trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 51 bài
  1 - 20 / 51 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Điểm nóngĐại hội X và cải cách chính trị tại Việt Nam
25.3.2006
Nguyá»…n Thanh Giang
Bàn về dân chủ
 1   2   3 
 
5. Các thời đại dân chủ

Dân chủ không phải là sản phẩm phát triển của chỉ một hệ thống xã hội duy nhất nào, không phải là độc quyền của chế độ nào. Các nền dân chủ (trừ dân chủ XHCN) kế thừa nhau phát triển ngày càng cao hơn về chất lượng, ngày càng đông hơn về chủ thể. Phần trên đã chứng minh và kết luận: dân chủ và phát triển vừa là nhân vừa là quả của nhau, nương tựa vào nhau, bồi bổ cho nhau đẩy lịch sử tiến tới. Như vậy, dân chủ đã xuất hiện từ bên trong lịch sủ và, như một dòng sông tư tưởng lớn chảy suốt quá trình tiến hoá nhân loại: thời cổ đại với dân chủ ở Hy Lạp, thời trung đại với dân chủ quý tộc và dân chủ nông dân, thời cận đại với dân chủ tư bản và dân chủ XHCN.


5.1. Dân chủ thời cổ đại

Người ta thường cho dân chủ Athens là những biểu hiện dân chủ đầu tiên của nhân loại. Ba trăm năm trước công nguyên, tại thành Athens đã có những sinh hoạt dân chủ. Dân chúng tụ tập ở quảng trường tranh luận với nhau về mọi vấn đề, từ việc bầu các vị thẩm phán, cho đến chính sách quốc gia…, và người ta bỏ phiếu. Thực ra, trước đó, xã hội nguyên thuỷ cũng đã là xã hội dân chủ. Trong cuốn Nguồn gốc gia đình, tư hữu và nhà nước F. Engels đã nói đến những cơ quan có gốc rễ trong nhân dân. Ông cho rằng toàn bộ chế độ thị tộc là một tổ chức của các bộ lạc nhằm giải quyết tự do những công việc của mình và những cơ quan đó là công cụ có ý chí của nhân dân. Đấy là biểu hiện của dân chủ.


5.2. Dân chủ trong xã hội chiếm hữu nô lệ: gồm hai dạng tiêu biểu:

  • Dân chủ Athens. Tại đây, ngoại trừ những kiều dân, phụ nữ, nô lệ, tất cả các công dân, các chủ hộ nam đều đựoc tham gia trực tiếp vào chính trị.

  • Dân chủ Rome - là dân chủ của quý tộc. Quý tộc thời này không chỉ gồm những người có của, có chức sắc mà còn là cả những người giỏi giang, được xem là tinh hoa trong xã hội. Trong khi dân chủ Athens bị các nhà triết học cổ đại phê phán là thiếu yếu tố điều tiết, tức là pháp luật, thì dân chủ quý tộc Rome có chế độ chấp chính quan để kìm chế nhau. Như vậy trạng thái đối trọng trên chính trường đã có từ thời cổ đại chứ không đợi đến các thời đại dân chủ sau này.

5.3. Dân chủ trong xã hội trung cổ: gồm 3 dạng

  • Dạng thứ nhất là Veche gồm các cuộc họp của các hội đồng quý tộc, các hội nghị nhân dân thời cổ và trung đại Nga từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV nhằm giải quyết những vấn đề hoà bình và chiến tranh, nhằm tạo điều kiện cho xã hội tỏ rõ thái độ với các vương công thông qua các luật lệ, các quyết định và các cuộc thương thuyết với các địa phương. Veche có khi là diễn đàn bảo vệ quyền lợi của nhân dân, có khi được vua chúa phong kiến dùng để hạn chế quyền của các vương công.

  • Dạng thứ hai là dân chủ nghị trường sơ khai ở Tây Âu, cụ thể là ở Đức. Theo Migrazian, kiểu nghị trường sơ khai đã có đủ ba tính chất của dân chủ tư sản tiến bộ sau này: quyền lực công khai, dân chủ đại diện, cơ chế kiềm chế, đối trọng.

  • Dạng thứ ba là dân chủ thị thành, xuất hiện sau cùng trong lòng xã hôi trung cổ, gồm các burg, các tổ chức phường hội của thợ thủ công và dân buôn để chống lại thuế má và sự áp chế của vua chúa.


5.4. Dân chủ tư sản

Nẩy nở từ chủ nghĩa nhân văn thời Phục hưng và phát triển thành chủ nghĩa duy lý, dẫn tới cách mạng tư sản. Trước thời Phục hưng, châu Âu chìm đắm trong chế độ phong kiến. Tư tưởng thống trị là tư tưởng phong kiến với thần học chuyên quyền. Kitô giáo điều khiển đời sống tinh thần lẫn cuộc sống trần tục, không có đời sống tự do cá nhân. Chủ nghĩa nhân văn thời Phục hưng ra đời đã nêu lên vấn đề con người, đề cao cá nhân, đặt đúng vị trí con người trong thế giới vĩ mô, đề cao tư hữu…

Thay cho Kitô giáo đề cao đức Chúa trời, chủ nghĩa nhân văn đặt con người vào vị trí ưu tiên. Nhà nhân văn học Ý Jean Pic de la Mirandole nói “Tôi đọc trong sách Ảrập rằng người ta không thấy trên đời này cái gì đáng ca ngợi hơn là con người”. Dựa vào các thành tựu khoa học kiệt xuất của hàng loạt bộ óc vĩ đại như Leonardo da Vinci, Giordano Bruno… các nhà tư tưởng Phục hưng cho rằng: sự sáng tạo của con người có thể cao hơn tạo hoá.

Chủ nghĩa nhân văn Phục hưng sớm thấy động lực của sự tiến bộ xã hội không phải là thần học, là các tín điều mà là những lợi ích vật chất. Machiavelli (1469-1527) tuyên bố: sự tranh thủ và bảo vệ quyền tư hữu là động lực mạnh mẽ nhất của con người. Quyền tư hữu là một bước nhẩy vọt vĩ đại của con người trên con đường tự khẳng định và tự giải phóng, là cơ sở sống còn của mỗi con người.

Chủ nghĩa duy lý là xu hướng triết học lấy lý trí là cơ sở cho nhận thức và ứng xử của con người. Theo chủ nghĩa duy lý, lý trí chứ không phải thực tiễn và kinh nghiệm, không phải thần thánh, là nguồn gốc của tri thức và tiêu chuẩn chân lý của nó. Blaise Pascal định nghĩa: “Người là cây sậy biết tư duy”. Rene Descartes nói: “Cogito, ergo sum” (Tôi tư duy, tức tôi tồn tại).

Chủ nghĩa duy lý là một trong những nguồn gốc triết học của hệ tư tưởng Khai sáng với những ý niệm về tự do, dân chủ, giải phóng con người.

Voltaire cho tự do và tất yếu không đối lập nhau, độc lập nhau mà tính tất yếu phổ biến là tiền đề cho tự do của con người, con người được tự do khi được làm cái mình mong muốn. Theo Voltaire, tự do trong xã hội là hoạt động theo quy luật, theo pháp luật. Ông chống chế độ nông nô, đấu tranh cho sự bình đẳng của công dân trước pháp luật

Denis Diderot lên án những hủ bại của chế độ Nga hoàng, chủ trương chế độ cộng hoà, kêu gọi những kẻ nô lệ hãy khởi nghĩa để tự giải phóng khỏi ách thống trị cường quyền. Ông chủ trương kết hợp thật hợp lý “lợi ích cá nhân con người với lợi ích xã hội”.

Tư tưởng vĩ đại của Montesquieu chứa đựng trong bộ sách đồ sộ 31 cuốn: Tinh thần pháp luật được tái bản 20 lần khi ông còn sống. Montesquieu trở thành kẻ thù nguy hiểm nhất của chế độ chuyên chế là do ông rất thực tế với lý luận phân biệt ba quyền: quyền lực hạn chế quyền lực do trật tự các sự vật, đó là phương châm cơ bản của bộ Tinh thần pháp luật. Ảnh hưởng của bộ sách rất lớn. Từ tư tưởng quân chủ tự do đã xuất hiện nền quân chủ hạn chế rồi đến quân chủ theo nghị viện. Lối phân loại của Montesquieu còn dẫn đến chế độ cộng hoà có tổng thống sau này ở Hoa Kỳ. Ngày nay tư tưởng phân lập quyền lực của Montesquieu vẫn là ngọn đuốc sáng cho các chế độ chính trị tiên tiến ngăn ngừa độc quyền độc đoán.

J. J. Rousseau cho rằng để kẻ mạnh không thể cưỡng bức người yếu phục tùng cần làm sao cho đồng thời chẳng ai phải phục tùng chủ và cũng chẳng ai có quyền bắt kẻ khác phải phục tùng mình cần chuyển giao quyền lực. Chuyển quyền lực của quân vương, của một người cho tất cả, cho nhân dân. Ông viết trong Khế ước xã hội: “Mỗi người chúng ta đặt chung cá nhân mình và toàn bộ sức mạnh của mình dưới sự chỉ đạo tối cao của ý chí chung”. Với lý luận về khế ước, tư tưởng của Rousseau xem trọng cả về bình đẳng và tự do nên dược các lãnh tụ Cách mạng 1789 hưởng ứng nhiệt liệt, nhất là đối với các đoạn như: “Tư tưởng về những đại biểu là hiện đại; nó chẳng đến với ta từ chính quyền phong kiến, từ chính quyền bất công và vô lý, trong đó, loài người bị giáng cấp và ở đó tên con người bị làm nhục. Trong các nước cộng hòa cổ và ngay cả trong nền quân chủ, chưa bao giờ nhân dân có đại biểu. Người ta chưa hề biết từ ngữ ấy”.

Lý luận về khế ước ngày nay vẫn còn được nhắc đến khi bàn về dân chủ; tư tưởng tự do của Rousseau vẫn nguyên vẹn vì theo ông, tuân theo mọi người là chẳng tuân theo ai cả khi mỗi người là bộ phận của toàn thể.

Tư tưởng của các nhà dân chủ Khai sáng thấm sâu vào giới trí thức rồi lan toả ra quần chúng qua các phòng trà, tiệm cà phê và các câu lạc bộ dẫn đến cao trào cách mạng 1789-1794 mở đầu bằng hai sự kiện nổi bật: việc phá ngục Bastilles (14.7.1789) giành lấy tự do, và đêm 4.8.1789, đốt sạch các văn tự, bắt đầu xoá bỏ đặc quyền đặc lợi phong kiến, giành lấy bình đẳng. Hai mươi hai ngày sau, Quốc hội lập hiến Pháp trịnh trọng công bố Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền.

Tinh thần dân chủ tư sản lan rộng nhanh chóng trên bản đồ thế giới, thúc đẩy nhịp độ phát triển quốc tế ngày càng mạnh mẽ. Vào năm 1980 trên thế giới còn có 56% nhân loại sống trong cảnh nghèo ở mức dưới 2USD (30 ngàn đồng VN)/ngày, đến năm 2000 tý số đó chỉ còn 22%. Bởi vì, năm 1980, theo báo cáo của Ủy hội Nhân quyền Liên hiệp quốc có 81 quốc gia đã tiến bước trên đường dân chủ hoá đáng kể, trong đó có 31 nước đổi từ chế độ quân phiệt sang chế độ dân chủ. Có 140 quốc gia trong số khoảng 200 nước trong thế giới hiện đã có bầu cử tương đối tự do, và 81 quốc gia trong số đó thực sự có tự do.


5.6. Dân chủ xã hội chủ nghĩa

Lên án dân chủ tư sản là dân chủ hình thức, các lý thuyết gia marxist cho rằng dân chủ XHCN thực chất hơn, ưu việt hơn vì cơ sở kinh tế của nó là sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất. Người ta hùng hồn tuyên bố rằng: Dân chủ XHCN là nền dân chủ cao nhất trong lịch sử loài người; dân chủ XHCN là triệu lần hơn dân chủ tư sản.

Lịch sử đã chứng minh, thực tế không phải vậy.

Nói dân chủ XHCN là nền dân chủ cao nhất vì nó dựa trên sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất cho nên có thể hình thành “ý chí chung và duy nhất”. Điều này là không tưởng vì như đã thấy tại các nước XHCN, cho dù giai cấp không còn nữa thì vẫn còn quyền lợi của các dân tộc, sắc tộc, giai tầng, tôn giáo, tín ngưỡng… khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau gay gắt. Dân chủ XHCN cũng không hề là của số đông trong xã hội. Dân chủ XHCN trước hết là của giai cấp công nhân, nhưng giai cấp công nhân ở các nước XHCN, nhất là ở Việt Nam, chỉ là một số ít trong dân số. Cơ sở vật chất-kỹ thuật vào tay giai cáp công nhân là một trong những điều kiện thực thi dân chủ của công nhân nhưng không nên quên rằng có 2 loại quyền dân chủ. Có loại quyền dân chủ phải dựa trên cơ sở vật chất kỹ thuật để thực thi, nhưng có loại quyền dân chủ không, hoặc ít liên quan đến cơ sở vật chất-kỹ thuật (nhưng nhiều khi thiêng liêng hơn) như: tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại… Tự do cũng có hai loại: tự do để (liberté pour) như quyền tự do mưu cầu hạnh phúc và quyền tự do chống (liberté contre), chống lại sự xúc phạm vô cớ của xã hội và của nhà nước vào cá nhân. Thiếu quyền tự do này thì tuy roi vọt không quật vào lưng con người, nhưng nỗi đau vò xé tận tâm can họ, đặc biệt là với trí thức. Trong cuốn Các tự do công cộng, Jean Rivero giải thích nguyên nhân chính của của hiện tượng ly khai và trốn chạy khỏi các nước XHCN là do “Sự thiếu quyền tự do lựa chọn cũng đủ để làm cho cuộc sống trở thành không thể chịu đựng nổi đối với những ai đòi hỏi được sống và suy nghĩ độc lập”.

Dân chủ XHCN được xem là đồng nhất với chuyên chính vô sản. Hãy nghe Engels nói trong cuốn Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản: “Đối với giai cấp vô sản, chế độ dân chủ sẽ trở nên hoàn toàn vô ích nếu nó không được dùng ngay lập tức làm phương tiện để thi hành những biện pháp rộng rãi trực tiếp đánh vào chế độ tư hữu và bảo đảm sự sinh sống của giai cấp vô sản”. Còn Lenin thì khẳng định: “Chuyên chính là một chính quyền dựa trực tiếp vào bạo lực và không bị một luật pháp nào hạn chế cả. Chuyên chính cách mạng của giai cáp vô sản là một chính quyền do giai cấp vô sản giành được và duy trì bằng bạo lực đối với giai cấp tư sản, chính quyền không bị một luật pháp nào hạn chế cả”. Lenin đã viết như vậy và đã trực tiếp ra lệnh: “Lợi dụng nạn đói Nga để lột trần các giáo sỹ Nga và làm cho họ sợ đến 50 năm nữa”.

Nói dân chủ XHCN triệu lần hơn dân chủ tư bản vì nó tạo điều kiện cho sự “nở hoa” của con người nhưng thực tế con người mất quyền tự do ngôn luận, mất quyền tự do tư tưởng mà chỉ được nhất nhất phục tùng hệ tư tưởng cùng với Đảng. Đã có một thời nhà văn không viết theo hiện thực XHCN thì bị đào thải, bị đầy đoạ (Lenin đã từng mắng nhà văn thiên tài Nga V.G. Korolenko “Không phải là trí tuệ mà là cục phân của dân tộc”), nông học thì phải theo Michurin-Lysenko, bác sỹ chỉ được chữa bệnh tâm thần theo phương pháp Paplov…


6. Dân chủ cho Việt Nam

6.1. Việt Nam vốn là một nước có truyền thống dân chủ.

Triệu Đà chiếm được nước Âu Lạc của Thục Phán An Dương Vương, sát nhập vào với hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây lập ra nước Nam Việt và đem Khổng giáo vào Việt Nam.

Theo Khổng Tử, dân chỉ là một tập hợp đa số vô danh, hầu như không bao giờ được tính đến với tư cách là cá nhân cụ thể. Khổng tử dạy thiên hạ rằng: chủ của thế giới là trời, chủ của xã hội là thiên tử “đại thiên hành hóa, thế thiên hành đạo”. Dưới thiên tử là chư hầu rồi đến sĩ đại phu; cuối cùng mới là dân. Trong xã hội chỉ có những thần dân là tôi tớ của vua quan.

May sao, thế kỷ XI-XVII, bên cạnh Nho giáo, và đặc biệt là khi Nho giáo thoái trào thì hai giáo lý khác: đạo Phật và đạo Lão tồn tại gần như đồng đẳng, thậm chí triều Lý còn xem Phật giáo là quốc đạo.

Phật giáo ngoài tính nhân bản còn chứa đựng những tiền đề lý thuyết và trong hoạt động thực tiễn có nhiều biểu hiện nguyên tắc công bằng, bình đẳng - một trong những cốt lõi của dân chủ. Một tập đoàn sống theo lối dân chủ cổ xưa nhất trong lịch sử nhân loại chính là tăng đoàn sống vào thời Phật Thích Ca vào thế kỷ thứ VI trước công nguyên. Thế kỷ thứ III trước công nguyên, vua Asoka đã triệu tập những cuộc họp thảo luận về giáo lý với các “quy tắc nghị hội” đã được ấn định giúp cuộc thảo luận tiến hành dân chủ và trật tự. Về sức cảm hoá hoà đồng của đạo Phật, ở Việt Nam, văn bia chùa Chiêu Phúc - Hà Bắc còn ghi: “Nhà Phật lấy họa phúc để cảm động lòng người, sao mà được lòng người tin đến thế. Trên từ vương công, dưới đến dân thường, hễ bố trí đến việc nhà Phật dù hết tiền vẫn không sẻn tiếc”.

Đạo Lão thường được dùng để thu hút nông dân tham gia vào các cuộc bạo động chống lại cường hào ác bá địa phương và quan lại trung ương. Thời Lý Nhân Tông có Lý Giác cầm đầu cuộc bạo động ở Diễn Châu, đời Trần Phế Đế có Nguyễn Bố, đời Hồ có Trần Đức Huy… Thế vậy đó, nhưng cái tư tưởng xuất thế và vô vi của Lão Tử lại lưu truyền trong huyền thoại đức Thánh Gióng về một vị anh hùng nông dân dẹp xong giặc Ân, không màng quyền thế, phóng ngựa bay lên trời.

Ngoài những pho tiếu lâm, những nhân vật hề, tinh thần nhân bản, ý thức chống đối cường quyền đây đó được thể hiện khá nhiều trong dân ca và ca dao Việt Nam: “Người ta là hoa đất”, “Thương người như thể thương thân”, “Lệnh ông không bằng cồng bà…”, “Nhất sỹ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sỹ”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng”… Những mầm tư tưởng nhân văn ấy còn lấp lánh cả trong Bần nữ thán, Cung oán ngâm khúc, Truyền kỳ mạn lục, Chinh phụ ngâm, Truyện Kiều

Sau đêm trường Bắc thuộc 1000 năm, ở Việt Nam đã xuất hiện một thể chế dân chủ sơ đẳng trong các cộng đồng làng xã. Mỗi làng là một “vương quốc” nhỏ khép kín với luật pháp riêng mà các làng gọi là hương ước và các “tiểu triều đình” riêng, trong đó hội đồng kỳ mục là cơ quan lập pháp, lý dịch là cơ quan hành pháp. Sự biệt lập đó tạo nên truyền thống “Phép vua thua lệ làng”, thể hiện quan hệ dân chủ đặc biệt giữa nhà nước phong kiến với làng xã ở Việt Nam. Truyền thống dân chủ này làm cho, khác với phương Tây và Trung Hoa, nhà nước phong kiến Việt Nam giống với làng xã. Ở đây, nước như là sự mở rộng của làng. Làng ứng xử với nhau theo tình cảm tạo nên truyền thống dân chủ; nước tuy có tổ chức chặt chẽ hơn nhưng trên đại thể vẫn duy trì truyền thống dân chủ ấy.

Tính cộng đồng làng xã là cơ sở tạo nên hàng loạt lĩnh vực cộng đồng khác: đồng tộc, đồng niên, đồng nghiệp, đồng hương… và, trong lĩnh vực quốc gia là đồng bào. Như vậy, tính cộng đồng làng xã coi mọi người trong thôn xóm đều là anh em đã được mở rông thành ý thức cộng đồng quốc gia.

Truyền thống dân chủ giữa lãnh đạo với dân chúng Việt Nam duy trì gần như suốt lịch sử. Sử sách Trung Hoa còn ghi những nhận xét về mối quan hệ vua quan với dân chúng ở Việt Nam là: không phân biệt rạch ròi ngôi thứ, các quan lại địa phương có thể gọi các con hát vào cùng nắm tay nhảy múa hát hò. Một sứ thần Trung Hoa đến Việt Nam năm 990 đã ghi chép như sau: “Lê Hoàn đi chân đất xuống nước và câu cá bằng một cần câu tre dài. Mỗi lần nhà vua câu được một con cá thì quần thần nhẩy lên reo mừng”. Vua Việt Nam không quá chuyên chế độc đoán như phương Tây và tạo cho mình một thế uy nghiêm của thiên tử như ở Trung Hoa.

Truyền thống dân chủ cũng được thể hiện trong cả bộ máy lãnh đạo quốc gia. Theo giáo sư-viện sỹ Trần Ngọc Thêm trong cuốn Cơ sở văn hoá Việt Nam, thì khởi nguồn từ tổ chức làng xã với những hình thức Hội đồng Già làng, Hội đồng Kỳ mục, truyền thống lãnh đạo tập thể ở cấp quốc gia đã đi từ quan hệ huyết thống như vua chị - vua em (Trưng Trắc, Trưng Nhị), vua anh - vua em (Ngô Xương Văn, Ngô Xương Ngập; ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ); vua cha - vua con với hình thức Thái thượng hoàng (thời Trần, thời Hồ và thời Mạc), đến quan hệ xã hội mang tính pháp lý vua chúa (vua Lê - chúa Trịnh) theo nguyên tắc “Hoàng gia giữ uy phúc, vương phủ giữ quyền bính” (vua có địa vị cao sang nhưng quyền lực nhỏ, còn chúa địa vị thấp hơn nhưng quyền lực lớn).

Truyền thống dân chủ nước ta còn được thể hiện trong việc tuyển chọn người vào bộ máy quan lại. Với các tước vị công, hầu, bá, tử, nam, bộ máy quan lại phong kiến phương Tây thường được bổ nhiệm theo cha truyền con nối. Ở Việt Nam, việc bổ nhiệm được tiến hành qua thi cử. Con nhà nghèo nếu thông minh, thi cử đỗ đạt đều được bổ nhiệm làm quan, từ hào lý trong thôn làng đến các chức quan rất to trong triều đình.

Ở Việt Nam, nhà nước xuất hiện khá sớm. Vào khoảng thiên niên kỷ thứ II trước công nguyên, xã hội Việt cổ đã có những biến chuyển nhất định. Trên cơ sở sức sản xuất phát triển, những yếu tố mới xuất hiện làm nẩy sinh chế độ tư hữu không thể hiện dưới hình thức tư hữu về ruộng đất mà dưới hình thức sở hữu nhà nước. Nhà nước đầu tiên là nhà nước Văn Lang của các vua Hùng ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VII, thứ VI trước công nguyên.

Luật pháp Việt Nam cũng đã hình thành từ rất sớm. Trong lời tâu của Mã Viện gửi vua Hán Quang Vũ sau khi đàn áp cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng có đoạn: “Luật của dân Việt khác luật của người Hán đến hơn mười điều”. Sau khi dẹp yên loạn mười hai sứ quân, để củng cố chính quyền, năm 968 Đinh Tiên Hoàng đã ban bố một đạo luật với những hình phạt rất hà khắc. Ngay giữa sân triều đặt vạc dầu sôi và chuồng hổ báo. Tội đồ bị ném vào vạc dầu sôi hoặc thả vào chuồng cho thú dữ xé xác để uy hiếp người chứng kiến. Thời Lý có bộ luật Hình thư gồm ba quyển do Lý Thần Tông ban hành năm 1042. Thời Trần có bộ Quốc triều hình luật gồm một quyển ban hành năm 1244. Bộ Quốc triều hình luật đời Lê được gọi là Luật Hồng Đức do Lê Thánh Tông ban hành năm 1489 gồm sáu quyển với 722 điều. Bộ Luật Gia Long đời Nguyễn ban hành năm 1815 và trở thành Hoàng triều luật lệ.

Luật Hồng Đức thể hiện tinh thần dân chủ tốt hơn luật Trung Hoa. Trong khi luật Trung Hoa chú trọng nhiều đến tôn ti, đẳng cấp (cha con, vua tôi…) thì Luật Hồng Đức giành phần đáng kể bảo vệ quyền phụ nữ. Luật Hồng Đức quy định con gái được hưởng quyền thừa kế tài sản bình đẳng ngang con trai. Con gái, cháu gái cũng được đảm nhiệm việc hương khói khi nhà không có con trai, cháu trai. Nếu con trai trưởng còn nhỏ thì trách nhiệm tế tự tổ tiên thuộc về bà quả phụ. Phụ nữ có quyền từ hôn nếu thấy vị hôn phu bị ác tật, bị phá sản hay là một tội phạm. Phụ nữ có quyền li dị nếu trong năm tháng người chồng bỏ rơi vợ, không đi lại.

Luật Gia Long sao phỏng luật Trung Hoa nhiều hơn luật Hồng Đức, tuy nhiên vai trò người phụ nữ vẫn được xem trọng hơn ở Trung Hoa. Theo luật Trung Hoa đàn ông có được bảy cớ (thất xuất) để bỏ vợ. Luật Hồng Đức có sao chép “thất xuất” nhưng bổ sung “tam bất khả xuất” (ba trường hợp không được ly dị vợ: đã để tang cha mẹ chồng, đã làm cho nhà chồng trở nên giầu có, ngoài nhà chồng ra, không còn nơi nương tựa) để bảo vệ quyền lợi phụ nữ. Luật Gia Long cũng cấm chồng không được bán vợ, không được bắt vợ làm thuê, không được hạ vợ mình xuống làm nàng hầu.

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, do ảnh hưởng của tư tưởng Cách mạng dân chủ Pháp 1789, của cách mạng Trung Hoa 1911 và của Phong trào Duy Tân Nhật Bản do Minh Trị thiên hoàng chủ xướng, tư tưởng lập hiến lần đầu đã xuất hiện trong trí thức Việt Nam. Phạm Quỳnh và Bùi Quang Chiêu kiến nghị ban bố một bản hiến pháp sao cho vừa bảo đảm được quyền điều hành đất nước của Hoàng đế, quyền bảo hộ của chính phủ Pháp, đồng thời quyền dân chủ cho nhân dân.

Vào năm 1902, tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây và tư tưởng cải cách đất nước của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Bạch, Phan Chu Trinh đề xướng chủ trương “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, đồng thời đề cao tư tưởng dân chủ và lập hiến. Ông đòi phế bỏ chế độ quân chủ chuyên chế, xây dựng chế độ dân chủ. Ông nói: So sánh hai cái chế độ quân trị và dân trị ta thấy chủ nghĩa dân trị hay hơn chủ nghĩa quân trị nhiều lắm. Lấy theo ý riêng của một người hay của triều đình mà trị một nước thì cái nước ấy không khác nào một đàn dê được no ấm vui vẻ hay đói khát khổ sở tuỳ theo lòng người chăn. Còn theo chủ nghĩa dân trị thì quốc dân lập ra hiến pháp, luật, đặt ra các cơ quan để lo việc chung của cả nước, lòng quốc dân thế nào thì làm thế ấy, dù không có người tài giỏi thì cũng không đến nỗi phải để dân khốn khổ làm tôi mọi một nhà, một họ nào”. Ông phân tỏ: “Trong nước có hiến pháp, ai cũng phải tôn trọng hiến pháp, cái quyền của chính phủ cũng bởi hiến pháp quy định cho… Khi có điều gì vi phạm đến pháp luật thì người nào cũng như người nào, từ ông tổng thống cho đến một người nhà quê cũng chịu theo pháp luật như nhau”.

Những khuyến nghị mạnh mẽ này chưa kịp hiện thực hoá thì cách mạng tháng Tám đã nổ ra.


6.2. Đẩy mạnh công cuộc dân chủ hoá đất nước

Các hình thái dân chủ, các sinh hoạt dân chủ đã xuất hiện trong lịch sử nước ta còn sớm hơn cả ở rất nhiều nước phương Tây. Tư tưởng dân chủ, tinh thần thượng tôn pháp luật đã nẩy nở khá sớm và phát triển ngày một cao từ cổ đại, qua thời Bắc thuộc đến thời Pháp thuộc. Tiếc rằng, tất cả đã chựng lại sau Cách mạng tháng Tám và ngày càng suy thoái trong chế độ Cộng hoà Xã hội Chủ nghiã Việt Nam.

Từ chỗ quyền sở hữu cá nhân được tôn trọng đến bị tước đoạt. Từ chỗ buôn bán, làm ăn được tự do đến ngăn sông, cấm chợ. Từ chỗ báo chí tư nhân cũng được phát hành đến cấm tiệt. Từ chỗ đình, chùa, đền, miếu, nhà thờ… được xây dựng khắp làng bản, thôn trang, thị thành đến chỗ đây đó bị triệt phá tan hoang. Văn học hiện thực phê phán đang nở rộ hàng loạt tác phẩm nổi tiếng của Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan… bị bóp chết. Các tổ chức xã hội tự do Hội Hướng đạo, Hội Ái hữu. bị giải tán…

Luật pháp không những không tiếp tục được hoàn thiện mà bị phế bỏ! Trường Đại học Luật đã được thành lập hồi Pháp thuộc bị đóng cửa. Nhiều luật gia giỏi bị đối xử tồi tệ.

Trong khi ngay từ thượng cổ La Mã Ciceron đã viết: “Chúng ta đều là nô lệ của luật pháp, vì thế chúng ta được tự do” và chính Karl Marx cũng thừa nhận “Bộ luật là kinh thánh tự do của nhân dân” thì Chủ tịch Hồ Chí Minh dưới bút danh CB trong loạt bài lên án “Mỹ quốc là nước xấu”, tố cáo Mỹ không có dân chủ vì ban hành quá nhiều đạo luật. Chính từ đấy, ở Việt Nam đã hình thành một quan niệm phổ biến rất kỳ lạ: không luật pháp, không kỷ cương, là dân chủ. Cho nên, thấy người đi ngênh ngang giữa đường, bất chấp luật lệ giao thông người ta bảo dân mình được tự do quá trớn. Phóng uế bừa bãi nơi công cộng cũng là được tự do quá trớn. Trong hội nghị, không tôn trọng quyền điều khiển của chủ tọa, cứ hăng lên là ầm ào như chợ vỡ, người ta bảo dân mình được dân chủ quá trớn. Học trò bất chấp nội quy học đường, con cái nói năng trống không với ông bà, cha mẹ, cũng bảo là dân mình được dân chủ quá trớn… Cứ như là ân huệ của Đảng, của cách mạng ban cho bị lạm dụng.

Điều 1 Hiến pháp 1946 có ghi: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giồng, gái trai, giầu nghèo, tôn giáo”, và Điều 10 tuyên bố: “Công dân Việt Nam có quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”. Nhưng hiến pháp cứ bị sửa đổi theo hướng mỗi lần càng thiết chặt các quyền tự do và, nền dân chủ Việt Nam từ đấy cứ thế xuống cấp dần. Cho đến khi Lê Duẩn tuyên bố: “Nhà nước CHXHCN Việt Nam là nhà nước chuyên chính vô sản” (Điều 2 Hiến pháp 1980) thì nền dân chủ cộng hòa vốn rất èo uột cũng bị khai tử nốt. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phải thú nhận với một nhà cách mạng lão thành Pháp: “Độc lập đã giành được, thống nhất đã thành công, nhưng vấn đề dân chủ vẫn nguyên vẹn, chưa được giải quyết”.

Không có dân chủ nên mặc dù “độc lập đã giành được, thống nhất đã thành công”, mặc dù đã được yên hàn kiến thiết trong hòa bình nhưng đất nước cứ thế ngày càng lụn bại. May sao, nhờ hệ thống xã hội chủ nghĩa sụp đổ, sau Đại hội VI, Việt Nam từ bỏ nền kinh tế kế hoạch tập trung, bãi bỏ ngăn sông cấm chợ, ngã theo kinh tế thị trường.

Mặc dù Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã hô hào cởi trói cho văn nghệ, mặc dù đường đã rộng gấp mấy lần tám thước, mặc dù đã lác đác những ngôi nhà cao hơn chục tầng… nhưng dân chủ cho nhân dân thì vẫn chỉ nhỏ giọt rất dè xẻn. Mấy năm gần đây người ta mới như nhứ ban bố chủ trương “dân chủ ở cơ sở”.

Tại sao lại chỉ được dân chủ ở cơ sở? Tại sao lại chỉ cần dân chủ ở cơ sở? Đây là một đường lối, một biện pháp khoa học hay chỉ là một thủ đoạn lừa mỵ? Phải chăng người ta muốn các thần dân cứ tha hồ đấu đá, cãi cọ, phê phán nhau ở phía dưới. Chỉ có địa phương sai, chỉ có địa phương làm bậy, trung ương bao giờ cũng đúng, cũng anh minh, Đảng bao giờ cũng sáng suốt. Cho nên cán bộ địa phương mới chỉ vơ bèo gạt tép được ít đòng đong cân cấn thì bị bà con xô vào móc họng ra mà quên những con mèo núc ních trên kia đang tha lôi hàng thúng cá bự. Mấy vị quan chức Thái Bình bớt xén từ đường, trường, trạm ra xây được mấy cái nhà mái bằng, mua được vài chiếc xe máy thì ăn nhằm gì so với những biệt thự được “phân phối” bán đi kiếm hàng chục nghìn cây vàng, những chiếc xe hơi biếu tặng trị giá hàng tỷ đồng. Chữ cơ sở ở đây mới thật mơ hồ làm sao. Chẳng nhẽ phải chỉ đạo dân chủ hóa xong ở xóm rồi mới lên thôn, rồi mới lên xã, rồi mới lên huyện, rồi mới lên tỉnh… Thế thì bao nhiêu thế hệ nữa cho xong. Mà dù có dân chủ hóa xong ở tất cả các cơ sở thì nước ta vẫn là một nước không dân chủ. Trong khi, nếu có dân chủ ở trung ương, ở cấp quốc gia thì lập tức có dân chủ ở tất cả các cơ sở.

Đấu tranh thiết lập lại truyền thống dân chủ và dẩy mạnh công cuộc dân chủ hóa đất nước là yêu cầu hết sức bức thiết, là nghĩa vụ thiêng liêng và cao cả của mọi người dân Việt Nam ngày nay. Sự nghiệp này có thể được tiến hành bằng những phương thức đa dạng dựa trên hai kịch bản:

  • Một là: Đảng Cộng sản Việt Nam qua đấu tranh nội bộ, bộ phận cấp tiến thắng thế hợp cùng sức ép của các lực lượng dân chủ trong, ngoài nước và nước ngoài nhận thức được xu thế tất yếu, từ bỏ bớt những đặc quyền đặc lợi, tự cải hóa đặng hòa nhập được vào trào lưu chung tạo nên dòng thác cách mạng, bằng phương thức hòa bình đẩy sự nghiệp dân chủ hóa đất nước tiến tới .

  • Hai là: do ngoan cố bám giữ những lợi quyền bất chính, phải tận dụng mọi thủ đoạn tàn bạo nhằm duy trì chế độ độc tài, chống lại xu thế dân chủ hóa, đảng CSVN ngày càng đối lập và thù địch với nhân dân làm dấy lên làn sóng cách mạng bạo lực lật đổ chính quyền, đảng không chỉ mất quyền lãnh đạo mà sẽ sụp đổ. Một chính quyền mới được thiết lập, xây dựng chế độ dân chủ không có đảng CSVN.
Kịch bản thứ hai nếu diễn ra sẽ hết sức đau lòng. Đảng CSVN sụp đổ sẽ tạo ra khoảng trống quyền lực nguy hiểm, cơn chấn động chính trị từ đây sẽ kéo dài không biết đến bao giờ. Khác với Liên Xô và Đông Âu, ở Việt Nam, do những lỗi lầm hết sức tai hại qua các vụ Nhân văn - Giai phẩm, qua cải cách ruộng đất, qua cuộc chiến Nam Bắc tương tàn với hàng vạn hồn oan Mậu Thân, hàng triệu vong linh tức tưởi dưới lòng biển trên đường vượt biên và trong các trại cải tạo… đã gây nên ngàn, triệu nỗi hờn oán. Những oán hờn này là thực tế và chính đáng. Tuy nhiên, mọi oán hờn ấy cần nên được tiêu tan bằng hòa giải, bằng cảm thông, bằng đền bồi ở mức có thể nhất đặng hòa hợp vì lợi ích chung và vì tương lai dân tộc. E rằng, hiện vẫn lấp ló đâu đó hàng loạt thế lực cơ hội ở trong và ngoài nước, khi có điều kiện sẽ bừng bừng trỗi dậy, khó bề kiểm soát, vì thù hận, vì hám quyền lực và danh vọng bất chính… Cơn chấn động chính trị dù được may mắn kết thúc nhanh chóng do bỗng nhiên xuất hiện một hiền tài thực sự, một anh hùng kiệt xuất thì đất nước chắc là vẫn khó tránh khỏi tan hoang với đầm đìa máu và nước mắt, mà, nhân dân mình thì đã vừa phải nếm trải không biết bao nhiêu gian nan, tang tóc suốt bao năm trường rồi.

Hãy đồng lòng hiệp sức, bằng sự suy xét minh mẫn, bằng tài thao lược, ý chí ngoan cường và lòng bao dung nhân ái tạo tình thế thuận lợi cho kịch bản thứ nhất. Kịch bản thứ nhất sẽ được diễn tiến hòa bình với những chủ trương và hành động như sau:

  1. Ra sức đưa Việt Nam hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới để xây dựng nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh. Ủng hộ chủ trương giành quy chế Tối huệ quốc vĩnh viến của Hoa Kỳ và gia nhập WTO trước tháng 10 năm 2006. Trên tinh thần độc lập tự chủ và giữ gìn bản sắc dân tộc, chủ động hội nhập có chọn lọc nền văn hóa, khoa học, giáo dục, chính trị của các nước tiên tiến. Cải tổ tư tưởng chính trị, chủ động kết giao để nhanh chóng xây dựng được tình hữu nghi Việt Nam - Hoa Kỳ thắm thiết hơn tình hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc.

  2. Đấu tranh mạnh mẽ và sắc bén trên lĩnh vưc tư tưởng - chính trị, loại bỏ tư tưởng Marx-Lenin và chủ nghĩa xã hội. Thay thế chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bằng nền kinh tế thị trường tự do có sự quản lý của nhà nước. Hủy bỏ chủ trương kinh tế quốc doanh làm chủ đạo, giải tư tất cả những doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ.

  3. Xây dựng chế độ pháp trị thực thụ, bảo đảm mọi công dân đều có quyền làm những gì luật pháp không cấm trong khi quan chức, viên chức nhà nước chỉ được làm những gì luật pháp cho phép. Lên án mạnh mẽ, kêu gọi quốc tế trừng phạt tất cả những hành động vi hiến, vi pháp của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, từ việc bắt bớ, giam cầm không xét xử hoặc xét xử không công khai đến việc khám xét, cắt điện thoại, thu giữ bưu phẩm không tuyên bố lý do xác đáng. Thả hết tù nhân lương tâm.

  4. Chấp nhận cho tư nhận được ra báo, được mở nhà xuất bản, tối thiểu, trước mắt một tờ báo và một nhà xuất bản tư nhân. Trong trường hợp chưa được ra báo tư nhân, các tổ chức và cá nhân trong, ngoài nước cùng góp sức xúc tiến mạnh mẽ việc tán phát các tài liệu phục vụ đấu tranh dân chủ hóa qua chuyền tay, qua bưu điện, qua internet và qua hộp thư điện tử. Trong khi người trong nước bị khống chế nghiêm ngặt, các tổ chức và cá nhân ở ngoài nước nên xem trọng việc tổ chức gửi tài liệu vào các hộp thư điện tử cho các Uỷ viên Trung ương Đảng, các cơ quan Đảng, Nhà nước, Chính phủ, các cán bộ giảng dạy và học sinh, sinh viên. Làm tốt việc này sẽ có tác dụng tích cực hơn cả một tờ báo.

  5. Chấp nhận chế độ đa nguyên, đa đảng. Trước mắt đòi tái lập đảng Dân chủ và đảng Xã hội ( Việc lập đảng mới vô cùng khó khăn, nếu không được phép, chính quyền sẽ dễ dàng đàn áp. Vả chăng, với một đảng lạ, không chỉ ít người dám theo mà cũng ít người muốn theo. Chỉ tái lập các đảng đã được chính Bác Hồ thừa nhận thì chính quyền sẽ rất chùn tay đàn áp mà lại sẽ có đông người gia nhập, kể cả đảng viên CSVN). Không nên để quá nhiều đảng xuất hiện mà chỉ khoảng bốn đảng là lực lượng tiên phong của bốn giới: sĩ, nông, công, thương. Tờ báo dưới hình thức tán phát kể trên cần làm cho Đảng hiểu rõ đa đảng chính là con đường sống của đảng CSVN. Nhờ đa đảng mới có cạnh tranh và có tiết chế giám sát giúp đảng CSVN kìm chế sa sút đang ở mức thảm hại như hiện nay. Có cạnh tranh mới giúp đảng phấn đấu vươn lên để may ra duy trì một trong những vị thế lãnh đạo cao đối với đất nước. Độc quyền, độc đoán, đảng phiệt đang hủy hoại Đảng ngày một ghê gớm đến mức nguy cơ tiêu vong đã nhỡn tiền.

  6. Giải thoát các tổ chức chính trị-xã hội như công đoàn, phụ nữ, thanh niên, hội nông dân, hội cựu chiến binh… khỏi sự khống chế của Đảng. Mở rộng quyền cho các cá nhân được tự do hội họp tự do tổ chức và thành lập các tổ chức dưới nhiều dạng khác nhau trong hệ thống tổ chức phi chính phủ. Các tổ chức này gồm hai nhóm: nhóm hoạt động vì lợi ích chung hay vận động hậu trường có chức năng tư vấn, khuyến cáo nhà nước về các vấn đề thuộc đường lối, chủ trương, chính sách; nhóm hoạt động vì các lợi ích tư nhân như các hiệp hội kinh doanh, các tổ chức nghề nghiệp hay liên đoàn lao động.

  7. Tổ chức bầu cử năm 2007 theo các phương thức tự do thực sự. Xóa bỏ chế độ đảng cử dân bầu. Mỗi đơn vị bầu cử được bầu một số đại biểu ứng với tỷ lệ dân số. Đảng không đề cử ứng cử viên bằng cách áp đặt cho các địa phưong một cách hình thức và phi lý. Tất cả những người được đề cử hay ứng cử ở các địa phương đều phải có chương trình tranh cử. Người ra ứng cử phải thu thập được một số chữ ký nhất định trong phạm vi toàn quốc hoặc phải được 2/3 số người ủng hộ tại một hội nghị tổ chức trong khu vực mình làm việc hoặc sinh sống. Tất cả các người được đề cử hoặc ứng cử đều được tự giới thiệu mình trên tất cả các phương tiện thông tin. Ban tổ chức bầu cử phải bị một tổ chức độc lập giám sát.

  8. Bãi bỏ chế độ tổng bí thư của một đảng cao hơn người lãnh đạo nhà nước và chính phủ. Để tránh biến tướng do mới thoát thai từ chế độ độc tài, không tổ chức phổ thông đầu phiếu trực tiếp bầu ra một tổng thống. Ở chế độ tổng thống, quyền lực được giao quá nhiều cho một người, tổng thống nhiều khi có thể ngang nhiên bất chấp cả quốc hội. Nên xây dựng chế độ đại nghị để người dân có quyền lựa chọn và bầu trực tiếp các dân biểu. Trong chế độ đại nghị thủ tướng phải là người thực sự tài đức vì chịu sự giám sát chặt chẽ của quốc hội, có thể bị quốc hội bãi nhiệm bất cứ lúc nào. Song, ngay cả khi thủ tướng bị thay đổi cũng sẽ không gây khủng hoảng lớn như đối với trường hợp tổng thống.

  9. Bộ máy nhà nước phải được tổ chức theo cơ chế tam quyền phân lập cho các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nước nên được tổ chức dưới hình thức liên bang theo chế độ tản quyền với khoảng 12 vùng (tạm căn cứ vào cách chia ra 9 quân khu và 3 khu tự tri trước đây). Mỗi vùng có một nghị viện, một chính quyền dân cử và một guồng máy hành chánh riêng. Mỗi vùng không có quân đội riêng mà chỉ có cảnh sát riêng nhưng số cảnh sát riêng của vùng không vượt quá số cảnh sát trung ương có mặt trong vùng. Luật pháp trong vùng không được mâu thuẫn với luật pháp trung ương. Các vùng không có tiền tệ riêng, không có đại diện ngoại giao và không được quyền ký hiệp ước với nước ngoài.
Trên đây không phải là một lộ trình mà chỉ là phác thảo chủ trương hành động. Không có các bước tuần tự tách biệt mà là một liên hoàn được vạch ra theo thứ tự ưu tiên nhằm dắt dẫn công cuộc dân chủ hóa Việt Nam được đẩy mạnh một cách hòa bình và hữu hiệu.


*


Dân chủ là dân mạnh, nước giầu, là tư do, bình đẳng, công bằng, là xã hội văn minh. Đấu tranh vì sự nghiệp đẩy mạnh công cuộc dân chủ hóa đất nước tất gian khó, thậm chí phải hy sinh nhưng đấy là nghĩa vụ không thể thoái thác đối với tổ quốc, với nhân dân. Chúng ta đã từng xả thân vì cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cuộc cách mạng dân chủ này còn thiêng liêng, cao cả hơn. Nụ cười rạng rỡ của tổ quốc Việt Nam dưới ánh ngời dân chủ sẽ là vinh quang, là phần thưởng vô giá cho tất cả những ai đang vững bước tiến lên trong ngọn trào dân chủ.


Hà Nội, Xuân Bính Tuất
Nguyễn Thanh Giang
Số nhà 6, Khu tập thể Địa Vật lý Máy bay
Trung Văn, Từ Liêm, Hà Nội
Điện thoại: 5534370

© 2006 talawas