Tủ sách talawas Loạt bài: Sách xuất bản tại miá»n Nam trÆ°á»›c 1975
30.6.2008
Aleksandr I. Solzhenitsyn
Bất ngỠtại nhà ga Krechetovka
Lê Vũ dịch
Bất ngá» tại nhà ga Krechetovka ( The Incident at the Krechetovka Station) là má»™t truyện "bá»±c thầy", được diá»…n đạt qua ngòi viết của danh sÄ© Aleksandr I. Solzhenitsyn, mô tả và ghi lại những dằn vặt, ray rứt, những băn khoăn khôn cùng của má»™t ngÆ°á»i trẻ tuổi đụng đầu phải vá»›i những thá»±c tế của chủ nghÄ©a cá»™ng sản… Cuá»™c váºt lá»™n ná»™i tâm thá»±c tế chỉ được ghi lại má»™t cách vô tÆ°... Bantam Books "A lô! Đây có phải là nơi gửi hàng đấy không?"
"Ừm!"
"Ai đấy vậy? Dyachikhin phải không?"
"Ừm!"
"Đừng có "ừm" như vậy. Tôi hỏi có phải là Dyachikhin đấy không?"
"Chuyển các toa chở nước từ Đường Bẩy sang Đường Ba, rồi cho đi… vâng, đây là Dyachikhin".
"Đây là sĩ quan phụ tá vận chuyển, Trung úy Zotov. Có việc gì vậy? Cô còn cần gì cho chuyến đi Lipetsk, chuyến Sáu Bẩy Mươi… có phải thế không, Valia?"
"Tám".
"Sáu Bảy Mươi Tám".
"Không có gì chở theo cả".
"Cái gì, không có gì là thế nào?"
"Không có đầu máy. Vamakov đấy hả? Xem bốn toa chở than ấy có phải trên đường số sáu không? Dồn mấy toa ấy lại luôn nhé".
"Này, không có đầu máy là sao hả? Đứng từ cửa sổ phòng tôi, tôi thấy rõ ràng sáu cái xếp hàng dài cơ mà".
"Ừ thì là một đoàn".
"Một đoàn là thế nào?"
"Một đoàn đầu máy. Từ nghĩa địa về đấy. Các đầu máy ấy di chuyển đi nơi khác".
"Đúng, nhưng vẫn còn hai cái đầu máy đang chuyển đường mà!"
"Đồng chí Trung úy! Tôi thấy các đầu máy đang chuyển đường. Có ba cái cơ!"
"Tôi có viên Trung sĩ hộ tống đứng ngay cạnh tôi đây. Y vừa mới cho tôi hay có ba đầu máy đang chuyển đường. Để cho tôi một".
"Không thể lấy được đầu máy ấy..."
"Cô nói sao không thể được hả? Cô có biết số hàng ấy quan trọng ra sao không? Không thể để chậm một phút nào được, cô..."
"Chuyển các toa ấy lên đồi".
"Rồi cô sẽ trì hoãn đến cả ngày trời!"
"Chưa đến cả ngày".
"Thế cô định như thế nào, cả ngày ở nhà dục anh hay ở phòng gửi đồ? Làm sao chịu nổi bọn con nít la khóc chứ?"
"Hừ, tất cả kẹt lại đây hết. Các đồng chí, tôi đã nói với các đồng chí không biết bao nhiêu lần rồi mà! Xin các đồng chí vui lòng dọn dẹp cho sạch sẽ đi. Tôi không thể nào chuyển bất cứ thứ gì của các đồng chí đi được. Ngay đến cả các đồ tiếp tế của nhà binh cũng chịu, phải đợi!"
"Chuyến tàu ấy chở máu dự trữ gửi đến cho y viện. Cô phải biết như vậy mới được!"
"Tôi biết hết, Vamakow hả? Nào bây giờ thì tháo ra rồi tới tháp nước. Lấy mười nhé".
"Này, nếu trong vòng nửa giờ nữa không có chuyến tầu cho tôi, tôi sẽ báo cáo về cô ngay! Đây không phải là chuyện giỡn, cô sẽ trả lời về vụ này!"
"Trung úy Zotov, giấy nhận đâu đưa tôi. Tôi phải giữ giấy ấy mới được..."
"Tôi giao giấy nhận cho nhân viên gửi hàng nhà binh rồi".
"Nikolad Perovich hả? Valentina Podshebyakina đang nói chuyện đây. Nầy, ở xưởng chữa đầu tầu có việc gì thế? Cái gì, một đầu tầu SU đã sẵn sàng xăng nhớt rồi à?"
"Phải, đồng chí Trung sĩ, đồng chí tới toa hộ tống đi, nếu trong bốn mươi phút... được nếu họ không gửi cho đồng chí trước sáu giờ ba mươi, đến cho tôi hay ngay".
"Dạ, thưa Trung úy, tôi sẽ báo cáo lên Trung úy. Bây giờ tôi đi được chưa ạ?"
"Đi đi!"
Viên trưởng đoàn hộ tống nhanh nhẩu quay gót, bàn tay rời khỏi vành mũ, chân bước đi.
Trung uy Zotov sửa ngay ngắn lại cặp kính mát, nó làm Trung úy vẻ mặt không khắc khổ bỗng thoáng vẻ khắc khổ, Trung úy nhìn ra cô Podshebykina, nhân viên gửi hàng nhà binh, một cô gái mặc bộ quần áo hỏa xa, mái tóc cô dầy, nâu, lọn ngắn xõa xuống trước trán. Cô đang nói chuyện qua ống điện thoại kiểu cổ lỗ sĩ. Trung úy đi qua căn phòng nhỏ bé của cô, rồi vào phòng riêng của ông, phòng của ông cũng nhỏ, xa hơn phòng ông còn có phòng khác nữa.
Căn phòng của cơ quan chuyển vận quân đội là một căn phòng từng dưới cùng, ở góc tòa nhà. Ngay phía trên góc tòa nhà, ống máng lớn phun nước đã bị hư. Một dòng nước lớn phun vào bức vách ở bên ngoài, nghe như từng cơn gió giật thổi vào khung cửa sổ phía trái và góc sân bay, thổi vào hành lang hẹp đằng trước khung cửa sổ bên phải. Tháng Mười sương nhạt, buổi sáng cả nhà ga sương giá phủ trắng, nhưng mấy ngày mới đây thời tiết lại chuyển sang ẩm thấp, và từ hôm qua mưa lạnh đổ xuống liên miên chẳng ngớt, khiến ta phải lấy làm lạ không hiểu nước ở đâu mà có thể đổ xuống nhiều đến như vậy được.
Nhưng trời mưa, lại cho nơi này có trật tự. Mưa khiến cho thiên hạ hết cả chen lấn xô đẩy nhau một cách vô nghĩa, khiến cho đám thường dân hết cả lang thang không ngừng trên các sân thượng hay trên các đường rầy làm cho cả nhà ga không còn vẻ gì là trật tự nữa. Tất cả những con người ấy đều đã tìm chỗ trú mưa ; không còn ai lê bước trên cả bốn lối đi giữa các đường rầy dưới những toa tầu, hay trèo lên các bực nữa ; dân địa phương không còn đến với những thúng khoai và lúc nhúc trong các toa chở súc vật như thể đây là một cái chợ hàng rong, những người áo ngoài, áo trong, những thứ đồ len, tất cả vắt trên vai và trên hai cánh tay giơ ra để rao hàng của họ. Cái lối buôn bán này làm cho Trung úy Zotov bối rối không cùng: buôn bán như vậy là không được phép, nhưng cũng lại chẳng làm thế nào cấm họ được, bởi vì các người di cư đều không được cấp phát gì cả.
Mưa chỉ không xua đuổi được những người có công việc. Bên ngoài cửa sổ, Trung úy Zotov có thể nhìn thấy người lính gác đứng ở sân ga gần các kiện hàng phủ vải dầu. Nước mưa chẩy vào người anh lính, nhưng anh ta vẫn đứng đấy chẳng buồn rũ nước đi. Trên đường số 3 đầu tầu đang nối toa kéo các toa chở nước, người bẻ ghi khoác áo tơi mưa vải dầu đầu đội mũ quả dưa sụp xuống, tay gã cầm cờ phất phất ra hiệu. Rồi đến lượt bộ mặt xủn xoẳn u tối của người gác thắng đi dọc đoàn tầu trên đường số 2, vừa đi vừa cúi xuống xem xét dưới gầm mỗi toa tầu. Ngoài ra không còn gì ngoài mưa xiên xiên, ray rứt. Trong cái lạnh, gió dai dẳng xiết xuống nóc và vách các toa chở hàng hóa, thổi thẳng vào các đầu máy, rít lên và xoắn vặn các lớp sắt bọc ngoài bị rách xoạc của nhiều toa tầu (các toa tầu này bị hư hại nhiều chỗ vì một cuộc tấn công của máy bay, nhưng bộ phận máy móc không bị hỏng nên bây giờ các toa này được kéo ra dùng), gió trút xuống bốn khẩu đại bác không có đồ che đậy đứng trơ trơ trên sân ga, và hòa vào với cái tối đang phủ xuống, để kéo thành một lớp màn xám phía trên đĩa điện báo màu xanh, và trên những tàn lửa thỉnh thoảng vọt lên từ ống khói lò ở các toa chở súc vật đầy người. Sân ga số 1 tráng nhựa đã ngập nước sủi bong bóng, nước đọng chưa kịp rút đi; nước làm cho các đường rầy loáng loáng trong bóng tối; và những vũng dầu không thấm đi được rung rinh trong bóng tối mầu nâu của bờ thiết lộ.
Cả vùng không một âm thanh, trừ những đợt rung nhẹ của mặt đất và tiếng kèn như thiếu hơi của người bẻ ghi, vì còi tầu đã bị cấm kéo từ lúc chiến tranh bùng nổ.
Chỉ có tiếng nước mưa rít trong ống mái bể.
Ở chỗ cửa sổ bên kia, trên con đường chạy dọc bức tường nhà kho, có một cây sồi non. Cái cây bị gió xoắn vặn, sũng nước, và những chiếc lá thẫm mầu cuối cùng bây giờ cũng bị gió bứt đi nốt.
Không còn thì giờ để đứng và nhìn mãi như vậy, Trung úy đã hạ cuộn giấy che bớt ánh sáng xuống hướng ánh đèn cho đúng chỗ rồi ngồi xuống làm việc. Trước khi ông rời bàn giấy vào hồi 9 giờ đêm, ông đã làm việc đầy đủ lắm rồi.
Nhưng thay vì hạ chao đèn che bớt ánh sáng ông lại bỏ mũ, mũ ông là mũ sĩ quan có lưỡi trai màu xanh, ông có thời quen cứ đội nguyên mũ ngồi làm việc tại bàn giấy. Ông bỏ kính đeo mắt ra và đứng đấy chậm chậm giơ tay dụi mắt, cặp mắt ông đã mệt mỏi với công việc chép những con số mật mã hàng hóa vận chuyển từ một bản danh sách quay ronéo sang một bản giấy khác. Không, không phải là mệt mỏi, mà là một thứ buồn bã dai dẳng nó chậm chậm dâng lên từ cái ánh sáng nhá nhem ốm yếu nầy rồi nó bám vào người ông.
Mối buồn ray rứt cũng không phải ông buồn vì vợ ông lúc này một mình ở lại tận Belorussia hiện nằm trong tay quân Đức; vợ đang có thai. Mối buồn của ông cũng không phải là vì những nhớ tiếc về dĩ vãng bởi vì ông chẳng có dĩ vãng nào để mà luyến tiếc. Mối buồn cũng không phải vì ông tiêu tan tài sản, vì chẳng bao giờ ông có tài sản gì, và cũng chẳng bao giờ ông mơ ước có tài sản.
Nỗi chán chường của Zotov chẳng cần gào to lên cho bớt trĩu nặng trong lòng chính là vì chiến tranh mà ra, khó lòng thoát ra được dòng lôi cuốn của chiến tranh. Thật không thể nào hiểu rõ được tuyến đầu chiến trận ở đâu qua các bản thông cáo của Xô Viết do cơ quan Thông tin phổ biến, và cũng hoàn toàn không rõ Khaslov và Kaluga ai là người soạn ra các bản thông cáo ấy. Nhưng đám người hỏa xa thì lại biết rất chắc là các chuyến tầu không còn đi quá Uzlovaya trên đường Tula nữa, và quá Yelets thì các chuyến tầu cũng lắm là tới Verkhovye mà thôi. Máy bay oanh tạc lúc hiện ra ở đây, có lúc lại ở chỗ khác, và vài quả bom dội xuống đường Ryazan - Voronezh, làm cho nhà ga Krechetovka cũng bị vạ lây. Chừng mười ngày trước đây, có hai tên người Đức cuồng điên cưỡi mô tô chạy lạc tới đây, hai tên xả súng máy bắn xối xả vào ga Krechetovka. Một tên bị hạ, tên còn lại bỏ chạy, nhưng vụ súng nổ này đã làm cho nhà ga bị thiệt hại nặng, và ông sĩ quan trách nhiệm về đội phá hoại lúc ấy đang đứng bên cạnh định chuẩn bị lánh đi nơi khác, đã làm nổ khối thuốc TNT đặt sẵn từ trước, phá tung cả tháp nước. Vì thế mà bây giờ họ phải gọi đến chuyến tầu sửa chữa, họ sửa chữa mất ba hôm rồi.
Thật ra, việc chẳng xảy ra ở Krechetovka, nhưng tại sao chiến tranh lại xảy ra thì đã xảy ra rồi. Trên toàn cõi Âu châu chẳng hề có cách mạng bùng ra, như điều người ta suy đoán giả thiết. Và chẳng phải chỉ có những người lính Xô Viết là không xông vào cuộc để ủng hộ cho những đám quần chúng nổi dậy với cái giá rẻ là vài mạng sống chống lại tất cả các kẻ xâm lăng hợp một, thay vì thế thì chiến tranh lại đổ xuống đầu chính chúng ta! Liệu chiến tranh sẽ kéo dài bao lâu? Và, dù khi làm việc ngay ban ngày hoặc khi đêm xuống lúc trở lại văn phòng, Zotov lúc nào cũng suy nghĩ: "Chiến tranh sẽ kéo dài bao lâu?" Và khi rời bàn giấy, về ngủ ở nhà trọ, chàng vẫn bật dậy vào hồi 6 giờ sáng, lúc ấy trong đầu óc tràn đầy hy vọng là cuối cùng sẽ được nghe bản thông cáo chiến thắng ấy. Nhưng từ cái ống phóng thanh màu đen ấy vẫn chỉ đổ ra những lời y như cũ về những gì đang xảy ra "ở vùng lân cận của" Vyazma và Volokolamsk, chàng lạ lùng thấy như có chiếc kìm lớn vươn ra chực kẹp lấy tim chàng, "Nếu Mạc Tư Khoa mà cũng đầu hàng nốt thì sao?" Dĩ nhiên không phải là chàng sẽ chỉ không bao giờ hỏi lớn cái câu hỏi ấy lên (vì như thế nguy hiểm lắm), mà chàng còn thấy sợ hỏi đến câu hỏi ấy ngay trong tâm tư mình nữa, tâm tư chàng lúc nào cũng nghĩ tới câu hỏi ấy trong lúc cố làm việc cho thật vất vả để khỏi nghĩ đến nó.
Tuy thế, câu hỏi ám ảnh ấy cũng chưa phải là câu hỏi chót. Sự đầu hàng của Mạc Tư Khoa vẫn chưa phải là chỗ hết của chiến tranh. Mạc Tư Khoa đã thất thủ vào tay Nã Phá Luân. Chàng lại thấy lo lắng bồn chồn về việc khác nữa: sau đây thì sao? Nếu địch tràn tới tận vùng Ural thì sao? Trung úy Vassily Zotov cảm thấy chỉ nghĩ thôi, chỉ cho phép mình nghĩ thoáng đến ý nghĩ như vậy trong đầu thôi, cũng đã là có tội rồi. Nghĩ như vậy là bất kính, là báng bố, là xúc phạm đến đấng Cha và Tôn sư hằng hữu ở khắp nơi, người thầy trước hết thấy mọi việc, và người bao giờ cũng có ngay mọi biện pháp cần thiết để đẩy lui sự tai biến hoạn nạn.
Nhưng các viên chức hỏa xa từ Mạc Tư Khoa tới, và những ai từng ở Mạc Tư Khoa hồi giữa tháng Mười đều kể lại những điều khó lòng tin được về tình cảnh mạnh ai nấy chạy của ngành quản trị kỹ nghệ, sự cướp bóc các ngân hàng, các cửa tiệm và cực hình âm thầm ray rứt trong tim Trung úy Zotov.
Cách đây chưa lâu, khi trên đường tới đây Zotov có dừng lại đôi ngày ở trại huấn luyện các sĩ quan trừ bị. Một chiều, họ đưa tới đây một tay ngâm thơ tài tử, và trong chiều hôm ấy một Trung úy gầy gò, mặt xanh xao, tóc rối bù đã đứng ra ngâm ít câu thơ của anh ta, những câu thơ trước đấy chưa hề được ai duyệt lại và chấp thuận trước. Hồi ấy, Zotov chẳng bao giờ nghĩ rằng chàng nhớ đến những người ấy, nhưng sau này những nét mặt ấy lại hiện ra ở vài nơi. Còn bây giờ, thì dù đang khi chàng bước đi ở Krechetovka hay trên xe lửa đang chạy về nha Chuyển vận quân đội Trung ương, hay đang lúc chàng lái xe tới một ngôi làng Xô Viết là nơi chàng được trao cho trách nhiệm huấn luyện bọn con nít và các cựu chiến binh, Zotov lúc nào cũng lẩm nhẩm lại những câu thơ chàng tưởng do chính chàng đặt ra:
Quê hương ta ngút lửa, thị thành ta ngập khói, Tim ta một ám ảnh – cực hình, cực hình – Ôi đến bao giờ mới hết cảnh nghẹt thở này. Giặc vẫn tiến tới, chẳng chùn bước?
Và:
Nếu những gì Lenin từng xây dựng được quanh ta sụp đổ cả, cuộc sống sẽ khởi đầu ở đâu?
Khi chiến tranh bùng nổ, chính Zotov cũng chẳng quan tâm gì đến phần còn lại trong một bài thơ. Nếu cuộc sống vô nghĩa của chàng chẳng có ý nghĩa gì cả, thì nó lại có thể sẽ là hữu ích cho cách mạng. Nhưng mặc dầu với những lời cầu xin được ra tiền tuyến của chàng, chàng vẫn bị dính liền vào với cơ quan chuyển vận thiết lộ này.
Tìm cách sống cho riêng mình, quả thật chẳng có ý vị gì cả. Ngay cả đến trường hợp chàng cần phải sống cho vợ chàng, cho đứa con sẽ ra đời của chàng, cũng chẳng có gỉ đáng gọi là tuyệt đối cần thiết cả. Còn nếu như quân Đức từ các ngả tràn đến Hồ Baikal, và nếu Zotov vì sự huyền nhiệm nào đấy mà còn sống sót, thì chàng sẽ vượt đường bộ mà tới tận Kyakhta, rồi từ đấy vượt biên giới trốn sang Hoa lục, hay sang Ấn Độ, hay vượt đại dương nhưng là phải nhằm mục đích duy nhất là tìm đến một đơn vị chiến đấu nào đấy rồi trở về đất Nga, trở về Âu châu với vũ khí trong tay mới được.
Bây giờ thì chàng đứng trong bóng tối, mưa vẫn đỗ, gió vẫn rì rào xô đẩy ở bên ngoài khung cửa sổ, chàng ngâm đi ngâm lại mãi bài thơ.
Bóng đêm trong phòng đã dầy đặc, cánh cửa rực đỏ màu nâu hạt dẻ của lò lửa trông càng rõ hơn nữa, và tia sáng đèn vàng vọt lọt qua khung kính ngang phía trên khung cửa ra vào mà sang phòng bên cạnh, trong căn phòng ấy nhân viên giữ việc gửi hàng hóa nhà binh bằng đường hỏa xa cũng đã bật đèn cho sáng.
Nhân viên gửi hàng quân đội, tên là Valentia (Valia) Podshebyakina thật ra không trực tiếp phụ thuộc vào viên phụ tá sĩ quan chuyển vận nhà binh thực thụ, nhưng nàng không thể thực hiện các công việc của mình mà lại không phải qua tay ông sĩ quan ấy, bởi vì hoặc là nàng không biết tính chất của hàng gửi đi, hoặc không biết là gửi tới đâu, nàng chỉ biết có những con số các toa tầu chở các hàng ấy. Các con số ấy do bà Aunt Frosya chuyển đến cho nàng, bà là một bà già có công việc là ghi lại các kiện hàng. Có người vừa đi vào phòng bà, gió hút mạnh vào chân bà.
Bà thốt tiếng than:
"Hừ, trời mưa, rõ thật sũng những nước là nước! Mưa ác dữ, lắm nước quá! Mưa này còn lâu!"
Valia Podshebyakina bảo:
"Này bà, mưa thì mưa chứ các số toa chuyển tầu Bẩy Sáu Mười Lăm vẫn phải ghi đầy đủ cả đấy!"
"Được rồi, chị ghi mà. Cho chị cái đèn để xem cho rõ số nào em!"
Cánh cửa ra vào giữa hai căn phòng mỏng manh lắm, lại thêm cánh cửa không khép kín, cho nên Zotov có thể nghe rõ mồn một hai người nói chuyện với nhau.
Bà Aunt Frosya bảo:
"May quá, chị có mang theo ít hòn than, bây giờ thì không sợ gì cả nữa, chị sẽ giữ cho các mầm khoai sống được. Em có biết mụ Dasha Malentyeva không – mụ ấy cũng còn chưa bới khoai của mụ ấy đấy. Bây giờ mụ mới lặn lội trong bùn để bới khoai!"
"Rồi chị thấy, thế nào sương giá cũng xuống sớm mà xem. Trời càng ngày càng lạnh hơn mãi".
"Năm nay trời lạnh sớm. Lạnh sớm như vậy là cần lắm cho ta đấy – thứ chiến tranh này, và một mùa đông lạnh sớm mở đầu… Còn em, em bới được bao nhiêu khoai?"
Zotov thở dài và với tay buông tầm sáo che ánh sáng trên cửa sổ xuống, chàng thật nhẹ tay, thận trọng đẩy tầm sáo cho sát vào cánh cửa, không gây tiếng động nào.
Đấy là một điều chàng không hiểu được – nó làm chàng buồn lòng, có khi còn làm cho chàng cảm thấy cô độc nữa. Tất cả những con người bận rộn chung quanh chàng xem ra có vẻ nghe các bản thông cáo với một nỗi buồn thê thiết đúng y như chàng rồi lắng lặng rời xa các ống loa khuyếch thanh trong lòng cũng trĩu nặng nỗi niềm đau đớn như chàng, không nói ra được. Nhưng Zotov nhận thấy có điều khác lạ là: những người ở chung quanh chàng đây, dường như nhờ ở một điều gì đó mà sống được, chứ không phải sống vì những tin tức từ mặt trận gửi về, họ bới khoai, vắt sữa bò, xả gỗ, sơn cửa… Và họ nói chuyện với nhau về những công việc ấy dường như còn hệ trọng đối với họ nhiều hơn là các tin tức từ mặt trận gửi về.
Đúng là con mụ già ngu ngốc! Thì ra mụ giấu giếm được vài hòn than, cho nên bây giờ chẳng sợ gì cả nữa. Chắc mụ cũng chẳng thèm sợ cả những xe tăng của tướng Đức Guderian?
Gió vật vã cái cây ở cạnh nhà kho rập cánh cửa sổ đằng trước nghe rầm rầm chói tai.
Zotov hạ hết tầm sáo che ánh sáng xuống, rồi vặn đèn. Căn phòng sạch sẽ không rộng không hẹp trở nên dễ chịu thoải mái, có vẻ yên ổn, và tâm tư của chàng trở lại vui tươi.
Ngay dưới ngọn đèn, là bàn giấy của viên sĩ quan, đằng sau cái bàn là lò than, kệ đựng giấy tờ: gần cửa sổ là một trong những chiếc ghế tràng kỷ kiểu cổ bằng gỗ sồi, có lưng tựa khắc sơ sài hình ảnh một đường hỏa xa. Cũng có đêm Zotov ngủ trên chiếc ghế trường kỷ ấy, dù rằng chàng lúc nào cũng rất bận rộn. Trong phòng còn có thêm hai chiếc ghế đẩu. Giữa hai khung cửa sổ là bức chân dung Kaganovich vẽ mẫu, Kaganovich mặc bộ đồng phục công nhân hỏa xa. Một tấm bản đồ thiết lộ cũng thường treo ở đấy, nhưng ông đại úy sĩ quan trưởng về vận chuyển quân sự của nhà ga đã ra lệnh bỏ tấm bản đồ ấy đi rồi vì lẽ: tất cả mọi thứ người vào trong phòng này, và nếu trong số ấy lại có kẻ thù trà trộn vào, thì khi nhìn tấm bản đồ ấy tất kẻ thù biết được ngay đường xe lửa này chạy về đâu, đường kia đi chỗ nào.
Trong căn phòng bên cạnh, tiếng mụ Aunt Frosya khoe khoang phách lác:
"Chị phải tích trữ mới có đấy. Chị phải mậu dịch năm chiếc chả khoai mới đổi được đôi bít tất (vớ) lụa ấy đấy. Từ giờ cho đến lúc hết chiến tranh, có lẽ sẽ không còn có bít tất nữa đâu. Này em, em phải mau lên mới được, đừng để phí thì giờ. Em hãy về xin má làm cho mấy cái chả khoai đi rồi mau mau chạy ra chỗ mấy toa tầu chở súc vật ấy, ở mấy cái toa ấy người ta ngồi thiếu gì. Họ sẽ vồ mấy cái chả của em ngay. Ngày nọ, mụ Grunda kiếm được một áo ngủ đàn bà lạ lùng lắm, chiếc áo có những chỗ hở ở các "nơi ấy", cứ trông thấy cũng đủ buồn cười vỡ bụng ra rồi! Con mụ đem về nhà mặc thử, thôi thì chẳng còn thiếu mụ nào trong lối xóm lại chẳng đổ xô đến xem, rồi cả bọn cười lăn cười bò ra… Em cũng có thể kiếm được xà phòng của họ rẻ hơn các nơi khác nhiều lắm, em phải nhớ rằng mấy ngày nay khan hiếm xà phòng lắm đấy. Mua ngoài không có đâu. Em phải bảo má em ngay mới được. Đừng có để lỡ mất cơ hội quý báu này nhé".
"Chị Aunt Frosya, em không biết! Em không biết…"
"Cái gì, bộ cô không thèm bít tất đấy chứ?"
"Em thèm lắm chứ, thèm ghê lắm, nhưng em thấy kiếm chác ở những người di cư tỵ nạn như vậy, có điều không phải, không tốt…"
"Bọn họ là dân di cư tỵ nạn hả? Họ đúng là những người ngay thẳng có những thứ đó. Họ mang theo nào là áo dài, áo ngắn, áo bộ, nào là xà phòng, trông họ chẳng khác nào như họ dự hội chợ triển lãm ấy. Cô sẽ thấy bọn họ có vài người mặt mày phì nộn béo tốt. Có người lại chỉ ưa thịt gà rán, không có gà rán là họ không chịu đổi chác gì cả! Người ta còn bảo chị rằng đám người ấy có người tiền nhiều vô số kể, cuộn lại thành từng cuộn nhét đầy trong các va li, các rương ấy, như thể bọn họ cướp được tiền của nhà băng ấy! Nhưng mình cần gì tiền, tiền ấy họ cứ việc giữ lấy".
"Thì mình cho họ ở trọ…"
"Bọn họ không phải là ai cũng giống nhau đâu. Họ chẳng mang theo thứ gì trên lưng cả, họ bị tan cơ nghiệp. Họ là người ở Kiew, lúc ra đi họ như thế nào, thì họ đến đây cũng vẫn đúng y như thế. Chị lấy làm lạ, không hiểu họ làm cách nào mà nhiều tiền như vậy được. Con mụ Paulina làm ở nhà giây thép ấy, mụ cũng có tiền, nhưng mụ sống ra sao thì ai việc gì phải lo lắng đến nào? Chị có hôm mở cửa hầm rượu nhà chị ra cho mẹ của mụ ấy xem, rồi chị bảo: "Đấy, các bà cứ tự tiện sẵn khoai đấy, sẵn dưa bắp cải đấy, cứ việc ăn, tôi không muốn lấy tiền phòng gì cả". Đấy em xem, Valia, chị lúc nào cũng vui vẻ giúp đỡ người nghèo lắm chứ, còn đối người giàu thì chị không thương xót gì cả!"
Trên bàn giấy của Zotov có hai cái máy điện thoại – một cái loại cổ lỗ sĩ, chiếc máy có một cái hộp màu vàng trên hộp có cái tay xách, nhân viên giữ việc gửi hàng quân đội cũng có một cái máy điện thoại dùng cho đường hỏa xa đúng y như vậy: cái máy thứ hai, là máy điện thoại của người báo hiệu có đường dây gắn thẳng vào phòng làm việc của ông quan ba và phòng gác của nhà kho ga xe lửa. Các binh lính gác các nhà kho là lực lượng quân sự duy nhất do cơ quan vận chuyển quân sự sử dụng, đám binh lính ấy cũng là những người có nhiệm vụ đốt lò sưởi ở đây, lau các phòng cho sạch, và canh gác cả khu này. Vì thế, bên cạnh chiếc lò là một chiếc sọt đựng những hòn than thật to để dành.
Chuông điện thoại đường hỏa xa reo vang. Lúc ấy, Zotov đã qua cơn buồn chán. Chàng bước nhanh lại chỗ điện thoại, một tay nhấc ống nghe lên, một tay hất chiếc mũ lên rồi chõ vào ống nói trả lời người ở đầu dây đằng kia. Khi điện thoại từ xa gọi đến, thường bao giờ chàng cũng phải gào to lên, vì đường liên lạc không được tốt, hay bị hư.
Đây là từ ga Bogoyavlenskaya gọi tới để hỏi xem chàng đã nhận được các chỉ thị nào và chưa nhận được những chỉ thị nào. Các chỉ thị này là những huấn thị mật mã thường dành riêng cho mỗi chuyến tầu, do cơ quan chuyển vận quân đội tại nhà ga trên gửi tới cho biết những chuyến tầu nào rẽ tới và sẽ đi về đâu, các chỉ thị mật mã nầy được đánh đi bằng điện tín. Mới chỉ một giờ trước đây thôi, Zotov đã trao một số các chỉ thị như vậy cho cô điện tín viên, và cô ta trao lại cho chàng một số các chỉ thị khác. Chàng vội vã cho lựa chọn các hàng hóa phải được thu góp chung lại để sẽ gửi đi tới nhà nào sẽ nhận các hàng hóa ấy, chỉ thị cho nhân viên chuyển hàng quân đội biết các toa tầu nào phải nối với đoàn tầu, rồi thảo và gửi các chỉ thị mới đi kèm.
Vừa mắc ống nói lại máy điện thoại xong, là Zotov vội vã ngồi xuống ghế, cúi gập mình trên mặt bàn y như người cận thị đọc giấy tờ, chàng bắt đầu cặm cụi viết các chỉ thị.
Cuộc nói chuyện của hai người đàn bà trong căn phòng bên cạnh, làm chàng khó chịu đôi chút. Có tiếng một người đàn ông vào căn phòng, đôi giầy y dậm trên mặt sàn, và có tiếng y buông mạnh chiếc túi da trong đựng các đồ dùng bằng kim khí xuống sàn. Mụ Aunt Frosya hỏi người đàn ông xem có phải tầu thay đổi chuyến đi không. Người đàn ông lẩm bẩm điều gì, rồi tiếng gã ngồi xuống.
(Thật ra, nước trong ống máng bị bể không phun ra mạnh đến nỗi phát lên tiếng rít lớn như khi nó xối vào bức vách, nhưng gió thì thổi càng mạnh thêm và càng rập mạnh vào cánh cửa sổ).
Valia bật hỏi:
"Này ông già, ông nói sao?"
Lão già giọng ồm ồm đáp:
"Trời lạnh thêm nữa".
Mụ Aunt Frosya hỏi lão già:
"Này Nikitich, ông nghe đúng đấy chứ!"
Lão già đáp:
"Nghe đúng chứ, đúng như tiếng nện chít chát trong tai tôi đây này!"
"Thế nhưng lúc ấy ông xét lại các toa ra sao, sau khi ông đánh họ ấy?"
"Không có đánh gì cả".
"Valia, cô không biết ông này rồi. Ông già này từ Krechetovka tới đây đấy, ông ta tên là Nikitich. Tất cả các người làm nghề thợ sửa đều học nghề của ông này cả đấy. Lúc chiến tranh bùng nổ, thì ông ta đã nghỉ làm nghề được cả mười năm rồi. Bây giờ thì ông ta lại mò ra, cô thấy đấy".
Và mụ Aunt Frosya lại lạch cạch va chạm vào thứ gì. Cuộc nói chuyện này lại bắt đầu làm cho Zotov thấy khó chịu trong đầu, chàng đã định đứng dậy đuổi lão già đi, nhưng chàng lại vểnh tai lên mà nghe ba người đang nói chuyện vụ rắc rối ngày hôm qua về chuyến tầu chở người ta mà lại có lính an ninh đi theo vây quanh.
Zotov được nghe một ông bạn đồng nghiệp của chàng kể cho biết vụ này, người bạn cũng là sĩ quan phụ tá chuyển vận như chàng, lúc xảy ra vụ rắc rối thì người bạn chàng đang bận việc. Lúc Zotov đến giúp người bạn công việc thì anh ta kể cho chàng nghe về việc ấy. Người bạn chàng đích thân phải lo vụ ấy, bởi vì ga Krechetovka không có một quân cảnh riêng. Sáng hôm qua cùng một lúc có hai chuyến xe lửa cùng về tới ga. Một chuyến có ba mươi toa chở súc vật, các toa ấy đầy những người từ Shchigry đến Otrozhka với một toán hộ tống chỉ có năm nhân viên sở mật vụ NKVD, năm người này dĩ nhiên là không thể nào canh gác được hết ba mươi toa tầu lèn đầy những người đáng sợ. Chuyến tầu kia thì từ Rtishchev đến, chuyến tầu này chở toàn bột mì. Bột ngọt phần chở trên các toa kín, một phần chất trên các toa trống trải. Đám người bị tập trung thấy chuyến xe lửa chở bột đậu ngay cạnh họ, thế là họ tấn công các toa chở bột trống trải. Họ xông lên các toa tầu, dùng dao díp rạch tung các bao bột mà cướp. Bọn người cởi áo ra làm bao mà đựng bột. Chuyến tầu chở bột chỉ có hai người lính canh, một người đứng ở đầu tầu, thật ra chẳng lớn gì hơn một thằng con nít, y có hô lên mấy lần để cản đám người không cho cướp bột. Nhưng chẳng ai thèm để vào tai những lời hô của chú lính ấy, năm người lính mật vụ NKVD cũng mặc kệ chẳng giúp gì cho người lính tầu chở bột. Thế là chú lính nổ súng. Phát súng duy nhất của gã bắn trúng đầu một người đàn ông, người đàn ông ngã ngay trên toa tầu.
Zotov vẫn lắng tai nghe, nghe nữa. Câu chuyện họ nói với nhau không đúng hẳn. Họ không hiểu. Chàng không thể ngồi yên được, phải sang giảng cho họ nghe mới được. Chàng đẩy cửa và đứng ngay ở ngưỡng cửa, chàng giương cặp mắt kính tròn lên mà nhìn ba người.
Cô Valia thân hình mảnh dẻ lúc ấy đang ngồi tại bàn, phía bên phải chàng trước mặt họ là những tờ giấy kẻ dòng và chia từng phần có những ô vuông tô màu.
Trên chiến tràng kỷ phía dưới cửa sổ, cửa sổ che bằng giấy chắn ánh sáng mầu xanh thẫm, mụ Aunt Frosya ngồi, mụ là người đàn bà trọng tuổi, vóc người to lớn vững chắc có vẻ uy quyền, khuôn mặt như mặt đàn ông, ta thường thấy nơi những người đàn bà Nga giỏi cả việc trong nhà lẫn việc tại sở làm. Chiếc áo tơi mưa bằng vải dầu mầu xám xanh, sũng nước nhăn nhúm của mụ Aunt mặc mỗi khi làm việc lúc trời mưa, treo ở trên vách, mụ ngồi ở chỗ cái áo, đôi giầy cao cổ cũng sũng nước, đầu mụ vẫn đội chiếc mũ rộng vành mầu đen lỗ chỗ rách, mụ đang loay hoay vặn lại tim chiếc đèn dầu hình vuông xách tay.
Trên cánh cửa ra vào, có mảnh giấy mầu hồng in câu khẩu hiệu: "Cẩn thận bệnh chấy rận!" Khẩu hiệu này dán ở khắp nơi tại nhà ga Grechetovka. Mảnh giấy in khẩu hiệu mầu hồng tựa như mầu da người bệnh chấy rận, hay như những mảnh kim loại rách nát cháy đỏ ở các toa tầu sau trận tấn công của máy bay.
Lão già thì ngồi bệt xuống sàn, ngay cạnh chỗ cửa ra vào, vì thế ông sĩ quan không bị vướng lối đi. Lão ngồi tựa lưng vào tường, cách chiếc lò một chút. Bên cạnh lão là chiếc túi da cũ kỹ, trong có các đồ dùng bằng sắt nặng nề, chiếc túi lão quăng một chỗ không làm bít lối đi, bên cạnh chiếc túi đồ dùng, là đôi bàn tay làm việc be bét dầu máy. Lão già từ lúc mới vào ngồi xuống sàn như thế nào, thì cho đến lúc này lão vẫn ngồi yên như vậy, lão chẳng thèm rũ nước trên người mà cũng chẳng cởi bỏ áo khoác ngoài, nước mưa trên người lão chảy từ đôi giầy và chiếc áo tơi mưa xuống đọng thành vũng ở trên sàn. Giữa hai đầu gối nửa gập lại của hai chân gã cũng có một ngọn đèn lù mù y như cây đèn của mụ Aunt Frosya. Lão già khoác áo tơi mưa, bên trong là chiếc áo lót mầu đen, cáu đất bẩn thỉu, quanh bụng lão là chiếc thắt lưng nâu cũng cáu bẩn. Chiếc mũ áo tơi mưa hất ngược lại sau lưng, đầu tóc gã bù xù đội một chiếc mũ phu hỏa xa cũ. Cái lưỡi trai ở chiếc mũ làm cho vùng mắt lão tối lại, và ánh đèn tù mù chỉ đủ xoi rõ chiếc mũi đỏ to tướng và cặp môi dầy. Lão cắn giữa cặp môi một điếu thuốc lá vấn bằng giấy báo, khói từ trong mồm lão tuôn ra cuồn cuộn. Hàng ria mép lão còn vài sợi mầu đen chen lẫn những sợi mầu xám lởm chởm.
Valia vừa gõ gõ đầu bút chì xuống mặt bàn vừa nói:
"Nếu không bắn thì người lính còn biết làm thế nào khác được? Anh ta lúc ấy đang gác, đang ở chỗ gác của mình mà?"
Lão già gạt một cục tàn thuốc lá đỏ hồng thật to xuống sàn, cà cà vào nắp chiếc đèn, lão đáp:
"Thì đúng thế! Đúng chứ có sai đâu. Mọi người ai cũng muốn được ăn cả mà!"
Cô gái cau mày:
"Lão nói như vậy là thế nào? Ai là mọi người nào?"
Lão già vừa làm hiệu vừa đáp:
"Phải, cả hai đứa chúng ta cũng vậy".
"Này lão, lão nói thế là lẫn lộn cả rồi! Lão không muốn nói là những người ấy đói chứ gì? Họ được nhà nước cấp khẩu phần mà. Lão tất hiểu rõ là nhà nước chở họ đi như vậy không phải là không cấp khẩu phần ăn cho họ!"
Lão già đáp:
"Đúng!"
Lại thêm một cục tàn thuốc đỏ lửa nữa rụng xuống, lần này tàn thuốc rơi xuống đầu gối và quần lão.
Mụ Aunt Frosya kêu lên:
"Ấy kia, cẩn thận không bỏng bây giờ!"
Lão già lặng lẽ nhìn tàn thuốc cháy đỏ tàn đi, áo quần đen bẩn, ẩm ướt của lão, lão thản nhiên không buồn phủi đi, khi tàn thuốc tắt hẳn lão mới khẽ ngửng chiếc đầu vẫn đội chiếc mũ sùm sụp lên, rồi nói:
"Này các bà có bao giờ các bà ăn bột sống quấy với nước lã chưa?"
Mụ Aunt ngạc nhiên:
"Sao lại ăn bột sống? Bột thì phải nhào trộn, rồi nướng lên mà ăn chứ!"
Lão già chép miệng, cái miệng gã với cặp môi dầy nhợt nhạt, lão không trả lời ngay – lời lão nói ra chẳng bao giờ đi thẳng ngay vào điều muốn nói. Những lời lão nói ra như thể tự nhiên nó bay ra, không suy nghĩ:
"Thế là chẳng bao giờ các người hiểu được thế nào là nạn đói rồi, các nàng ơi!"
Trung úy Zotov bước tới, chàng góp lời:
"Này lão, thế lão không hiểu lời thề trung thành là cái gì hả?"
Giọng nói của Zotov đặc giọng người miền Volga.
Lão già nhìn Trung úy vẻ thật ngạc nhiên. Lão già vóc dáng không lấy gì làm to lớn lắm, nhưng đôi giầy của lão thì thật đồ sộ, nặng nề, sũng nước, trây chát khắp nơi bẩn thỉu vì đất sét dính ở đế giầy.
Lão lầm bầm:
"Biết chớ! Chính lão cũng đã năm lần thề trung thành rồi đấy!"
"Thề với ai? Với hoàng đế Nick hả?"
Lão già lắc đầu:
"Xa hơn nữa".
"Hả? Có lẽ nào lại thề với hoàng đế Alexander Đệ Tam được chắc?"
Lão già chép chép miệng một cách chán chường, rồi tiếp tục hút thuốc.
Lão nói:
"Đúng đấy! Nhưng bây giờ thì thề với nhân dân. Có thấy chỗ khác biệt ấy không?"
Tàn thuốc lại rớt xuống đầu gối lão.
Valia hất mái tóc xòa trước trán ra đằng sau, nóng nẩy:
"Thế bột mì ấy là của ai? Chẳng phải là bột của nhân dân là gì? Lão cho là bột ấy chở đến cho ai – chắc chắn không phải là bọn Đức?"
Lão vẫn cái giọng bâng quơ như chẳng bao giờ có ý tranh biện:
"Đúng! Còn cái bọn người ấy cũng lại không phải là người Đức, cũng chẳng phải là dân ta nữa".
Lão hút hết điếu thuốc vấn bằng giấy báo, lão vê vê rồi dụi mẫu thuốc vào nắp chiếc đèn.
Zotov giọng khó chịu:
"Lão này điên rồi! Lão cho luật pháp với trật tự là thế nào? Nếu ai thích gì cứ việc làm nấy, thì liệu sẽ xảy ra sao đây, giả thử tôi thích gì cứ việc đoạt thứ ấy, lão thích gì cứ việc lấy, thì liệu làm thế nào để ta thắng trận được đây?"
Valia góp lời, giọng giận dữ:
"Tại sao đám người ấy lại cướp bóc rạch tung các bao bột như vậy chứ? Có ai lại làm như vậy bao giờ không? Đám người ấy mà là đồng bào của ta được sao?"
Lão già lấy tay quệt mũi, rồi đáp:
"Tôi cho là bọn cướp bóc rạch tung các bao bột, là vì họ đói quá".
Mụ Aunt Frosya quát lên giọng phẫn nộ:
"Đói mà phí của như vậy à? Làm cho bột đổ cả xuống đường rầy như vậy được hả? Bọn chúng nó xé tan các bao bột rồi làm phí mất cả, này đồng chí Trung úy, tôi không hiểu số bột ấy đem nuôi ăn thì được bao nhiêu người nhỉ!"
Lão già nói:
"Phải, ta đánh cuộc với các người là số bột còn lại trên các toa tầu trống trải ấy, thế nào cũng bị hư hỏng nốt cho mà xem!"
Zotov có vẻ giận mình là tại sao lại đi góp lời vào cái câu chuyện chẳng ra đâu vào với đâu, với những lý sự sơ đẳng này, chàng bảo:
"Ôi dào! Có nói với lão già này cũng bằng thừa! Thôi im đi, đừng có ồn ào quá như vậy, tôi không làm việc được!"
Mụ Aunt Frosya đã sửa xong tim đèn, châm lửa. Mụ đứng dậy, giơ tay nhấc chiếc áo tơi mưa cứng nhắc, nhăn nhúm. Mụ bảo:
"Này Valia cưng ơi, cho chị mượn cái bút chì chút nào. Bây giờ chị chắc là chị ghi đến toa số Bẩy Sáu Năm đây".
Zotov quay về phòng riêng.
Vụ rắc rối ngày hôm qua, có thể sẽ có nhiều hậu quả tai hại. Khi đám người ấy thấy có người của bọn họ bị bắn ngã, thì họ liền bỏ cả bột, gào thét giận dữ đổ xô đến anh lính gác. Họ cướp súng của anh lính, anh ta chẳng chống cự lại, rồi họ xúm vào đánh đập anh ta. Nếu không có người trưởng đoàn hộ tống chạy đến giữ lấy anh lính, rồi dẫn anh ta đi, thì có lẽ đám người đến xé xác anh ta ra mất.
Khi có chuyến tầu vào sân ga để chở đám người ấy đi, thì các chức quyền quân sự địa phương vội vội vàng vàng tống khứ đám người ấy đi cho thật sớm. Đêm hôm qua, một chuyến tầu như vậy nữa – chuyến 245.413 từ Pavelets đi Archeda. Lúc vào ga Krechetovka thì lúc ấy Zotov đang làm việc, chàng nhận chuyến tầu rồi lại gấp rút cho chuyến tầu lên đường ngay. Chuyến tầu chỉ ngừng lại ở ga có hai mươi phút, đám người bị tập hợp lúc ấy ngủ gà ngủ gật, không một ai ra khỏi các toa tầu. Có nhiều người trong đám những người bị tập trung và bị đưa đi có hộ tống ấy, tỏ vẻ lo sợ hãi hùng lắm. Họ không phải là một đơn vị quân đội, họ không có vũ khí nhưng chính họ tự cho mình hôm qua là nhà binh, bởi vì họ là những người giống y như những người hồi tháng Bẩy nắm giữ những vị trí trước Bobruisk, hay hồi tháng Tám trước Kiew, hay hồi tháng Chín trước Orel.
Zotov cảm thấy sợ sệt các người ấy, sự sợ sệt ấy có lẽ cũng giống như sự sợ hãi của người lính trẻ lúc anh ta vội trao súng cho đám đông chứ không dám bắn đến phát đạn thứ hai. Zotov thấy xấu hổ về chức vụ sĩ quan hậu cần như thể này của mình. Chàng thèm ước được như họ, chàng sẽ sung sướng nếu được góp phần vào những tội lỗi như họ, nó khiến cho chàng cảm thấy mình đang được chiến đấu, đang xông pha ở chiến tuyến đang vượt sông dưới hỏa lực từ đằng sau bắn tới.
Các bạn học của chàng, các bằng hữu của chàng, tất cả lúc này đang ở mặt trận.
Và chàng một mình ở nơi này.
Được sống như vậy, tất chàng thi hành các công việc mới thật là nồng nhiệt hơn nữa. Chàng cảm thấy các công việc ấy vượt xa ra ngoài các công việc của nhà ga đặt dưới sự kiểm soát, các công việc ấy làm cho chàng thấy lúc nào cũng được thoải mái ở trong lòng. Chàng sẽ làm việc nhiều hơn nữa, chàng sẽ tỏ ra càng quán xuyến, càng có khả năng hơn nữa, đến mức độ chót, trong mùa thu khủng hoảng này, với ngày kỷ niệm Cách mạng năm thứ hai mươi bốn sắp tới. Ngày mồng 7 tháng Mười một là ngày nghỉ yêu thích nhất của chàng, một ngày mừng vui hoan lạc mặc dầu đang giữa một mùa âm u buồn tẻ, nhưng năm nay tâm tư nghĩ về ngày kỷ niệm Cách mạng ấy lại đang ray rứt tâm hồn chàng.
Ngoài những công việc thường lệ, chàng còn dành ra một tuần lễ để làm các công việc khác ngay trong lúc chàng đang thi hành công việc thường nhật. Trong một cuộc không tập, các máy bay Đức đánh trúng một chuyến tầu hỏa chở các đồ tiếp liệu của quân đội, trong đó một số là thực phẩm. Nếu cuộc không tập ấy hủy diệt trọn chuyến tầu, thì mọi việc đã xong xuôi rồi. Nhưng có điều may mắn, là phần lớn các hàng hóa trên chuyến tầu ấy không bị thiệt hại. Và vì thế mà bây giờ Zotov mới được lệnh lập bốn bản đầy đủ danh sách của:
(1) các thứ hoàn toàn hỏng không dùng được (những thứ ấy phải ghi vào các danh sách để gửi về sở quân cụ để được đổi thứ khác);
(2) các hàng hóa bị hư hại từ bốn mươi đến tám mươi phần trăm (các thứ này sẽ được quyết định sau là sẽ dùng vào các trường hợp như thế nào);
(3) các hàng hóa bị hư hại từ mười đến bốn mươi phần trăm (các thứ này sẽ phải gửi về nơi cấp phát, kèm theo giải thích đầy đủ, hoặc nhân đấy có thể được đổi thứ mới);
(4) và cuối cùng là các hàng hóa hoàn toàn không bị hư hại, còn nguyên vẹn.
Điều làm cho công việc gặp phải khó khăn, phức tạp, là tất cả các thứ hàng hóa của chuyến tầu bị ném bom đều chất trong các nhà kho, các hàng ấy không được cất giữ đúng phép, lại thêm đủ thứ người lạ mặt lởn vởn quanh nhà ga, bọn người ấy có vẻ muốn ăn trộm ăn cắp các hàng hóa. Khó khăn hơn cả, là việc xem xét rồi giám định xem tỷ lệ phần trăm bị hư hại của các hàng hóa là bao nhiêu, đòi hỏi phải đợi các chuyên viên từ Michurinsk và Voronez tới mới làm nổi, khiến sinh ra một khó khăn vô cùng khác nữa là vấn đề xê dịch các thùng hàng hóa ấy trong các nhà kho, giữa khi ấy thì lại quá thiếu phu khuân vác, chuyển vận.
Ném bom các chuyến tấu chở hàng hóa thì phi công tồi tệ đến đâu cũng làm được, nhưng đây chỉ mới ở giai đoạn mò mẫn thôi!
Nhưng một khi Zotov vì cái tính tự mình thích muốn mọi việc phải thật rõ ràng, và chàng thực hiện mỗi việc thật tỉ mỉ thận trọng, thì chàng cũng tự tay lập được rất nhiều danh sách các thứ hàng hóa rồi. Chàng nghĩ rằng trong hôm nay chàng sẽ lập được một ít danh sách nữa, và hi vọng trong vòng một tuần lễ nữa thì làm xong xuôi được hết.
Công việc ấy là công việc hàng ngày của chàng, ngoài công việc ấy chàng còn để mắt đến công việc khác nữa. Ở đây Zotov là một người ăn học cao, có khiếu tổ chức, chàng làm công việc của người đứng mũi chịu sào, cho nên cần phải có kinh nghiệm nhiều. Hiện giờ chàng có thể nhìn thấy thật rõ ràng các thiếu sót, khiếm khuyết trong kế hoạch động viên hiện hữu của Xô Viết khi chiến tranh bùng nổ, chàng cũng nhận thấy các khuyết điểm, các bất toàn trong vấn đề kiểm soát sự vận chuyển các loại chiến cụ, công tác này sẽ phải giao phó cho cơ quan Vận chuyến Hỏa xa Lục quân đảm nhiệm. Đấy chẳng phải là công việc trực tiếp của chàng là gì, công việc của chàng là ghi chép tất cả, cân nhắc ước lượng tất cả, rồi lập bản tường trình gửi về bộ Quốc phòng. Giả thử các cố gắng của chàng không thể thực hiện được trong trận chiến tranh này, thì các khả năng ấy cũng sẽ thể hiện hoàn toàn trong trận chiến tranh sau.
Và đây là công việc Zotov thấy cần phải có thì giờ và nghị lực nhưng nếu chàng đem ý tưởng ấy của mình mà thổ lộ cho cấp trên của chàng hay cho cơ quan chỉ huy giao lộ hỏa xa nghe, thì thể nào họ cũng cười vào mũi chàng ngay. Nhưng vì cái thái độ ấy, chàng thấy họ là những con người không mấy phong phú về trí tưởng tượng.
Vì vậy chàng thấy tốt hơn hết là gấp rút làm việc, cuối cùng là với những chỉ thị đính kèm như vậy! Zotov xoa xoa hai bàn tay, các ngón tay xủn xoẳn của chàng kỳ kỳ vào lòng bàn tay, rồi chàng cầm cây viết chì (loại viết chì không thể tẩy xóa được mực) di di trên các con số để xem lại, biên xuống những con số dài dằng dặc, thỉnh thoảng lại ghi riêng con số các chuyến tầu, hàng hóa và các toa tầu lên nhiều tờ lật ngược trở lại. Công việc làm này không thể được phép lỗi lầm dù là lỗi lầm nhỏ bé nhất chẳng khác nào như bộ phận nhằm đích của một cây súng. Trong lúc cặm cụi làm việc, tinh thần tập trung cả vào những con số, hai hàng lông mày chàng cau lại môi dưới trễ ra.
Đúng lúc ấy, Valia Podshebyakina gõ cửa phòng.
"Trung úy Vassily, em vào được không?"
Và không đợi chàng cho phép, cô đã đẩy cửa bước vào. Cô cũng cầm trên tay một bản danh sách.
Đại cương mà nói, thì cô không nên vào trong buồng này; các việc cô cần hỏi Trung úy chỉ cần đứng ở cửa mà hỏi cũng đủ rồi, hoặc cứ đứng ở ngay cửa phòng cô mà hỏi cũng được. Tuy nhiên có điều: giờ làm việc của Zotov và Valia lại thường thường trùng nhau và chàng cảm thấy nếu cấm nàng vào phòng làm việc của chàng thì là một điều khiếm nhã, không khôn khéo.
Chàng ngừng lại ở con số ấy, lấy mảnh giấy chặn vào cột đang làm dở để cho nhớ.
"Trung úy Vassily, em làm rộn ông phải không! Xin phiền ông…"
Chiếc ghế phụ không tiện tầm tay, vì thế cô Valia phải nghiêng người trên cạnh bàn để chỉ cho Zotov thấy một trang chính thức trên có những dòng số tẩy xóa, gian lận.
Cô nói:
"Trong chuyến tầu Bốn Bốn Sáu có một toa mang số Năm Mươi Bẩy Tám Mươi Ba. Em phải ghi vào chỗ nào?"
"Cô đợi tôi tí, tôi tìm cho".
Zotov kéo một ngăn kéo, mau lẹ dò tìm con số cần tìm trong ba hàng cột hồ sơ, rồi mở nhanh hồ sơ (vì thế cô Valia không nhìn thấy kịp), chàng tìm ngay thấy con số.
"Đây rồi, Năm Mươi Bẩy Tám Ba Một, đi Pachelma".
"Em thấy rồi…"
Valia vừa nói vừa ghi xuống chữ "pac".
Xong việc, cô chưa đi ra, cứ tiếp tục nghiêng người trên bàn giấy của Zotov, cô vẫn chăm chú nhìn lên tờ giấy, môi cô mút mút đầu cục tẩy ở bút chì.
Zotov mắng:
"Cô xem chữ "c" này xem, viết như thế thì không thể nào bảo là chữ "v" được. Viết như thế thì các toa tầu sẽ bị gửi đi Pavelets mất!"
Valia đáp, giọng vẫn tự nhiên:
"Dạ, đúng! Vassily đừng rầy em nhé!"
Rồi qua mái tóc nâu buông xõa, cô liếc nhanh nhìn Trung úy. Rồi cô lấy bút khoanh tròn chữ "c" lại.
Cô tiếp:
"Bây giờ đến chỗ khác".
Giọng cô nũng nịu, cô lại đưa bút lên môi. Mái tóc cô thật dầy, vàng hoe uốn cong vươn xa khỏi trán, che khuất cặp mắt cô. Nhưng cô vẫn để mặc cho tóc xõa như vậy chứ không vén ra một bên. Mái tóc cô có vẻ óng ả, sạch sẽ và mềm mại lắm… Zotov tưởng tượng nếu vuốt ve mái tóc ấy chắc thú vị biết là bao!
"Đây rồi, toa tầu không mui này, toa số Một Không Năm Trăm Mười".
"Một toa tầu nhỏ hả?"
"Không, toa lớn".
"Tôi nghi quá".
"Tại sao vậy?"
"Có lẽ có thêm một số nữa".
Cô hất mái tóc ra đằng sau, cặp mày trên mắt cô cũng đẹp như mái tóc cô, cô nói:
"Mình phải làm sao bây giờ?"
"Sao, dĩ nhiên là phải tìm xem chứ! Cô Valia, cô phải thận trọng thêm tí nữa mới được. Có phải là toa ấy cùng trong một chuyến tầu không?"
"Đúng".
Zotov lại lật hồ sơ, tra cột các con số, trong khi ấy cô Valia nhìn Trung úy, chàng có hai tai vểnh trông thật buồn cười, mũi thì có hình như một củ khoai, còn mắt thì qua cặp kính cô có thể thấy rõ hai con mắt chàng mầu xanh lợt với một cái chấm nhỏ mầu xám. Trong những lúc làm việc như thế này, chàng hay cáu kỉnh, bí mật.
Zotov cáu kỉnh:
"A, xem này! Cô thế này thì có gọi là đem mà bắn bỏ: Không phải là Không Năm, mà là Không Không Năm, hả, cô!..."
"Hai số không?"
Valia đáp có vẻ ngạc nhiên, cô ghi thêm một số không nữa.
"Có phải cô đã học hết bực trung học rồi không? Quả thật tự cô nhục mạ cả sự học của cô rồi!"
"Vassily, em không thấy trung học ăn nhằm gì vào với công việc này cả. Còn toa tầu này đi đâu đấy?"
"Đi Kirsanow".
Valia vừa ghi vừa nói:
"Rồi, em hiểu!"
Nhưng cô vẫn chưa đi. Cô vẫn cứ nghiêng người như vậy trên cạnh bàn giấy của Zotov ngay bên cạnh chàng. Cô đang suy nghĩ lung lắm, cô gãi gãi chỗ thớ gỗ xước ra ở cạnh bàn, cô vân vê mảnh gỗ rồi lại ráp mảnh gỗ vào chỗ cũ.
Ánh mắt nhìn của Zotov không thoát được cặp vú nhỏ nhắn trẻ trung của nàng Valia, bây giờ thì hình dáng đôi nhũ hoa ấy nhìn thấy rất rõ ràng vì cô cúi nửa người về phía trước, thường thường thì cặp nhũ hoa ấy bị nén chặt dưới bộ quần áo hỏa xa vải thô kệch.
Cô bảo:
"Buổi gác đêm của chúng mình cũng sắp hết rồi".
Cô nói, cặp môi trễ xuống. Cặp môi cô rất mọng, hồng, đầy vẻ trẻ trung.
"Nhưng, trước khi hết phiên gác, cũng còn có việc phải làm".
Zotov ngừng nói, chàng cau mày ngắm nghía cô gái.
"Rồi thì cô về với bà già chủ nhà trọ ấy của cô chứ?"
"Vâng, chứ còn về đâu nữa?"
"Thế cô chẳng bao giờ đi thăm người nào khác à?"
"Lúc này em thấy không phải là lúc đi xã giao!"
"Nhưng cô làm sao mà sống được với mụ đàn bà ấy chứ? Đến một mái lều cỏ cô cũng không có, phải ghép các thùng đồ cũ vào làm giường mà ngủ".
"Tại sao ông biết như vậy?"
"Thì người ta nói, cô hiểu không! Cô Valia, tôi thấy bây giờ không phải lúc để nằm đệm êm, nhất là như trường hợp của tôi. Tôi thấy mình ở đây chứ không ở nơi mặt trận, là một điều xấu hổ quá!"
"Em thì em không thấy như vậy. Ông chẳng đang thi hành nhiệm vụ của ông là gì? Thế thì tại sao lại phải xấu hổ chứ? Dù sao đi nữa, em đánh cuộc rằng thế nào ông cũng vẫn còn đủ thời giờ để có lúc nằm trong hầm hố chiến hào mà. Vả lại, ai biết trước được là liệu ông có còn sống để được thấy hoà bình hay không… Vì thế, em thấy khi ông còn được may mắn, tại sao ông lại không sống cho đúng với nghĩa sống của một con người bình thường nào?"
Zotov nhấc mũ ra, chàng miết miết ngón tay trên trán. Chiếc mũ hơi chật nhưng chàng không làm sao tìm được lấy một cái rộng hơn trong suốt các kho của sở quân trang.
Trên góc tờ giấy ghi các hàng số, cô Valia tẩn mẩn vẽ hình lăng nhăng, nét bút chì thật mềm mại, trông từa tựa như hình một cái móng vuốt.
"Tại sao ông lại thôi không ở trọ nhà Avdeyevs? Em thấy ông ở đấy, khá lắm chứ, phải không ông?"
"Tôi đi khỏi đấy, có thế thôi!"
Zotov sụp mí mắt nhìn xuống, tự nhiên chàng thấy mặt nóng bừng. Valia thì cứ tô đậm mãi cái hình lăng nhăng tựa như cái móng vuốt.
Cả hai im lặng. Valia đưa mắt nhìn cái đầu của Zotov theo chiều nghiêng, đầu Zotov tròn tròn. Nếu không có cặp kính, thì cái đầu ấy là đầu một thằng bé con, tóc chàng không dầy nhưng óng ả, loáng thoáng có vài nơi tóc chàng quăn quăn như hình cái dấu hỏi.
"Ông thì chẳng bao giờ đi xem hát bóng. Ông tất phải mê sách kinh khủng. Ông cho em mượn vài cuốn nhé!"
Zotov ngước mắt nhìn lên, mặt chàng vẫn còn đỏ:
"Ai nói với cô về truyện sách vở?"
"Em đoán là ông có nhiều sách".
"Tôi chẳng có sách gì cả. Sách tôi để cả ở nhà".
"Ông nói thế chẳng qua là vì ông không muốn cho em mượn chứ gì!"
"Không, không phải đâu cô, tôi không có cuốn nào cả mà. Vả lại làm sao tôi có thể đem theo được? Người lính mỗi người chỉ có một cái ba lô, người lính chỉ được phép có như vậy thôi".
"Nếu vậy thì để em cho ông mượn vài cuốn nhé".
"Cô có nhiều sách không?"
"Mời ông qua xem tủ sách".
"Các sách ấy là loại sách nào?"
"A… A…, cuốn The Blast Furnances này, cuốn Prince Serebrenny này, đủ mọi loại khác nữa này".
"Thế còn cô, cô đọc các cuốn ấy chưa?"
"Em có đọc vài cuốn rồi…"
Đột nhiên ngửng đầu, cô nhìn chăm chăm vào hai mắt chàng rồi nói một hơi:
"Vassily, tại sao ông không dọn sang ở cùng với chúng tôi? Phòng của bà Vova bỏ trống mà, ông có thể ở căn phòng ấy được. Trong phòng ấy có lò sưởi, như vậy ấm cúng hơn. Má em sẽ nấu ăn cho ông. Ông đừng nhắc đến cái bà già chủ nhà trọ ấy nữa!"
Hai người vẫn nhìn nhau, mỗi người che giấu nỗi niềm bí ẩn của mình.
Valia thấy Zotov ngập ngừng, chàng có vẻ sắp nhận lời rồi. Tại sao cái anh chàng dáng điệu tức cười này lại không nhận lời như vậy chứ? Anh chàng nhà binh nào cũng thường nói là mình không có vợ chỉ riêng có một mình chàng thì lại bảo là mình có vợ. Các chàng quân nhân nào cũng ở trọ trong các căn nhà thật êm đềm ở trong làng, ở trọ như vậy được sung sướng hơn nhiều, lại được trông nom săn sóc tốt nữa. Cả cha lẫn em nàng Valia đều ở trong quân ngũ và ra trận cả rồi, nên nàng rất cần có một người đàn ông ở trong nhà. Cả hai có thể cùng về nhà, mỗi khi hết buổi gác vào mãi đêm khuya, đường về nhà phải qua những con đường tối tăm, lầy lội (lúc ấy chắc chàng phải dắt tay nàng), đến khi hai người về đến nhà rồi, hai người cùng ăn cơm với nhau, bông đùa với nhau…
Vassily Zotov có vẻ sợ hãi, chàng nhìn cô gái, người mới vừa công khai nêu ý kiến là chàng đến ở trong nhà cô ta. Cô ta chỉ kém chàng khoảng ba tuổi, và nếu như nàng đối xử với chàng có phần kính trọng thì tất không là vì vấn đề tuổi tác của chàng, mà là vì cái lon Trung úy chàng đeo trên áo. Chàng hiểu rằng mọi sự sẽ không chỉ dừng lại ở phạm vi những bữa ăn, và trong một căn phòng riêng, ấm cúng. Chàng sẽ thấy thèm được luồn bàn tay vào những lọn tóc quăn óng ả mềm mại của nàng.
Không thể được!
Chàng kéo trễ cổ áo xuống, góc cổ áo chàng có dấu hiệu mầu đỏ chỉ cấp bực của chàng, dù rằng cổ áo không chật, rồi chàng nhấc lại gọng kính cho ngay ngắn.
"Không, Valia ạ, tôi không đi đâu cả. Và, nói tóm lại. Tôi còn nhiều công việc phải làm, mình nói chuyện như vậy phí thì giờ quá".
Chàng đội mũ lại, chiếc mũ mầu xanh nhạt có lưỡi trai nó làm cho cái gương mặt chàng càng thêm khắc khổ với cái mũi hếch.
Cô gái nheo nheo hàng mi nhìn chàng, giọng nũng nịu:
"Phải rồi, phải rồi, Vassily nhỉ, nói đủ rồi…"
Cô thở dài. Rồi đứng thẳng dậy, cử động khó khăn, không giống như một thiếu nữ, cánh tay cô buông thõng có vẻ mềm nhũn, cô cầm cái bản danh sách dài lượt thượt ấy đi ra khỏi phòng.
Chàng chớp chớp mắt một cách uể oải vẻ bơ vơ, chàng cảm thấy nếu nàng quay trở lại rồi nhắc lại đề nghị của nàng lần nữa thật quyết liệt thì có lẽ chàng sẽ chịu thua nàng mất.
Nhưng nàng không trở lại.
Zotov không có ai để có thể tâm sự được tại sao chàng lại phải sống trong một căn nhà lạnh lẽo, bẩn thỉu với cái mụ già ấy và ba đứa cháu của mụ, lại thêm cái giường của chàng là cái nắp thùng cũ chẳng có chút tiện nghi nào như vậy. Trước đây, hồi năm 1941 giữa những đoàn chàng trai đông vô cùng ấy, chúng đã cười nhiều lần, chê cười chàng vì chàng nói rằng "chàng yêu vợ lắm", rằng chàng có ý đặt niềm tin vào nàng cho đến khi hết chiến tranh, còn nàng thì phải giữ mãi sự trung trinh đối với chàng. Bọn bằng hữu mới mẻ ấy đã cười rú cả lên, đấm thùm thụp vào lưng chàng y như một bọn điên, rồi bọn bằng hữu ấy khuyên chàng là hãy cố hi vọng, đừng bao giờ để mất hi vọng nhé! Từ đấy, chàng không còn nói những điều ấy ra làm gì nữa. Nhưng thỉnh thoảng, vì những giày vò trong tâm can, những buồn rầu ghê gớm chịu không nổi tự nhiên vụt đến, nhất là những lúc nửa đêm chàng chợt thức giấc rồi suy nghĩ lo lắng trong lòng không hiểu vợ mình bây giờ sao, bây giờ nàng ở mãi xa xôi, trong vùng của quân Đức, và nàng đang chờ ngày khai hoa nở nhụy.
Nhưng cũng không phải là vì lý do vợ chàng mà chàng lúc nãy từ chối lời đề nghị của nàng Valia. Vì lý do Paulina nhiều hơn.
Và cũng lại chẳng thực sự vì lý do Paulia nữa, mà là vì…
Paulina, cô gái xứ Kiew có nước da mịn tuyệt vời, mái tóc ngắn, cô là một trong những cô sống với mụ Aunt Frosya và làm việc ở nhà bưu điện. Cứ lúc nào có thì giờ rảnh, là Zotov lại đến nhà bưu điện để đọc báo, đa số các báo thường đến rất trễ, đến bất thường và đến từng chuyến một. Đến đọc như vậy, chàng được đọc sớm hơn, và trong cùng một lúc có thể xem được tất cả các báo thay vì mỗi lần chỉ được đọc một hay hai tờ. Có điều nhà bưu điện, không phải là phòng đọc sách báo, không ai bắt buộc phải để cho chàng đọc báo, nhưng nàng Paulina thì rất thông cảm với chàng, cô đem tất cả các báo ra cho chàng đọc, vì thế chàng có thể đứng vào một góc ghi sê nào đấy có nhiều gió mát mà đọc xấp báo. Đối với Paulina, cũng như đối với Zotov, thì chiến tranh đúng là một guồng máy bánh xe không cảm xúc, không xúc động, một bánh xe đang quay cuồng không thể nào làm lệch đường quay của nó đi được – nó là cả cuộc đời nàng, cả tương lai của nàng, và để tìm cách chen vào tương lai ấy, nàng lẩn tay vào mở các trang báo với cả nỗi bồn chồn nóng nẩy đúng y như chàng, và cũng đúng như chàng tìm đọc, nàng cũng tìm những tin tức hé chút xíu dấu hiệu nào có thể giải thích được cho nàng biết về cuộc chiến đang diễn ra như thế nào. Thường, hai người chung nhau một tờ báo cùng một lúc, chỉ cho nhau thấy những đoạn tin tin tức quan trong. Với cả hai người, báo chí là một cái gì thay thế cho những bức thư chẳng bao giờ nhận được. Paulina chăm chú đọc những thông cáo về các trận đánh ở tiền tuyến, cô băn khoăn không biết chồng mình có ở mặt trận ấy không, và theo lời khuyên của Zotov cô cũng đọc cả những mục nói về chiến lược của bộ binh và thiết giáp trong tờ Sao Đỏ, mỗi lần đọc các bài ấy cặp mày cô lại phải nhíu lại trong cố gắng. Các bài trong tờ Ehrenburg đối với Zotov làm chàng thích lắm, chàng thường đọc to lên cho Paulina nghe. Mỗi khi chàng năn nỉ được Paulina cho chàng mượn những tờ báo không được đọc, chàng thường cắt một vài bài trong tờ báo để làm của riêng của mình.
Bây giờ chàng có liên hệ quá sâu xa với nàng Paulina, với mẹ nàng và con nàng rồi, sự liên hệ ấy nếu là người chưa từng trải qua những khốn khổ bất hạnh ở đời này thì nhất định chẳng bao giờ có được với nhau. Chàng có thể lấy phần đường ăn của chàng đem cho thằng bé con nàng được.
Nhưng trong lúc lật từng trang các tờ báo, không bao giờ Zotov lại dám chạm vào bàn tay trắng muốt của Paulina – cái lý do của không dám đụng chạm ấy không phải là chồng nàng hay vợ chàng, mà chính là vì nỗi niềm u uẩn thiêng liêng nó ràng buộc hai người với nhau.
Paulina trở thành người bạn thân nhất của chàng, là lương tri của chàng, là chứng nhân cho niềm tin của chàng ở Krechetovka này, hay ở bất cứ nơi nào, bất cứ mặt trận nào ở bên này chiến tuyến, như vậy thì làm sao chàng lại có thể đến ở nhà Valia được? Liệu nàng Paulina sẽ nghĩ như thế nào về chàng?
Nhưng giả thử chẳng có Paulina đi nữa, thì chàng cũng chẳng bao giờ lại đi tìm an ủi với một người đàn bà giữa lúc mọi sự thân yêu nhất đối với chàng đang bị nguy cơ có thể bị sụp đổ cả.
Và bằng cách này hay cách nào đi nữa, thì chàng cũng thấy xấu hổ nếu chấp nhận lời đề nghị của Valia, và với các sĩ quan anh em của chàng là những người cùng chung các phiên trực với chàng ở nhà ga, rằng đêm nào chàng cũng đọc, rằng chàng có một cuốn sách – một cuốn sách duy nhất lấy từ một tủ sách nào đấy trong những cuộc hành quân điên cuồng trong năm nay, cuốn sách ấy bây giờ theo chàng đi khắp nơi, nó nằm trong ba lô của chàng.
Nguồn: Aleksandr I. Solzhenitsyn, Bất ngá» tại nhà ga Krechetovka, nguyên bản Nga ngữ, bản Việt ngữ của Lê VÅ© dịch theo bản Anh ngữ The Incident at the Krechetovka Station của Andrew Mc Andrew, bìa Hồ Thà nh Äức trình bà y, Hà nh Trình xuất bản, giấy phép xuất bản số 1953/PTUDV/KBCNT/KSALP ngà y 07-6-1973. In 2000 cuốn tại nhà in Tiến Hoá, số 164 Võ Tánh, Sà i Gòn, phát hà nh ngà y 05-8-1973. Giá bán 460 đồng, luôn bao ni lông. Bản Ä‘iện tá» do talawas thá»±c hiện.
|