong một con người nghệ sĩ như Đào Tấn. Cho nên không khí hội nghị, các quan điểm đối chọi nhau trong việc đánh giá con người Đào Tấn rất quyết liệt, các kiến thức lịch sử được vận dụng tuôn ào ào; các ý kiến khác nhau trong việc đánh giá tác phẩm của Đào Tấn cũng được đối chiếu, so sánh, bình luận không kém phần sôi nổi. Quá trình bình luận tác phẩm của Đào Tấn, lão nghệ sĩ Nguyễn Lai (Quảng Nam) xúc động rơi nước mắt mấy lần.

Thành phần đại biểu dự hội nghị nghiên cứu Đào Tấn lần I có mặt đầy đủ các nghệ sĩ sân khấu hát bội lão thành khắp ba miền: Trung, Nam, Bắc; các nhà nghiên cứu, bình luận nghệ thuật sân khấu (kịch); các nhà văn, nhà hoạt động văn hoá, nhà sử học có tầm cỡ.

Ông Hà Xuân Trường, Thứ trưởng Bộ Văn hoá Thông tin - Trưởng ban lý luận Bộ chủ trì hội nghị. Tôi mặc nhiên giữ chức “tham mưu trưởng” không có quyết định bổ nhiệm. Ông Hà Huy Giáp đến hội nghị với ý định dự khai mạc xong thì về Hà Nội, do vì không khí hấp dẫn của hội nghị lôi cuốn, ông bảo tôi báo với văn phòng Bộ hoãn các việc ngoài ấy lại, đợi hội nghị kết thúc ông mới về.

Anh Nguyễn Văn Xuân (Đà Nẵng) lúc đầu có đăng ký tham luận, sau xin rút vì theo anh có nhiều điều, nhiều tư liệu công bố bất ngờ, chưa kịp suy nghĩ nên xin phát biểu cảm tưởng.

Hội nghị bước vào ngày cuối. Trưa hôm ấy ông Hà Huy Giáp và ông Hà Xuân Trường gọi tôi đến Khách sạn Quy Nhơn báo cáo về diễn biến của hội nghị, cụ thể là tổng hợp các quan điểm khác nhau và như nhau nhằm chuẩn bị cho hai ông phát biểu vào buổi chiều. Chuyện đang giữa chừng thì cửa phòng mở đột ngột, người bước vào là ông Trần Quang Khanh, tôi nhường ghế cho ông ngồi. Không cần thủ tục chào hỏi xã giao, ông vào đề một mạch những điều đã nói với lãnh đạo địa phương. Ông Hà Huy Giáp vẫn lịch sự chăm chú nghe rồi quay lại hỏi nhỏ tôi: Ai đấy? Tôi trả lời kết hợp giới thiệu: Đây là đồng chí Trần Quang Khanh lão thành cách mạng của đất Bình Định. Đợi nói xong, ông Hà Huy Giáp đáp từ: “Việc nghiên cứu Đào Tấn, Bộ Văn hoá chịu trách nhiệm, anh yên tâm”. Sau khi ông Khanh chào ra về, ông Hà Huy Giáp lại hỏi tôi: “Ông ấy có thần kinh không vậy?”. Tôi thưa: “Thần kinh ông ấy rất vững, chỉ có thói quen dạy bảo thiên hạ bằng sự thiếu hiểu biết của mình thôi”.

Hai giờ chiều ngày 30.12.1977 (tức ngày 20.11 Đinh Tỵ) tổng kết hội nghị. Riêng ông Hà Huy Giáp chiếm diễn đàn mất đứt một tiếng rưỡi đồng hồ. Bài phát biểu của ông đã chuẩn bị sẵn, chỉ dùng để đăng báo chứ ông không đọc, ông thao thao nói vo rất sắc sảo (tôi đoán có lẽ vì bức xúc cái chuyện khi trưa) như vấn đề có người trách Đào Tấn từ chối tham gia phong trào Cần Vương của Mai Xuân Thưởng là vì sợ chết. Ông Hà Huy Giáp biện hộ: “Đào Tấn là một trí thức lớn, lại là người nằm trong cái chăn của chế độ xã hội ấy, ông đã đếm được trong chăn có bao nhiêu con rận. Vậy mà làm cách mạng theo cách của Mai Xuân Thưởng thì chỉ có dẫn đến cái chết thôi. Thực tế đã chứng minh là như thế. Không phải chỉ có phong trào Mai Xuân Thưởng ở Bình Định mà hành động yêu nước của phong trào Cần Vương các nơi khác lúc bấy giờ đều dẫn đến kết cuộc như thế! Biết rằng kết cuộc sẽ dẫn đến cái chết trắng tay mà cứ lao vào là làm liều. Người trí thức không sợ chết, nhưng không làm liều”.

Đến lúc ông Hà Xuân Trường đọc xong bài tổng kết hội nghị bằng văn bản với tiêu đề “Từ cuộc đời Đào Tấn, sự đánh giá nghệ thuật Đào Tấn… đến công việc cần làm”, tôi và tập thể lãnh đạo, cán bộ nhân viên Ty Văn hoá Thông tin Nghĩa Bình đều thở phào nhẹ nhõm sau những ngày lo toan vất vả phục vụ hội nghị.

Nhà báo Từ Lương (báo Văn nghệ) vỗ vai tôi: “Đây đích thực là hội nghị khoa học”.

Nhà bình luận nghệ thuật sân khấu Tất Thắng hớn hở: “Một cuộc cọ xát phân biệt chính tà, vàng thau không lẫn lộn”.

Nhìn lại Hội nghị I có hai chuyện khó quên:
  1. Chống chọi với các quan điểm, quan niệm sai trái trong việc đánh giá con người, Xuân Diệu phải đứng bật dậy từ hàng ghế cử tọa giơ hai nắm tay nói như đánh võ.

  2. Ông Hà Huy Giáp bỏ đọc bài viết sẵn, thao thao nói vo.


3. Hội nghị Nghiên cứu Đào Tấn II và III với các vấn đề còn đọng

Sau Hội nghị nghiên cứu Đào Tấn lần I không lâu, tôi được chuyển hẳn công tác về Nghĩa Bình, phụ trách phòng nghiên cứu Nhà hát tuồng Nghĩa Bình vừa thành lập ở Quy Nhơn.

Về quê vì hai lẽ:
  1. Kết hợp thực hiện trách nhiệm làm chồng, làm cha mà hơn hai mươi năm ròng bỏ vãi vì xa nhà.

  2. Theo đuổi công trình nghiên cứu Đào Tấn cho đến cùng với mong ước công trình sẽ hình thành môn Đào Tấn học trong lĩnh vực mỹ học nghệ thuật sân khấu (kịch) Việt Nam.
Từ đây, công trình nghiên cứu Đào Tấn có điều kiện tiếp tục với quy mô rộng hơn, sâu hơn và trong công việc không đơn độc như giai đoạn trước. Năm 1979-1980 tôi may mắn có được Mạc Côn, Bùi Lợi, vừa tốt nghiệp đại học xin về chỗ tôi công tác. Phòng nghiên cứu chỉ có ba chúng tôi với một thư ký đánh máy chuyên nghiệp mà phải đảm đương một khối lượng công việc tưởng chừng phải là một viện nghiên cứu mới đủ sức làm. Mọi mặt công tác đều dồn vào một điểm: Chuẩn bị cho hội nghị nghiên cứu Đào Tấn lần II. Vì sao vậy?

Kết thúc hội nghị I không ai moi đâu ra vết xấu của Đào Tấn và đều kết luận Đào Tấn là người đẹp nhất trong hàng quan lại lúc bấy giờ. Ngay như Charles Gosselin kẻ được Toàn quyền Pháp đặc phái theo dõi Đào Tấn rất sít sao cũng phải thốt lên rằng: “Một đời tận tuỵ trong nhiều chức vị quan trọng Đào Tấn vẫn tay trắng thanh bần, bao nhiêu ấy đủ thơm danh hậu thế và làm cho đại nhơn vượt lên trên hẳn nhiều đồng liêu khác ít được gương mẫu như đại nhơn(Vương Hồng Sển trích dịch trong L’Empire d’Annam, 1904, in trong Đào Tấn qua thư tịch, tập III, tr. 32).

Tuy vậy, không phải không còn đôi điều nghi vấn do vì còn khá nhiều tư liệu chưa có điều kiện công bố. Ví dụ, chuyện về câu đối điếu Đào Tấn của ông Hà Đình Nguyễn Thuật (Quảng Nam), vế đầu viết rằng: “Công tài, công vọng, triều quận thôi xưng, tố chí hoạch thân, cự chỉ Hồng Lĩnh nhung công vinh gia cốc bích”. Vớ lấy hai chữ “nhung công” ông Lê Ngọc Cầu cắt nghĩa rằng “công lao dẹp giặc” rồi vội nghi ngờ Đào Tấn có thành tích bất hảo. Thực ra vế đối trên nếu dịch cho chính xác là thế này: Tài năng của ngài, ước vọng của ngài, trong triều ngoài quận đều ngợi khen, chính vì ngài mong muốn thi thố chí lớn chứ đâu phải cương vị tổng đốc núi Hồng mà sáng ngời ngọc quý. Hàm nghĩa của bốn chữ “Hồng Lĩnh nhung công” là chỉ chức vị tổng đốc An Tĩnh theo nghĩa văn học. Tổng đốc của một tỉnh thay mặt nhà vua quyết định mọi việc: quân sự, nội trị, ngoại giao của một địa phương, chứ không phải “nhung công” là công lao đánh dẹp. Những điều lầm lẫn về chữ nghĩa tương tự như ông Lê Ngọc Cầu đều phải giải quyết dứt điểm tại hội nghị II.

Mục tiêu chủ yếu của hội nghị II là nghiên cứu đánh giá toàn bộ di sản nghệ thuật của Đào Tấn để lại.

Để đạt được mục tiêu ấy, chúng tôi lại phải tiếp tục lặn lội sưu tầm bổ sung các mặt tư liệu còn nằm rải rác các nơi như: Huế, thành phố Hồ Chí Minh… đặc biệt các loại dị bản, đồng thời sắp xếp, hệ thống hóa và làm công tác xử lý tư liệu cung cấp cho hội nghị. Cuối tháng 4 năm 1981 Ty VHTT Nghĩa Bình in xong tập Hí trường tuỳ bút (HTTB) dày 142 trang, do ông Hồ Đắc Bích phó Ty chịu trách nhiệm xuất bản. Tài liệu do Nguyễn Thế Triết và Đinh Văn Tuấn sưu tầm, phiên âm, dịch nghĩa (hiện giờ Triết chết, Tuấn còn), Nhà hát tuồng Nghĩa Bình biên tập. Cuối sách in bài “Mấy thu hoạch sau khi đọc Hí Trường tuỳ bút của Đào Tấn” của Giáo sư viện sĩ Hoàng Trinh lúc bấy giờ là phó viện trưởng Viện Văn học, nhân danh cộng tác viên lý luận của Nhà hát tuồng Nghĩa Bình. Ắt bạn đọc dễ thấy ở đây có hai chuyện là lạ:
  1. Nhà hát tuồng Nghĩa Bình là một khối gạch, ngói, xi măng, sắt, thép nó làm công tác biên tập sao được?

  2. Cộng tác viên lý luận Hoàng Trinh chỉ làm mỗi việc viết bài này, cho tập này, mà bài viết hình như chưa đạt kích cỡ Giáo sư.
Lai lịch của chuyện lạ ấy như sau: Từ năm 1979-1981, trong khối lượng tài liệu về Đào Tấn mà chúng tôi gom góp được có bộ phận tài liệu do anh Nguyễn Thế Triết sao chép cung cấp gọi là HTTB của Đào Tấn. Cung cấp nhiều lần, trong thời gian dài, mỗi lần một xấp năm ba bài, mỗi bài ba phần: bản sao chữ Hán, phiên âm, dịch nghĩa đều viết tay. Chính tôi là người đặt hàng và trực tiếp nhận tài liệu, trả tiền theo thoả thuận giữa hai bên. Thực ra, giá thoả thuận hồi đó rẻ như bèo, lấy kinh phí từ nguồn Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật tỉnh nhà tài trợ mà trả. Đương nhiên tôi là người tiếp xúc khối lượng tài liệu đó trước hết; đọc và kiểm tra tài liệu trong tình trạng không có bản gốc đối chiếu. Tuy vậy, càng cảm thấy ngờ ngợ trong mỗi bài tôi đều làm chú thích ở dưới, ký tên VNL. Ví dụ: bài số XXII, trang 55 sách in (phần dịch):

“Ở Nam Kỳ có ông Bùi Hữu Nghĩa là người đồng thời của tôi (Đào Tấn). Ông Bùi từng soạn tuồng Kim Thạch Kỳ Duyên truyền ở đời. Tôi từng đọc tuồng đó. Văn chương rất hay nhưng rất khó hát, bởi vì tiết điệu trong tuồng không hợp, có điệu cao mà không có điệu thấp. Kép hát, nếu không được trời cho tốt giọng thì rất khó hát. Ông Phan Thanh Giản lúc còn sống thường nói với tôi: Bùi Hữu Nghĩa là bậc thiếu niên anh tuấn, văn chương của ông ta đứng đầu một thời, nhưng tuồng Kim thạch kỳ duyên do ông ta soạn lưu truyền không rộng rãi là tại sao vậy? Tôi đem nguyên do đó mà đáp, ông Phan cũng cho như vậy là đúng. Do đó, người viết tuồng nên gồm có tài sành về âm luật mới có thể vận dụng văn tài hợp với tiết điệu của tuồng được. Không rành âm luật mà soạn tuồng thì khó mà toàn bích vậy”.


Đọc xong bài, tôi bỗng giật mình: hình như giữa những con người này sống cách nhau xa lắc, sao ở đây người ta kéo thời gian xích lại gần đến thế nhỉ? Buộc phải lục lại thư tịch cũ tra cứu thấy rằng: Phan Thanh Giản sinh năm 1796, Bùi Hữu Nghĩa sinh năm 1807, Đào Tấn sinh năm 1845. Nghĩa là Phan Thanh Giản lớn hơn Đào Tấn 49 tuổi, Bùi Hữu Nghĩa lớn hơn Đào Tấn 38 tuổi, Phan Thanh Giản lớn hơn Bùi Hữu Nghĩa 11 tuổi. Xét về mặt đạo lý Đào Tấn thuộc lớp hậu bối của Phan Thanh Giản, Bùi Hữu Nghĩa. Lại nữa, Phan Thanh Giản đỗ Cử nhân năm Ất Dậu (1825), đỗ Tiến sĩ năm Bính Tuất (1826). Từ năm 1862-1867 làm Kinh lược sứ Nam Bộ, năm 1867 chết ở Vĩnh Long. Còn Đào Tấn sinh năm Ất Tỵ (1845), đỗ Cử nhân 1867 khoa Đinh Mão tại Trường thi Bình Định, tức năm Phan Thanh Giản chết. Làm Hiệu thư ở Huế năm 1871, nghĩa là sau khi Phan Thanh Giản chết đã 4 năm. Vậy Đào Tấn gặp Phan Thanh Giản vào lúc nào, dịp nào và bằng cách gì mà sao họ trò chuyện với nhau như cùng lứa tuổi ? Nói chung, những điều nghi vấn tương tự tôi đều chú thích trong từng bài. Vì khối lượng tài liệu nhiều, tôi chưa có thời gian xem xét hết. Lúc Ty VHTT Nghĩa Bình sử dụng mấy chục bài in sách cũng được người ta bê y nguyên chú thích của tôi vào sách.

Riêng chuyện in sách mang tên Hí trường tuỳ bút cũng lắm điều đáng buồn. Đầu tháng 2 năm 1981, tôi trực tiếp trao đổi với Nguyễn Thế Triết, cảm ơn anh đã nhiệt tình cộng tác, cung cấp tài liệu Hí trường tuỳ bút khá nhiều và đã đến lúc cần in thành sách phục vụ Hội nghị Nghiên cứu Đào Tấn lần II. Để đảm bảo tính khoa học trong việc công bố tài liệu, chúng tôi xin mua lại bản gốc mà anh đã dùng để sao chép cung cấp, nếu thấy không cần thiết phải giữ nó; bằng không thì cho chúng tôi chụp ảnh trang bìa và một vài trang ruột để làm chứng cứ rằng tài liệu đáng tin cậy, đương nhiên chúng tôi phải ghi rõ bản gốc do anh sở hữu.

Lần đầu Triết hứa sẽ về quê Tuy Phước lấy đem xuống cho mượn chụp ảnh. Chừng nửa tháng sau Triết trả lời: Trên đường mang bản gốc xuống Quy Nhơn rủi vì giữa đường bị đứt cái dây chun buộc tài liệu sau xe đạp, tài liệu bị rơi lúc nào không biết. Vậy là đã rõ. Tôi ra về trong thất vọng. Đến khoảng tháng 3 năm 1981, ông Hồ Đắc Bích mời tôi dự họp bàn chuyện in Hí trường tùy bút, tôi trình bày mọi lẽ nghi ngờ kèm lời khuyên không nên in. Ông Bích không nghe. Tôi giao hẹn: Nếu cứ in thì không được ghi tên tôi vào sách. Các bạn có quyền muốn làm gì thì làm. Hoá ra chỉ mỗi một dòng mấy chữ “Nhà hát tuồng Nghĩa Bình biên tập” mà có “tiểu sử” rất chi quanh co thế đấy!

Chắc có người sẽ hỏi: Tài liệu không đáng tin cậy thu mua làm gì cho tốn kém?

Xin thưa, thu thập rồi mới biết, vả lại chúng tôi đang cơn khát đãi cát tìm vàng mà! đang khao khát tài liệu về Đào Tấn mà lại có tin báo Đào Tấn còn để lại tập Hí trường tùy bút hỏi có ai làm ngơ được không?

Hí trường tuỳ bút sau khi công bố, dư luận rất quan tâm, do vì lần đầu bạn đọc tiếp xúc với một tài liệu hiếm có mang tính lý luận nghệ thuật sân khấu Việt Nam. Đồng thời cũng bùng nổ một vụ án văn chương tại Hội nghị nghiên cứu Đào Tấn lần II. Tôi và Nguyễn Huệ Chi (Viện Văn học) quen nhau từ đấy.

Đại biểu được mời đến dự hội nghị nghiên cứu Đào Tấn lần thứ II (tháng 8.1982) đông hơn lần I. Cuộc vật lộn trong việc đánh giá tác phẩm của Đào Tấn không kém sôi nổi nhưng khá thuận chiều. Chỉ riêng việc đánh giá tập sách Hí trường tùy bút thì kẻ khen người chê hoàn toàn trái ngược. Nguyễn Huệ Chi là cây bút phủ định nổ phát súng đầu, anh ngờ Hí trường tuỳ bút về cơ bản là hàng giả, nhiều bài ăn cắp của tài liệu lý luận và lịch sử hý khúc Trung Quốc xào nấu lại (nhưng cách anh nói trong hội nghị có phần ý nhị chỉ nêu vài nghi vấn và cũng phải gác lại 2 phần không đọc theo quyết định của một cuộc họp chớp nhoáng của Tỉnh uỷ Nghĩa Bình, tuy thế cũng đủ gây một cơn “địa chấn” trong hội trường); phái khẳng định thì coi Hí trường tuỳ bút là một cống hiến lớn lao, cùng hót theo giọng Hoàng Trinh. Theo tôi, chuyện rất dễ hiểu, vì hầu hết phái khẳng định không có khả năng đọc thẳng nguyên tác chữ Hán, họ đều là nô lệ của bản dịch. Những người có khả năng đọc thì không có điều kiện đọc, đã không có điều kiện đọc lại ham có ý kiến!

Chung quanh vụ án văn chương Hí trường tuỳ bút sau hội nghị còn xôn xao một thời gian dài. Hồ Ngọc (tức Hồ Thi) phát biểu trên báo ủng hộ Nguyễn Huệ Chi và chứng minh Hí trường tuỳ bút là nguỵ thư. Ông Hoàng Chương nhân danh Viện Nghiên cứu Sân khấu tổ chức toạ đàm phản bác ý kiến Hồ Thi và Nguyễn Huệ Chi, phản bác bằng thứ luận cứ tù mù. Riêng Nguyễn Huệ Chi hình như gặp khó ít nhiều trong “sinh hoạt chính trị” ở cơ quan.

Thu hoạch lớn nhất từ hội nghị nghiên cứu Đào Tấn II:
  1. Giải quyết dứt điểm những gì rơi rớt lại từ hội nghị I về con người Đào Tấn.

  2. Thúc đẩy công tác nghiên cứu tiến vào chiều sâu.

  3. Xuất hiện sự vụ Hí trường tuỳ bút bộc lộ sự sơ hở đáng tiếc, nhắc nhở chúng tôi: Đây là công trình khoa học cho nên phải tuyệt đối tuân thủ quy trình khoa học, nếu đùa với khoa học thì công trình sẽ bị đổ vỡ như chơi. Vì muốn giải quyết rắc rối này thật khách quan, tháng 10 năm 1987 chúng tôi mời hai nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi và Đỗ Văn Hỷ (Viện Văn học) vào Quy Nhơn công tác “nằm vùng” một thời gian tiến hành khảo cứu văn bản chữ Hán Hí trường tuỳ bút đầy đủ do Nhà hát tuồng Đào Tấn thu thập từ Nguyễn Thế Triết để có kết luận minh bạch (xem bài “Thật và giả của Hí trường tuỳ bút” in ở tập III Đào Tấn - qua thư tịch, khảo luận của Nguyễn Huệ Chi, và bản dịch toàn bộ Hí trường tùy bút kèm chú giải và sách dẫn công phu của Đỗ Văn Hỷ và Nguyễn Huệ Chi lưu tại Sở Văn hóa thông tin Nghĩa Bình nay là Bình Định - Thiết tưởng cũng cần sớm cho bạn đọc rộng rãi được thưởng thức cả nguyên văn và bản dịch cuốn sách rất “lạ kỳ” này).
Tháng 8 năm 1988 tiến hành hội nghị nghiên cứu Đào Tấn lần III, thực chất là một cuộc kiểm tra có tính chất tổng hợp nhằm soát xét những việc đã làm còn có gì chưa thấu tình đạt lý. Cuốn Thư mục – Tư liệu về Đào Tấn xuất bản cuối năm 1985 mang tính chất tổng hợp của công trình.

Có thể nói các đầu sách thuộc công trình nghiên cứu Đào Tấn lần đầu tiếp xúc với đời vào các thời gian:

Tháng 12 năm 1987 cuốn Đào Tấn – Thơ và từ Nhà xuất bản Văn học ấn hành. Tháng 01 năm 1988 hai cuốn Tuồng Đào Tấn (tập I và II) Nhà xuất bản Sân khấu và Sở VHTT Nghĩa Bình ấn hành, nhằm chuẩn bị cho hội nghị nghiên cứu Đào Tấn lần thứ III. Theo cách nói của Xuân Diệu thì đây là lúc Đào Tấn đã trở thành người yêu của thiên hạ, “cô nàng” đã có thai, thai của nàng cũng đã đến kỳ sinh nở.

Trên cơ sở đó bây giờ mới có bộ sách Đào Tấn ba tập dày dặn vấn thế.

Vậy là từ Hội nghị I (1977) đến Hội nghị II (1982) thời gian chuẩn bị mất đứt 5 năm. Từ Hội nghị II đến Hội nghị III (1988) thời gian chuẩn bị mất đứt 6 năm, vị chi là 11 năm. Mười một năm “đổ mồ hôi, sôi nước mắt” khôi phục được chân dung một nhân vật lịch sử liên quan đến nền tảng của nền nghệ thuật kịch hát nước nhà, có lẽ nào đây không phải là niềm tự hào?

Đào Tấn – niềm tự hào của nền nghệ thuật Kịch hát Việt Nam cần được thông báo cho thế giới loài người cùng biết. Vả lại, đó cũng là quyền lợi chính đáng mà họ đòi hỏi được biết để bổ sung kiến thức trong cuộc sống của mình. Vì vậy, sắp tới chúng ta cần làm tiếp hai việc:
  1. In song ngữ các tác phẩm nghệ thuật của Đào Tấn để cung cấp cho thị trường thế giới.

  2. Xây dựng một bộ phim nhiều tập về chân dung Đào Tấn bao gồm con người và tác phẩm. Đây là phương tiện quảng bá trực tiếp nhất, rộng rãi nhất, hiệu quả nhanh nhất. Quảng bá cả trong nước, ngoài nước. Đương nhiên muốn quảng bá đạt hiệu quả, phim phải có sức hấp dẫn. Tôi nghĩ, chính cuộc đời Đào Tấn sẽ tạo nên sức hấp dẫn ấy.

Quy Nhơn, 15.05.2007

© 2007 talawas