Tủ sách talawas Loạt bài: Sách xuất bản tại miá»n Nam trÆ°á»›c 1975
9.1.2006
Nhã Ca
Giải khăn sô cho Huế
Hồi ký (1969) 14 kì
Chương 1
Những giờ đầu tiên
Không biết tiếng súng đầu tiên nổ vào giờ khắc nào? Giữa đêm, tôi đã choàng tỉnh dậy vì tiếng nổ xé toạc cả những giấc mơ vụn.
Vừa kịp lăn xuống khỏi tấm phản gỗ, tai tôi đã ù đi vì những tiếng nổ ran bốn phía. Chuyện gì vậy? Không biết làm thế nào mà tôi lăn tròn từ phòng ngoài vào phòng trong. Bàn tay ai kéo tôi giúi vào giữa phòng. Tôi nằm đè lên da thịt ai non mát. Một tiếng kêu nhỏ tắc nghẽn vào âm thanh hỗn độn của súng đạn bên ngoài. Khi tôi kịp định tỉnh lại tâm thần thì đứa cháu nhỏ đã ngồi lên được, nằm gọn gàng trong lòng tôi. "Còn đứa mô nữa? Vô hết đi. Vô một chỗ.” Tiếng má tôi thì thào. Que diêm tắt phụt nhưng có ánh nến le lói từ phòng ngoài hắt vào. Ðứa em trai tôi trườn theo làn ánh sáng mỏng đó, nó ngồi áp vào bên má tôi. “Làm ơn tắt giùm ngọn nến ngoài bàn thờ đi, tắt luôn cả lư trầm nữa.” Ông anh lớn của tôi vội vã làm theo lời má tôi, rồi nhảy đại rất nhanh vào ngồi dồn cùng một đống. Lúc này tôi mới cảm thấy ngột ngạt đến muốn tắt thở vì hơi người, vì mùi trầm hương và mùi nến khét.
Căn phòng quá chật, lại bị cái giường chiếm mất một nửa. Anh tôi phải lăn xuống gầm giường. Người này nằm gác lên người kia. Cái bô để dưới chân giường, thỉnh thoảng bị va chạm, vang những âm thanh rổn rảng càng khua động thêm nỗi sợ hãi của mọi người.
Nằm im được một lát, hoàn hồn lại, mọi người bắt đầu nghe ngóng. Tôi dán tai xuống nền gạch. Ðứa cháu gái đã lăn xuống nằm cạnh tôi, hai tay nó ôm đầu, hai chân nó lọt vào hai chân tôi. Tôi hỏi nhỏ:
"Tina nằm có chật không?"
"Không, cô ơi. Tina sợ quá."
"Ðừng có khóc.”
Tôi vỗ về đứa cháu. Nhưng cùng lúc đó những tiếng nổ ình ình lại dội thốc lên. Ðứa cháu bỏ tay, ôm chặt lấy tôi, người nó run cầm cập. Trời ơi, súng bắn cả sau vườn mình. Tôi nghe tiếng súng đằng sau vườn thật trong, thật buốt. Thằng em ghé vào tai tôi:
"AK. Thôi, tụi nó về rồi."
Tôi kéo nó:
"Mày nằm xuống đi."
"Không can chi mô chị. Ðể em ngồi."
Cánh cửa sổ bỗng bị bật ra và cứ thế, hai cánh cửa cứ dội mở ra, đóng ập vào theo những tiếng nổ lớn. Tiếng đạn ở sau vườn bắn thật rát. Má tôi thì thầm:
"Ðánh tới đồn vận tải."
"Không, đồn trường bia."
"Không, đánh cùng khắp. Con nghe phía vận tải, phía trường bia, phía ruộng, phía sau đường rầy."
"Suỵt, im đi cho với. Trời ơi. Trời ơi. Trời ơi."
Tiếng trời ơi đất hỡi bỗng nằm ngay trên chót lưỡi. Bầu trời xoẹt lửa sáng trưng, đất rung chuyển như địa chấn. Lên cơn rồi. Tôi cũng không thể nằm yên để nghe tiếng dội tức cả ngực được. Tôi muốn ngồi nhổm dậy để nghe ngóng, nhưng chỗ nằm chật không nhúc nhích được. Ðứa em họ lúc này cũng chen được một chỗ, hai chân nó chuồi dưới giường, đầu nó thò ra khỏi một nửa cửa phòng. Nó lại bật diêm, lại có tiếng la nhỏ: con khỉ, tắt diêm đi. Ngọn diêm tắt phụt. Nhưng trong bóng tối, lúc này tôi tưởng tượng ra được rồi. Tôi đồng điệu run với mạ tôi, anh tôi, em gái tôi. Tôi đồng điệu co quắp, cố đè nén sự run rẩy, cố ưỡn tung lên để tiếng nổ bớt dội ngực. Ðứa em họ tôi nghe ngóng một hồi rồi ngồi dậy, nó bò ra gian nhà ngoài, chúng tôi nín thở chờ đợi. Chỉ một lát sau, nó bò vào nói rỉ tai từng người:
"Nó ở đầy sân vườn nhà mình."
"Suỵt."
Lại nhiều tiếng suỵt lọt ra khỏi cửa miệng như một hơi huýt gió nhỏ.
Anh tôi giọng hơi gay gắt:
"Nó bắn như pháo ở bên ngoài, vài tiếng động nhỏ làm sao nghe được."
Rồi anh tiếp:
"Quái gì, nó về đánh đồn trường bia rồi. Lần trước cũng đánh suốt một đêm, sáng ra là rút hết."
Tôi mừng thầm. Chúng tôi chịu đựng có lẽ đến hai tiếng đồng hồ rồi. Tôi cố đưa cổ tay lên để nhìn mặt chiếc đồng hồ, nhưng rủi cho tôi, tôi mang đồng hồ không có kim dạ quang. Và ngoài tôi ra chẳng có ai kịp thì giờ mang đồng hồ hết. Dù sao chúng tôi cũng hy vọng mong cho trời sáng. Ông anh tôi không biết sao bỗng trở chứng kêu đau bụng bất thình lình. Vậy là chiếc bô lại có dịp được dùng tới. Chúng tôi đau khổ vì lát lát mấy đứa nhỏ đòi đi tiêu, đi tiểu. Lát lát anh tôi lại kêu đau bụng, mà cái bô thì quá nhỏ. Mọi người vừa nằm vừa run, vừa cố giữ cho chân tay khỏi lóng ngóng. Tôi cố nghĩ đến một cái gì để dằn cơn sợ hãi, nhưng không, tôi không nghĩ gì được hết. Ðầu óc tôi vang dội tiếng súng. Tay chân tôi cứ lật bật run rẩy bất chấp cả sự tự chủ vượt bực của tôi. Có nhiều lúc ngay cả chân tay, thân thể mình cũng không nghe lời mình nữa.
Nhưng rồi nhờ sự chịu đựng quen dần, tôi bình tĩnh lại được và cơn run rẩy biến mất. Hình như chúng tôi đã chịu đựng một thời gian khá dài và bình minh sắp đến. Tôi nghe tiếng rục rịch trong chuồng gà ở đàng sau tấm vách tường lọt vào nhờ hai cánh cửa sổ đã bật tung cùng với tiếng súng đạn hỗn loạn. Thái, tên đứa em họ tôi, đã bình tĩnh ngồi dựa vào tường, và phì phà trên môi điếu thuốc lá lúc nào. Tôi lần tay, nắm chặt tay nó:
"Thái, liệu có yên được không?"
"Em làm răng biết được, cái nớ thì chịu..."
Tôi lại hỏi anh tôi, lúc đó đã nằm trên giường vì không chịu nổi sự chen lấn dưới đất:
"Anh, sáng mai chắc yên há anh?”
"Làm răng biết được, anh cũng chịu."
Tôi đâm ra thất vọng ngang. Những ánh lửa xẹt ngang dọc phía ngoài cửa sổ không còn nữa, nhưng hai cánh cửa vẫn còn bị dội bật ra bật vào vì những tiếng nổ lớn. Súng to, súng nhỏ đang nổ ran từ mặt quốc lộ, từ miệt chùa, từ phía sau đường rầy. Căn nhà của chúng tôi nằm đơn lẻ, chịu đựng bốn mặt đang đánh nhau. Quốc lộ và bờ ruộng ở ngay trước mặt, đường rầy xe lửa ở đàng sau lưng. Hai phía hai bên, một xéo với đồn trường bia, một xéo với đồn vận tải An Cựu.
Không thể nằm yên để chờ tới sáng, tôi lại khơi chuyện:
"Sáng ngày yên chắc ra đường dễ sợ lắm!"
Thái phà thuốc trúng ngay vào mặt tôi:
"Buồn quá, lúc này có súng đỡ sợ hơn nhiều. Biết vậy tối qua em lên đơn vị."
"Không biết tới sáng đã yên được chưa?”
Tôi hỏi hoài một câu như người ngớ ngẩn: Biết đâu. Mà yên chứ. Sáng ra mà súng đạn không ngừng thì chết hết.
"Trời ơi, đừng nói, tụi nó trong vườn."
Ðứa em gái của tôi cười nhỏ:
"Má sợ chi mà sợ dữ rứa. Chị Vân, sáng ra chị với em đi thăm trận đánh nghe. Coi chừng về Sài Gòn viết một phóng sự chiến trường đầu năm đầy gay cấn."
"Giỡn chi mà giỡn vô hậu tế đợi rứa. Mấy chuyện đó đừng có ham.”
Má tôi cằn nhằn. Nhưng chúng tôi đã bớt dần cơn sợ hãi, bắt đầu nói chuyện được, mà câu chuyện cũng bớt ngớ ngẩn. Lúc này tiếng súng ở trong vườn đã dịu dần, nhưng xung quanh thì vẫn còn nổ ran. Tôi nằm mà mắt không rời khỏi cánh cửa sổ phía trên đầu đứa em gái. Tôi nằm chờ, cho tới khi bầu trời tối mịt bên ngoài kia bị hút bớt màu đen đặc.
Lúc này tôi cần sự bình tĩnh, cần sức mạnh. Tôi mong cho trời sáng thì trời đã gần sáng rồi. Mấy chiếc lá cây phất phơ bên ngoài cửa sổ đã hiện lờ mờ, rồi rõ dần. Mấy đứa cháu tôi kêu khát nước. Chúng tôi chờ đợi cho tiếng súng bớt ồ ạt, Thái mới đi ra ngoài rót một ly nước cho hai đứa nhỏ. Tiếng súng đã có vẻ thưa hơn, bức màn đêm đã bớt mắc kẹt đạn. Anh tôi hy vọng hơn ai hết:
"Thái, coi yên súng đem xe Honda ra ngoài, anh muốn lên Từ Ðàm. Chắc chị và mấy đứa nhỏ sợ ghê lắm."
Gia đình tôi lúc này đang chia làm hai. Chị dâu tôi và mấy đứa nhỏ còn ở nhà trên đầu dốc Bến Ngự. Nên anh tôi là người lo lắng nhất. Nhưng chắc không sao. Moị người tự an ủi. Ðến sáng là yên, vậy sáng rồi. Môi má tôi đã bớt tím, tay chân bà cũng bớt run rẩy. Nhưng nỗi vui mừng của chúng tôi không được lâu. Ðúng lúc tôi nghe tiếng gà gáy nơi chuồng gà thì tiếng súng đã bắt đầu nổ lại. Rồi có tiếng đấm cửa rầm rầm, cùng nhiều tiếng chân chạy ở ngoài sân:
"Mở cửa, mở cửa."
Thôi chết rồi. Chúng nó đã tới. Chúng nó sắp tràn vào nhà. Má tôi mặt tái xanh, định chạy tới tắt ngọn đèn vừa mới thắp. Tiếng đại bác dưới Phú Bài bắn lên ầm ầm. Tiếng súng nhỏ nổ chát chúa. Cánh cửa muốn bật tung vì những tiếng đập. Thái bò ra giữa nhà.
"Suỵt, để con."
Rồi hắn chạy ra mở toang cửa. Có nhiều tiếng quen thuộc la hét bên ngoài. Cánh cửa vừa mở tung ra, thì cả nhà đầy người. Chú tôi ở phía dưới đường rầy, sát chân núi Tam Thái, cùng gia đình con dâu với những gia đình hàng xóm khác chạy túa vào. Trẻ con người lớn chen chúc chật cả một gian nhà giữa rộng rãi. Mấy đứa nhỏ hoảng sợ quá, ngã vật ra giữa nhà, có đứa vừa run vừa đái ra quần. Chú tôi vừa khóc vừa kể:
"Sập hết rồi chị ơi. Trên đó bị mọt-chê câu, nhà mụ Nghệ bên cạnh đó mất nửa cái nhà."
Bé, đứa con trai lớn của chú tôi ôm một lúc hai đứa con nhỏ, vừa thở vừa nói không ra hơi:
"Tụi nó đông lắm. Trên con đầy nhà rồi bác."
Tôi tò mò:
"Làm sao em chạy xuống được?"
"Dân họ chạy xuống dưới này hết. Trên đó mọt-chê câu sập hết nhà cửa. Chạy giữa đường em thấy Việt cộng tụm năm tụm ba, nó ngồi cả trước sân nhà người ta."
Chú tôi chợt nhìn quanh rồi hốt hoảng:
"Con Hồng đâu rồi, con Hồng bế thằng Ðiện chạy phía nào rồi. Thôi chết con tôi cháu tôi...”
Chú tôi chưa kịp dứt câu thì đã ngã phịch xuống vì một quả B-40 phạt xuống mái ngói. Tôi đang há hốc mồm thì gạch vụn đã đầy một miệng.
Cái bô để dưới chân giường không biết bị ai đá vào tràn ra nhà. Tôi vừa sát người xuống thì đã phát nôn vì một mùi thúi hoắc xông lên tận đầu, nhưng không còn cách cựa quậy gì nữa. Nhiều đứa trẻ không chịu đựng nổi ré khóc vang nhà. Nhưng tiếng khóc bị chận ngay vì những bàn tay đã bịt miệng, hoặc những tràng súng cắt đứt. Trời ơi, đến sáng rồi sao không yên? Tôi quay quắt hỏi đứa em:
"Lần trước có lâu như vầy không?"
"Không, lần trước bắn ít hơn, không có đại bác câu nhiều như thế này. Sáng ra là nó rút đi hết."
Bé bò lại phía tôi:
"Trời, chị không tưởng nổi mô. Em thấy tụi nó máu me cùng mình. Tụi nó ngồi bên vườn thím Quyệt, em chạy xuống đây em thấy."
"Thấy mày chạy họ để yên à?"
"Tụi họ cũng vừa chạy vừa bắn, mình cũng chạy đại. Ở trên đó chắc chết quá chị ơi."
Nó vừa nói vừa ôm chặt đứa con gái trong lòng. Vợ nó khóc thảm thiết:
"Anh coi đi tìm con Hồng với thằng cu Ðiện, không tui chạy ra cho súng bắn cái đùng cho rồi."
Má tôi gắt:
"Chết đến nơi không lo, ai mượn tụi bây không chạy với nhau."
"Làm răng chạy với nhau được, mạnh ai nấy chạy, tưởng còn sống đến chừ mô."
Hai vợ chồng nó nín im, nhưng chỉ một giây sau, tôi lại nghe chúng càu nhàu cãi cọ. Một lát sau tiếng súng lại thưa dần. Bé vội chạy ra sân rồi mò dần ra đường. Chừng hai mươi phút sau nó trở lại, một tay bế thằng con.
"Chị...”
Bé hạ giọng, tiếp:
“Em đi tìm con Hồng với thằng Cu, em phải đi bằng ngả sau vườn. Ngang đường rầy em gặp tụi nó, nó hỏi em đi mô rồi bắt giữ em lại. Chúng nó có ba đứa, một đứa bị thương. Em năn nỉ nói đi tìm con lạc, ban đầu nhất định nó không cho, nó hỏi em làm nghề gì. Em nói thợ mộc, em bị lạc con. Về sau nó cho đi. Em tính nếu nó bắt, em liều chết giựt súng. Một thằng bị thương gần chết, một thằng bị thương nhẹ không cầm súng được, còn thằng kia ốm yếu hơn em..."
Hà, em gái tôi, nạt:
“Thôi, mi đừng có ba hoa, nói phách tấu...”
“Em nói thiệt, người ta quân đội mà...”
Rồi nó sực nhớ lại đồn trại và đồng đội, nó ngồi buồn hiu. Lát sau thở dài:
“Lính tráng mà ngồi một xó như ri có nhục không?”
Những người xóm trên vào nhà tôi bây giờ mới hoàn hồn lại. Người vạch vú cho con bú, người bắt đầu kháo chuyện. Mỗi người kể một chuyện đại để cũng thấy Việt cộng ra sao. Họ kể họ cũng chạy suýt chết, cũng thấy viên đạn nó to và đỏ rực như đâm vào mặt mà không biết sao lại không trúng.
Bỗng nhiên vào lúc 8 giờ sáng, tiếng súng như dồn về miệt Phú Cam. Tiếng đại bác dưới Phú Bài không câu lên nữa. Lúc đó chúng tôi mới lần ra sân. Vườn cây yên tĩnh không một bóng người, nhưng trên cỏ, trên đất, còn lấm tấm những vạt máu khô đặc.
Một vài nhánh cây gãy, nơi bờ tre cuối đường ngả ăn thông ra mặt đường rầy, những cành khô được banh ra, chừa những lối đi gọn. Mấy chị em chúng tôi hết sức sung sướng hít thở, ai cũng mừng thầm như thế này là đã yên. Anh tôi chuẩn bị để lên nhà ở Từ Ðàm. Tôi ra cái bể cạn trước sân múc nước súc miệng, đánh răng. Những người trú ngụ trong nhà tôi vội vã bồng bế nhau trở về xóm. Chú tôi là người chạy băng ra khỏi nhà trước tiên. Ông quá lo lắng không biết nhà cửa còn hay đã mất. Tôi cố nhón gót nhìn lên miệt núi, cũng không thấy được gì. Thái, em tôi, hỏi:
“Chị nhìn chi rứa?”
Tôi thở ra:
“Chắc đêm qua trên núi mồ mả bị chân đạp lung tung, mộ bác mới chôn.”
Mồ mả mới chôn đây là mộ của ba tôi. Từ Sài Gòn, những ngày cuối năm vợ chồng con cái tôi đang chuẩn bị đầu năm về ăn Tết ở Huế thì tin ba tôi hấp hối. Leo lên một chiếc máy bay quân sự chở thực phẩm cho lính ở tiền đồn, tôi về tới vừa kịp những giờ cuối cùng của người cha.
Thái cúi đầu. Nó đi tới bể cạn múc nước. Tiếng má tôi kêu:
“Thái, con đem cái này đổ ra sau vườn.”
Anh Lễ tôi đã mặc quần áo xong. Chiếc Honda đã được dựng sẵn. Tôi nói:
“Cho em lên Từ Ðàm với.”
Anh Lễ bảo:
“Ðể coi sao đã. Thấy không yên rồi, ngoài đường vắng tanh vắng ngắt.”
Nhưng lời anh tôi nói chưa dứt thì có nhiều tiếng động ì ầm của xe chạy vào thành phố ngả quốc lộ. Chúng tôi đứng ở sân nhìn ra. Một đoàn xe cam nhông chở lính Mỹ và những khẩu đại bác đang từ từ đỗ lại ngoài đường nối hàng dài. Lính Mỹ nhảy xuống, Thái bật la to:
“Bác ơi, yên rồi, quân Mỹ đã lên. Mình ra đường, mình coi được rồi.”
Má tôi kêu:
“Vào nhà hết, vào nhà không nó bắn.”
Anh tôi cản:
“Ðứa nào ở đâu cứ ở đó. Ðứng yên đừng có chạy mà nó tưởng Việt cộng chết hết cả giờ.”
Ðoàn lính Mỹ đã xuống xe, tiến vào các khu vườn, nằm bò xuống vệ đường, lủi xuống phía ruộng. Chỉ một phút sau vườn nhà tôi đã đầy lính Mỹ.
Một vài người lính Mỹ nhìn chúng tôi dò chừng rồi lủi ra phía vườn gườm súng chĩa vào các bụi cây trước khi băng qua vườn khác. Không có gì xảy ra hết. Tình hình hoàn toàn yên tĩnh. Chúng tôi đi vào nhà ngồi yên ở tấm ngựa gỗ. Ra đường lúc này nguy hiểm. Ai cũng nghĩ thế. Có lẽ lính Mỹ đang đi lùng Việt cộng đây. Chúng tôi im lặng ngồi nhìn nhau, hồi hộp chờ đợi. Hai người lính Mỹ đi ngang qua sân, hờm súng vào trong nhà. Chúng tôi cố giữ vẻ mặt thật thản nhiên. Má tôi còn có vẻ cố gắng làm ra vui mừng nữa. Hai người lính Mỹ dừng lại, rồi đưa mắt cho nhau, đi vào bậc thềm, hất hàm ra hiệu cho chúng tôi ra đứng ở cửa hết. Một người lính Mỹ nói hai tiếng gì đó không phải tiếng Mỹ.
Chúng tôi ngơ ngác nhìn nhau, người lính Mỹ lộ vẻ tức giận, nạt lớn:
“Kên cượt.”
Anh tôi hỏi một câu tiếng Anh, nhưng người Mỹ vẫn la:
“Kên cượt.”
Má tôi là người hiểu ra đầu tiên, bà nói lớn:
“Ông Mỹ hỏi thẻ căn cước.”
Người lính Mỹ gật đầu. Người đi cùng chỉ súng thẳng vào người chúng tôi. Chúng tôi trình thẻ căn cước. Khi tôi đưa tấm thẻ của cơ quan VOF (Voice of Freedom) thì người lính Mỹ gật đầu và khuyên chúng tôi trong lúc này nên ở yên trong nhà. Trả thẻ lại, một người trọ trẹ nói tiếng Việt cám ơn, rồi đi ra phía vườn. Chúng tôi chưa kịp ngồi xuống tấm ngựa gỗ đã nghe mấy tiếng nổ lớn. Thái quen với súng đạn, kêu lên:
“Thôi, B-40 của Việt cộng rồi.”
Tiếng B-40 từ phía núi, từ phía đường rầy bắn ra như mưa. Phía ngoài đường, những xe thiết giáp mang súng cối 40 ly bắn trả lại kịch liệt. Từng mảnh ngói bị sức ép, hoặc trúng sướt lằn đạn rơi tứ tung lên đầu lên cổ. Cả nhà lại chui vào phòng trong. Cùng lúc đó những tiếng la khác nổi lên như ri ở miệt ngoài đường. Cái gì vậy? Thái muốn chạy ra trước tiên. Má tôi nắm áo giữ riệt nó lại, nhưng Thái cứ van nài mãi. Cuối cùng hắn ló ra cửa, thụt lui thụt tới vì những tiếng súng bắn đi trả lại cứ vèo vèo ngang qua mái nhà. Ầm. Ầm. Vài thân cây lớn ở ngoài vườn đổ xuống. Chúng tôi ai nấy nằm sát xuống đất, buông trôi cho sự may rủi. Lần này chắc chết quá. Cầu nguyện đi. Tiếng la khóc ở vườn bên, ở trước mặt càng lúc càng thảm thiết. Rồi tiếng kêu chết kêu cháy vang lên.
Mấy người lính Mỹ đang núp ở vườn sau vội chạy ra đường phía có tiếng kêu khóc. Lúc này đạn bắn đi cứ như mưa, tiếng B-40 yếu dần rồi tắt luôn. Tiếng kêu khóc đã nghe rõ mồn một. Chúng tôi không ai bảo ai cùng một lượt chạy ra sân. Căn vườn mé mặt trước, đang có căn nhà bốc cháy và lính Mỹ đang cố dập tắt lửa. Lúc này tôi mới hoàn hồn lại chút ít. Má tôi lo sợ không biết lửa có lan sang căn nhà thờ của chúng tôi không. Bà hét gọi mấy đứa cháu lo gói đồ lại, có gì còn mang ra được chút của cải. Trong tiếng lửa nổ lốp đốp, trong âm thanh ồn ào của những tràng tiểu liên bắn ran khắp các miệt vườn, tiếng khóc nổi lên thảm thiết: Dì ơi, dượng ơi, má tui chết rồi. Ai cứu cho với. Tiếng kêu, tiếng khóc, tiếng chân hàng xóm chạy thình thịch bất chấp cả súng đạn. Má tôi lùa chúng tôi vào nhà. Thái được cử sang chữa lửa. Mấy người lính Mỹ đi vòng lại, qua sân nhà, nhìn vào. Người Mỹ soát giấy chúng tôi lúc nãy đưa mấy ngón tay và nói một câu tiếng Việt bập bẹ đại ý báo cho biết ngoài đó có mấy người chết.
Xong rồi họ ra xe, đoàn xe rồ máy chạy vào thành phố, nhưng chỉ mấy phút sau, có lẽ xe chưa kịp qua khoảng cầu An Cựu, thì chúng tôi nghe miệt cầu đủ thứ súng nổ dữ dội. Một lát, đoàn xe Mỹ ầm ầm rút lui, không còn kiêng nể gì nữa, cứ bắn như mưa dọc hai bên đường. Nhưng lần này, xe trở về rất ít, hình như chỉ có đoàn xe đi sau. Có lẽ những chiếc xe này về chở thêm súng đạn, và đoàn xe đi trước đã lọt ổ phục kích.
Tiếng súng ở mạn cầu đã thưa thớt dần.
Chừng mười lăm phút sau, khi nhìn ra đường, chúng tôi thấy có một đoàn người mặc quần áo màu vàng, vai vác súng đi đầu trần. Tôi lật đật ra sân: Thôi đúng rồi, họ rút đi, và lính mình về. Tôi mừng rỡ như điên định đưa tay vẫy thì chợt nhận ra nơi hông họ đeo cái bị rết. Lính quốc gia thì mang ba lô chứ. Tôi sững lại. Ðoàn người cũng không đông lắm, chỉ chừng vài chục người.
Thái lúc này mới thấy sợ hãi:
“Thôi chết em rồi. Họ vào biết em là cán bộ xây dựng nông thôn thì không cách gì sống nổi.”
Tôi bảo nó đưa giấy tờ cho tôi giữ. Tôi cẩn thận bỏ giấy tờ của nó trong cái túi áo rồi xếp gọn đặt giữa mớ quần áo đang gói ngổn ngang trong một tấm drap lớn. Anh tôi cố tin tưởng:
“Anh nhà giáo chắc không can chi. Nếu họ hỏi em, em nói em là học sinh nghe.”
Thái dạ nhưng nghe chừng yếu xìu. Gia đình Bé lại lật đật dọn xuống. Mấy bao bố đựng gạo, áo quần, mấy cái soong. Chú tôi không đi, má tôi kêu trời kêu đất, nhưng tụi em tôi bảo chú ở lại giữ nhà. Trên đó đã có cái hầm cũ làm sau vụ pháo kích lần trước. Má tôi không tin tưởng vào cái hầm đó lắm. Bà bắt Bé đi gọi ông xuống nhà, nhưng Bé vừa đi một lát, đã hớt ha hớt hải quay lại:
“Bác ui, họ về đông như kiến. Họ đang họp ngoài nghẹo, họ treo cờ, họ hô hào. Họ lấy hết Huế rồi. Người ta bảo bên Phú Văn Lâu treo cái cờ gì to thục lúc. Con vừa tới thấy họ đang bắc loa gọi, con lủi nhanh vào vườn Bác Ái lủi về, may mà họ không thấy.”
Tôi hỏi có ai bị thương không, Bé nói là thấy họ đông lắm, sáng thấy có người bị thương, chừ đem đâu hết rồi. Má tôi nói liệu có di tản lên Từ Ðàm được không thì Bé cho biết là đường sá họ gác hết rồi, góc nào cũng có người đứng gác. Tôi hỏi đi hỏi lại là mày có thấy tận mắt không, nó bực mình: “Thì thấy mới chạy thục mạng về đây. Ðồn vận tải thấy vắng teo như không có người ở, tường thành gì cũng đổ nát hết...”
Lúc đó khoảng mười một giờ. Chúng tôi hết đứng lại ngồi, lóng ngóng nhìn ra đường. Lát lát má tôi sai một đứa cháu ra nhìn xem có ai đi lại không. Nhưng đường xá vắng ngắt. Mấy lần nó định đi lần về phía nghẹo đường xay, nhưng không đủ can đảm lê bước tới đó. Lúc này nó đã nhìn thấy ở đó treo một lá cờ VC. Nó trở vào mặt mày rầu rỉ:
“Trời lính mà ai cũng như tui thì Huế mất là phải. Biết vậy đừng có về cho xong. Ðã nghe lịnh cấm trại rồi mà còn về.”
Bé buồn cũng phải. Ðáng nhẽ ra dù Huế còn hay mất nó cũng phải có mặt với anh em. Nhưng ba tôi chết cuối năm, Bé được giấy phép mấy ngày đầu năm để lo việc nhà. Lúc này, đèn đuốc trên bàn thờ ba tôi lại sáng trưng, mỗi đứa chúng tôi đều thắp hương và cầu nguyện. Ðây là căn nhà thờ duy nhất của dòng họ tôi mà phải suốt cả một đời lăn lộn cực khổ làm ăn lương thiện, ba tôi mới gầy dựng nổi. Căn nhà chưa tu bổ thì ba tôi đã có một chỗ ngồi trong căn nhà thờ này. Súng đạn đêm qua và sáng nay đã nhân đức với căn nhà thờ của dòng họ chúng tôi ngoài mức tưởng tượng.
Rồi chúng tôi cũng còn lo ăn nữa. Bữa cơm trưa được nấu vội vàng nhưng không có đồ ăn. Ngày cuối năm thì xong việc đám ma. Ðến ngày mồng một gia đình tôi nguyện ăn chay để cầu nguyện cho người chết. Ðáng nhẽ phải ăn Tết ở ngôi nhà anh Lễ tôi ở Từ Ðàm, chúng tôi, kể cả anh Lễ, má tôi, cô em gái, mấy đứa cháu nhỏ, cùng mấy đứa em con chú đã tình nguyện ở lại để cầu kinh. Căn nhà thờ chứ không phải là nơi để ở nên thiếu thốn đủ thứ. Chúng tôi phải nạy cửa nhà ngang, xuống căn nhà phụ cho ông giáo Trường An Cựu thuê, vợ chồng họ về quê ăn Tết, để lấy chén bát và tìm đồ gia vị như nước mắm, muối ớt. Khổ là vì không định ở đây, chúng tôi không tích trữ gạo. Lúc này đã không còn nghe tiếng súng, hoặc có thì cũng chỉ là tiếng súng nhỏ vọng xa xa, ở một miệt nào đó. Như thế là nghĩa lý gì? Không có một chiếc máy bay, không có một chiếc xe chạy.
Ðoàn xe Mỹ đã vào tới thành phố tan biến đi ngả nào. Những Việt cộng vừa tụ họp tại nghẹo Hàng Xay bỗng tản đi đâu hết. Tại sao chú tôi ở xóm trên chỉ cách một con đường rầy, mấy cái vườn, cũng không xuống được. Lâu lâu lại thấy một đoàn người đi đâu ngoài đường phía dưới quốc lộ, vào thành phố. Căn nhà thờ của chúng tôi nằm ở An Cựu, sát ngoại ô, lại ngay đường quốc lộ nối Phú Bài với Huế.
Trong thành phố Huế lúc này ra sao, chúng tôi không tài nào đoán nổi. Cả nhà hợp nhau lại sửa căn hầm cũ dưới nhà bếp. Tiếng súng càng về chiều càng dữ dội. Ngoài đường bỗng vắng tanh. Ở nhà bếp, nhà trên, dân trong xóm đến tỵ nạn nằm la liệt mấy căn buồng nhỏ được che hai ba mặt tường. Má tôi sai đứa cháu dâu nhóm bếp nấu một nồi cháo, chắc chẳng ai còn lòng dạ nào ngồi ăn cơm chiều. Nhưng nồi cháo nấu vừa chín tới thì Thái đã nhìn thấy có người đi lại ở ngoài đường. Mặc kệ tiếng súng đang nổ ran mọi phía, mặc kệ bom đạn có thể nổ ngay trên đầu mình, cả nhà chúng tôi tràn ra sân, rồi ra đường cái. Một hai người đạp xe từ phía cầu An Cựu đi lui đi tới, Thái vẫy lại hỏi: “Ngoài nớ có ai đi không?” “Người ta tản cư qua bên sông hết.” Má tôi la lớn:
“Lên Bến Ngự Từ Ðàm được không?”
“Chắc được.”
Nghe tiếng “chắc được” thôi mà cả gia đình tôi cũng tràn trề hy vọng. Mấy đứa cháu giục phải di tản qua bên kia sông hoặc lên Từ Ðàm chứ ở đây chắc chết hết. Việt cộng đã về đóng kín hết mọi nhà, mọi đường phố. Nhà chúng tôi lại nằm ngay giữa hai cái đồn và ngọn đồi Thánh Giá nằm ngay phía đàng sau lưng. Nếu xáp lá cà ở đây một trận chắc cả làng An Cựu ra tro hết. Má tôi vơ vội một ít quần áo của ba tôi những thứ còn bỏ lại, không đem liệm cho người chết. Bà gói lại cẩn thận. Gia đình mấy đứa em họ tôi thì lo gánh gạo, quần áo, nồi chảo và những dụng cụ cần thiết. Tôi xách cái ví tay, cái xách nhỏ. Anh tôi dắt chiếc Honda chở em gái tôi với hai đứa cháu đi trước. Tới gần cầu An Cựu, má tôi nói anh cứ đi trước đi, chở con và em lên rồi trở lại đón từng người bằng xe cho mau. Thái lấy chiếc xe đạp tìm đường sang phố. Chúng tôi chia tay ở trước đồn vận tải. Từng đoàn người cắm cúi lật đật, bồng bế, xách gói chạy qua phía cầu. Chúng tôi theo họ nhưng tới cầu cả bọn không được đi về phía Tân Lăng, Phú Cam mà cứ bị xua lại cầu. Lúc chúng tôi chạy tới, một trong hai người đàn ông gác cầu đưa tay chận lại:
“Ði đâu, bà con ai ở yên trong nhà, không được chạy.”
Tôi đứng sững đàng sau lưng má tôi. Hai người đàn ông mặc quần áo ka ki vàng, nhưng chân đi dép. Không phải là lính quốc gia rồi; chắc họ là quân giải phóng. Tôi nhìn sững họ không nói được một câu, miệng tôi cứng lại. Má tôi nói như muốn khóc:
“Nhà cửa sập rồi mấy ông ơi, còn chi mà ở. Tui sang nhà bà con bên kia sông.”
Lúc đó tôi không còn thấy bóng em tôi chở em gái và cháu tôi đâu nữa. Tôi nghĩ là anh đã đi thoát rồi. Hai người lính vẫy cho chúng tôi qua cầu. Mấy vũng máu đọng giữa cầu chưa khô, ruồi nhặng bu đen xì. Chỉ một đoạn đường ngắn mà tôi nhìn thấy biết bao nhiêu dép, giày vớ, quần áo rách, bị rết, ba lô văng bừa bãi, dính lẫn với máu và những mảnh thịt.
Má tôi bảo qua cầu rồi cứ đi dọc bờ sông tìm đường lên căn nhà ở Từ Ðàm. Nhưng đi được một đoạn, chúng tôi thấy những người đi trước lúp xúp chạy trở lại, vừa chạy vừa khóc. Chúng tôi hỏi họ không nói ra được, cứ làm dấu vẫy lui. Tôi chận một cô nhỏ:
“Sao trở lui vậy em?”
“Trên nớ, nơi cầu Phủ Cam họ đứng đầy, họ gác, họ đuổi lui.”
“Cứ đi tràn không được à?”
“Họ bắn hai ba người.”
Má tôi níu chúng tôi lại. Mấy đứa em tôi cũng hốt hoảng bảo vợ con tất tưởi đi lui. Chúng là lính gặp họ chắc không ổn rồi.
Không hiểu nhờ phép lạ nào mà khi qua cầu họ không hỏi tỉ mỉ. Khi má tôi xin qua cầu được, cả đoàn cứ nối đuôi nhau mà chạy. Cũng có lẽ họ còn bận với những đoàn người đi sau.
Qua được cầu rồi, lúc này tôi mới dám nhìn hai bên đường phố. Chợ An Cựu như một bãi chiến trường, máu còn chưa khô, máu in đỏ trên những bức tường loang lổ vết đạn. Một chiếc xe tăng lủi vào lề đường đâm vào một căn phố, tấm bảng hiệu còn treo lủng lẳng. Hai ba căn phố không còn hình dáng gì. Không một căn nhà trước đường nào còn nguyên. Giữa đường đầy rẫy chướng ngại vật, máu me, quần áo, rác, sắt vụn, gỗ ván. Chúng tôi len lỏi mà đi. Không một đôi mắt nhìn ra cửa, những căn nhà như đã hoang vắng hết. Không còn biết đâu yên mà chạy tới nữa. Thôi cứ liều, má tôi nói liều mà tìm đường lên Từ Ðàm, gia đình họp lại sống chết có nhau. Chúng tôi đi hết con đường ngắn, dọc xuống Lê Lợi. Con đường đàng trước mặt dẫn sang nhà bưu điện và cầu Tràng Tiền sao vắng ngắt. Tiếng súng ở mặt nhà dây thép nổ như bắp rang. Ðoàn người này đi tới, đoàn người kia chạy lui, không kịp nghe nhau trả lời, cứ thế, chạy loanh quanh trong những khu vực chưa bị kiểm soát. Cuối cùng chúng tôi dồn vào khu nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế.
Không còn chạy đi đâu được nữa, phía trước mặt người ta đã chạy lui lại hết. Phía đàng sau cũng không còn đường trở lui. Má tôi kêu trời kêu đất. Anh tôi đã mất tăm dạng. Ngoài đường thưa người dần và nhiều tiếng súng gần tới nơi. Mọi người chạy ào vào bên trong nhà thờ hết. Tất cả được dồn vào khu nhà giảng. Tiếng súng như đã bao quanh khu nhà thờ.
Má tôi kêu chúng tôi xuống căn hầm xây dưới giảng đường nhưng chỗ đó không còn chen chân nổi. Chúng tôi lại kéo nhau vào một chỗ trong góc. Bé trải chiếc chiếu cũ, cả nhà hơn mười người, gồm người lớn và con nít chen nhau một chỗ ngồi nhỏ. Khi tìm ra được một chỗ ngồi rồi, tôi mới nghe thấy tiếng vo ve từ dưới hầm đưa lên, tiếng trẻ con la khóc, tiếng cãi nhau, tranh giành nhau một góc nhà. Bên ngoài tiếng súng vẫn nổ ròn rã. Ðược một lát khi tiếng súng dứt, một số người khác chạy đến nhà thờ. Tôi chạy ra sân gặp Thái đi vào. Nó chụp lấy vai tôi: "Vô đi chị. Súng còn nhiều lắm."
Tôi hỏi:
“Sao em trở lại, có gặp anh Lễ không?”
“Không chị ơi, em lên cầu Kho Rèn, định đi qua cầu, gặp họ họ kêu lại, bắt giữ em. Em năn nỉ mãi mới cho đi. Em tưởng em bị bắt rồi.”
Tôi hỏi Thái thấy gì không. Thái nói thấy gần mũi cầu xác chết còn la liệt. Một số người bị bắt ngồi bên kia cầu. Có hai ba người Mỹ bị trói dẫn đi.
Một số người khác lại tràn vào nhà thờ, tôi tới hỏi thăm có ai miệt cầu Bến Ngự về có thấy một người đàn ông chở hai đứa nhỏ và một cô gái không. Một cậu nhỏ kể: có thấy một người đàn ông, chở hai đứa nhỏ với một cô gái cứ phóng đại xe qua cầu. Họ bắn mấy phát, xe suýt đâm xuống sông. Họ giữ lại, rồi thấy tha cho đi lên phía cầu Bến Ngự. Thái nghe nói quả quyết anh Lễ đã thoát. Tôi dẫn Thái tới chỗ má tôi ngồi. Mấy đứa cháu nhỏ đang ngồi ăn bánh chưng. Má tôi đưa mắt nhìn tôi dò hỏi. Tôi kể lại chuyện vừa nghe được cho má tôi nghe. Thái kêu khát nước, vặn cái vòi nhưng không có một giọt nước nào. Mấy đứa nhỏ đái cả ra chiếu.
Người này cứ hỏi người kia mãi về những điều đã trông thấy, đã kể. Tôi hỏi thăm Thái về đường đi lên Từ Ðàm, Thái nói qua cầu Tràng Tiền được, không đi lên Nam Giao được. Nó đã cố hết sức, nhưng thấy không có cách nào nên đành quay về nhà thờ, không ngờ gặp gia đình cũng ở đó. Tôi và Thái cứ nghe êm êm tiếng súng là ra sân đứng ngóng, cho tới chiều tối không thấy anh tôi trở lại. Chúng tôi dắt nhau đi vào. Thái lấy cái áo măng tô của ba tôi để lại, khoác vào người tôi:
"Chị mặc đi kẻo lạnh."
Trời mưa lất phất, cả một ngày tôi không còn đủ sức để ý đến bầu trời, đến cây cỏ. Tôi nhìn lên bầu trời màu chì, nặng nhọc, những hạt mưa bám vào tóc, vào mặt không làm tôi lạnh hơn. Sự lạnh lẽo, tê cóng, lo sợ, run rẩy suốt một ngày đã bóp cứng da thịt, và thể xác tôi đã như bị ướp trong tủ lạnh. Khi trở vào tôi bước qua chân mấy người bị thương nằm la liệt ở một phòng nhỏ gần cửa ra vào. Mấy người đàn ông đang băng bó, họ làm việc cũng lăng xăng lắm. Mấy ngọn đèn cầy đã được thắp ở mấy cái bục, ở các hàng ghế, khi tôi vừa xuống khỏi mấy bực cấp nơi khoảng giữa giảng đường xây cao, đặt tượng Ðức Mẹ, tôi bỗng ngồi thụp xuống. Hình như Thái cũng kéo tay tôi nữa. Một tiếng vỡ khô khan. Tiếng một người rú lên. Khi định tỉnh nhìn lại, một trong hai chậu cây kê ở hai cái bệ đá đã đổ xuống. Chị đàn bà nằm sấp xuống nền gạch, bên cạnh những mảnh sành vỡ. Chị đã dựa đầu vào cái chậu, và quên đi. Cái chậu rơi, đẩy chị ngã bổ nhào. Nhiều tiếng chửi rủa vang lên ở nhiều góc tối. Tôi ngồi bó gối bên cạnh má tôi và Thái. Má tôi chưa ăn gì, tôi cũng vậy. Thái hỏi tôi có đói không rồi chạy đi, một lát, nó trở vào với đòn bánh tét trên tay. Cầm miếng bánh đưa lên miệng, tôi nuốt không trôi. Tôi cũng không thấy đói, thấy khát mà chỉ thấy trong lòng cồn cào trăm thứ.
Một ngày rồi, tôi không nhớ chồng con. Căn nhà nhỏ của gia đình tôi ở Sài Gòn lúc này ra sao? Có yên ổn không? Chồng con tôi đang làm gì? Tôi tưởng tượng từng khuôn mặt các con, hình dáng đi ra đi vào của chồng, rồi cả bữa cơm tẻ nhạt nữa. Bữa cơm không có bàn tay người đàn bà, thiếu chỗ ngồi đó, bữa cơm tẻ nhạt tội nghiệp lắm. Má tôi cầm chặt tay tôi:
“Con ơi, dựa vào vai mạ mà ngủ.”
Thái đứng lên, nó nói phải đi kiếm một chỗ nào tốt hơn. Tôi gục đầu vào vai má tôi. Mấy đứa cháu nhỏ đang khóc, đòi nước, đòi cơm, đòi sữa. Tôi nghe tiếng cánh cửa sắt phía cửa chính kêu lẻng kẻng. Không có một ai ở ngoài đường, ngoài sân. Ngôi nhà giảng rộng lớn có mái cong và nhiều chỗ đặt kính, tường thật dày, cách khoảng những lá cửa bằng gỗ lim đóng chặt.
Nhiều tiếng đạn lớn bay ngang qua khu nhà thờ, rồi tiếng nổ ầm ầm sau đó. Má tôi kéo tôi tựa người vào bà. Tôi ngồi như thế và nhìn mãi ngọn đèn cầy đặt nơi chân ghế, trước mặt. Ngọn lửa không nhắc nhủ tôi gì hết, cũng không đem tới chút hy vọng nào.
Tôi nghe những tiếng khóc nhỏ, nhiều vô số kể. Có tiếng khóc thét lên ở góc phòng đằng kia. Chắc một người nào đó vừa mới chết.
Có tiếng dép lẹp xẹp từ một ngách nhỏ nối liền nhà ngang. Rồi một cái bóng to lớn nổi lên ở khoảng tường đằng trước mặt. Rồi lố nhố những cái bóng nhỏ khác, đầu với nửa người cũng hiện lên theo. Tôi quay lại, trên cái bục cao, dưới tượng Ðức Mẹ, một người đàn ông mặc áo chùng đen đang đứng giơ cao ngọn đuốc. Một ông thầy, một linh mục. Tất cả mọi tiếng khóc rấm rứt, những tiếng thì thầm vụt biến mất. Tôi nghe phía đó cất lên một giọng nói:
“Tắt hết đèn cầy đi, tôi sẽ đặt ngọn đuốc này ở đây. Mọi người bình tĩnh và tìm chỗ ngủ đi. Chúa sẽ che chở cho chúng ta.”
Ngọn đuốc chiếu những đầu người ngồi lổm chổm lên tường, nhưng chiếc bóng của ông linh mục ngắn dần, rồi biến mất.
|