trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
Tư tưởng
Tôn giáo
  1 - 20 / 124 bài
  1 - 20 / 124 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tư tưởngTôn giáo
21.4.2008
Trần Tiên Long
Tại sao tôi không theo Pascal đánh cuộc?
 
Trong khi trao đổi với các bạn cùng trường về niềm tin vào sự hiện hữu của Thiên chúa, tôi rất ngạc nhiên vì nhiều người vẫn thường xuyên nêu ra lập luận đánh cuộc của Blaise Pascal để biện minh cho niềm tin của mình. Đây là lối lập luận mà chúng tôi đã được dạy một chiều khi còn học chung với nhau ở một tiểu chủng viện mấy chục năm về trước. Mặc dù lập luận của Pascal không phải là một lập luận quá khó bị đánh đổ, nhưng sự phổ biến rộng rãi của nó đủ bảo đảm việc bàn về nó là điều cần thiết. Thực vậy, sự đánh cuộc của Pascal chỉ là nêu ra một mối lợi như là lý do để tin. Mối lợi này được đặt trên những tiền đề giả định, rằng có một Thiên chúa lo cho phúc lợi của con người, rằng có thiên đàng và địa ngục, những nơi chốn để thưởng phạt con người sau khi chết, và rằng con người thì bất tử vì còn có phần linh hồn vẫn tiếp tục sống ngoài thân xác. Đó là ba trong vô số những giả định căn bản mà người tín hữu Thiên chúa giáo phải xem chúng là hiển nhiên bằng một đức tin không lay chuyển. Vậy mối lợi mà Pascal nêu ra có phải là lý do chính đáng để chúng ta theo đuổi bằng bất cứ giá nào không? Chúng ta sẽ tìm hiểu lập luận của Pascal và tuần tự xét đến những trường hợp có thể xảy ra để nhận thấy rằng việc đánh cuộc theo Pascal sẽ dẫn đến nhiều bất lợi hơn cả.


Nội dung đánh cuộc của Pascal

Blaise Pascal (1623-1662) là một nhà toán học và triết học người Pháp. Trong chương có tựa đề “Infinirien” của cuốn Pensées, ông khẳng định rằng tất cả các lập luận để chứng minh cho sự hiện hữu của Thiên chúa đều không có giá trị. Không ai có thể chứng minh có Thiên chúa, cũng không ai có thể chứng minh không có Thiên chúa. Ông so sánh hệ quả mang lại khác nhau từ quyết định tin hay không tin, và đi đến kết luận rằng thái độ và hành xử của người cẩn thận và khôn ngoan nhất là cứ tin có Thiên chúa, vì sau khi chết, nếu có Thiên chúa thì người tin sẽ được hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng, nghĩa là được tất cả; người không tin sẽ bị đày xuống địa ngục đời đời kiếp kiếp, nghĩa là mất tất cả; còn nếu không có Thiên chúa thì người tin cũng như người không tin sẽ chẳng mất mát gì nhiều. Chúng ta có thể tóm tắt lập luận của Blaise Pascal vào những luận điểm chính yếu sau đây:
  • Thiên chúa hoặc hiện hữu hoặc không hiện hữu. Xác suất là 50% cho mỗi bên.

  • Nếu chúng ta tin Thiên chúa và nếu Ngài hiện hữu, chúng ta sẽ nhận được phần thưởng vô hạn là hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng; còn nếu Ngài không hiện hữu, chúng ta sẽ không mất mát gì hoặc chẳng mất mát bao nhiêu.

  • Nếu chúng ta không tin Thiên chúa và nếu Ngài hiện hữu, chúng ta sẽ bị phạt đời đời kiếp kiếp trong địa ngục; còn nếu Ngài không hiện hữu, chúng ta không được gì hơn bao nhiêu.

  • Thà chúng ta có cơ may nhận một phần thưởng lớn lao như vậy với mất mát chút ít ở trần gian này, hơn là rủi ro bị phạt đời đời kiếp kiếp trong địa ngục với chút lợi lộc không bao nhiêu.

  • Nếu đem so sánh các điều lợi hại của việc tin hay không tin, người khôn ngoan hành xử theo lý trí đương nhiên phải quyết định chấp nhận tin Thiên chúa hiện hữu.

Sự hiện hữu của Thượng đế và Thiên chúa trong các khoa học thực nghiệm và Luận lý học

Có một sự khác biệt căn bản giữa hai ý niệm Thượng đế và Thiên chúa. Đối với Pascal, Thiên Chúa của Thiên chúa giáo có thể hiện hữu hoặc không hiện hữu, bởi vì ông đã sống rất lâu trước thời Cách mạng Công nghiệp và trước khi có thuyết Tiến hoá khoa học đánh đổ thuyết Sáng tạo duy thần. Ngày nay, giả định về sự hiện hữu của một Thượng đế không còn cần thiết trong Nhận thức luận để giải thích bất cứ hiện tượng nào trong vũ trụ. Các khoa học thực nghiệm đã xác định rằng sự hiện hữu của Thượng đế, đấng được xem đã tạo dựng vũ trụ và muôn loài hay là nguyên nhân đầu tiên, có một xác suất không thể có (improbable). Đây là một trong những vấn đề của khoa học, không phải là vấn đề của tôn giáo như chúng ta vẫn thường hay lầm tưởng. Mọi xác định của khoa học đều có tính xác suất, không bao giờ là một khẳng định tuyệt đối. Bằng chứng của khoa học không mang ý nghĩa tuyệt đối như bằng chứng của Luận lý học. Trong Luận lý học, điều gì cũng có thể xảy ra (possible) nếu chưa được chứng minh chắc chắn không thể xảy ra, nghĩa là việc không có bằng chứng không phải là bằng chứng để khẳng định Thượng đế không hiện hữu. Ngày mai mặt trời sẽ mọc đàng Tây là một điều có thể xảy ra theo Luận lý học, nhưng có một xác suất không thể xảy ra theo khoa học. Khoa học chỉ bàn đến chứng cớ đủ để có sự nghi ngờ hợp lý (reasonable doubt), và khoa học đã xác định rằng không có chứng cớ đủ để nghi ngờ có Thượng đế, cũng như chẳng có chứng cớ đủ để nghi ngờ ngày mai mặt trời sẽ mọc đàng Tây. Nếu chúng ta cho rằng mặc dù như vậy vẫn còn có sự hoài nghi, thì chúng ta sẽ chẳng có thể tin tưởng vào bất cứ điều gì của khoa học. Còn Thiên chúa của Thiên chúa giáo thì tuyệt đối không thể có do lập luận về những thuộc tính mâu thuẫn loại trừ nhau trong Luận lý học. Parmenides đã dạy cho chúng ta biết điều này từ hơn 2.500 năm trước, rằng không thể có sự hiện hữu của một vật có những thuộc tính mâu thuẫn loại trừ nhau. Những thuộc tính của Thiên chúa như toàn năng, toàn tri, toàn thiện, hay thương xót, công bình vô cùng… tự chúng loại trừ nhau. Làm sao mà một hữu thể thông biết hết mọi sự, kể cả tương lai, lại có thể thay đổi ý định của mình? Nếu có thể thay đổi ý định thì đã không thông biết hết mọi sự, còn nếu không thể thay đổi thì đã không toàn năng. Và làm sao mà một hữu thể công bình vô cùng lại có thể thay đổi ý định của mình để thương xót và nghe theo lời cầu xin của con người hèn mọn qua các phép lạ? Nếu có thương xót để phải thay đổi ý định thì đã không công bình vô cùng. Thiên chúa vô nghĩa giống như một hình tròn lại vừa có các cạnh vuông. Bởi vậy, từ xưa đến nay chẳng có một bộ môn khoa học nào bỏ công tìm hiểu về Thiên chúa. Tóm lại, sự hiện hữu của Thượng đế là một điều có thể xảy ra theo Luận lý học, nhưng không có xác suất có thể xảy ra theo các khoa học thực nghiệm; còn sự hiện hữu của Thiên chúa trong Thiên chúa giáo là một điều tuyệt đối không thể có theo Luận lý học.

Pascal mặc nhiên chấp nhận 50% xác suất cho mỗi bên, rằng Thiên chúa của Thiên chúa giáo có thể hiện hữu hoặc không hiện hữu, cũng giống như hai mặt của một đồng xu, chỉ có thể xảy ra hoặc xấp hoặc ngửa. Nhưng hiện nay có hơn 2.500 thần thánh khác nhau. Dựa theo tiêu chuẩn nào để có thể bảo đảm rằng Thiên chúa của Thiên chúa giáo là chân thật hơn các thần thánh của các tôn giáo khác? Bởi vì chân lý chỉ có một nên không thể tất cả cùng đúng. Như vậy, xác suất chỉ là 0,04% và cũng có thể là 0%, chứ không phải là 50% nữa. Cũng vậy, bạn mua một vé số độc đắc, không phải bạn có xác suất 50% trúng hoặc không trúng. Xác suất trúng số thì rất nhỏ, gần như 0%; và xác suất không trúng số thì rất lớn, gần như 100%. Ít nhất cũng đã có những người từng trúng số, còn thiên đàng cho đến ngày nay vẫn chỉ là một bánh vẽ chưa một ai nhìn thấy.

Việc con người có phần linh hồn bất tử hay không để hưởng phước thiên đàng lại còn là một vấn đề rắc rối khác nữa. Các bộ môn khác nhau của khoa học đã xác nhận rằng không có ý thức hay cái phần tinh thần độc lập với thân xác. Một khi thân xác đã nằm xuống và rữa nát thì không còn ý thức và ký ức nữa. Chúng ta đến từ hư vô rồi sẽ trở về với hư vô. Ý thức và tư duy đều là hệ quả của những dòng điện sinh vật lý thuộc não bộ. Bằng chứng rõ rệt nhất là khi đầu óc của chúng ta bị thương tích thì sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến các sinh hoạt của tri thức. Trí tuệ hay khả năng tri thức mà Thiên chúa giáo gọi là linh hồn như một thực thể thiêng liêng, độc lập với thân xác, có cá tính riêng biệt, nối tiếp và vĩnh cửu, thì hoàn toàn tùy thuộc vào sự lành mạnh của thân xác. Con người trong bản chất là một con vật xã hội không ngừng tiến hoá, chỉ khác nhau về mức độ thông minh. Người ta có thể kết án một cách khinh bỉ rằng đây là một quan điểm duy vật. Nhưng thử hỏi chúng ta đã hiểu về vật chất đến mức độ nào? Liệu chúng ta có thể nêu ra một thứ gì mà không có phần căn bản vật chất được không? Những tác nhân không có phần thân xác vật chất như thần thánh hay ma quỉ mà cha ông chúng ta ngày xưa thường dùng để “giải thích” những hiện tượng dị thường càng ngày càng trở nên không cần thiết trong việc chinh phục kiến thức của con người. Chân lý mọi người đều phải chết, nghĩa là không có sự bất tử, mãi mãi vẫn đúng.


Giả định Thiên chúa hiện hữu

Cho dù có giả định Thiên chúa hiện hữu, thì mối lợi của người tin hay mối hại của người không tin cũng không được xác định. Có một đấng Sáng tạo hiện hữu không nhất thiết là phải có thiên đàng và địa ngục. Thiên chúa giáo quan niệm rằng thiên đàng hay địa ngục là những nơi chốn để Thiên chúa thưởng phạt con người tùy theo đức tin của họ. Ngày nay, Thiên chúa giáo tránh nhắc đến hai phạm trù này, và giáo hoàng John Paul II cũng đã công khai phủ nhận, chỉ gợi lên nỗi sợ hãi có mục đích kiềm chế người tín hữu. Không thể có một hình phạt tàn nhẫn vô hạn cho một lỗi lầm hữu hạn. Bertrand Russell cho rằng nỗi sợ hãi là nguồn gốc của đức tin tôn giáo hữu thần. Những hình ảnh khóc lóc và nghiến răng trong biển lửa đời đời kiếp kiếp đối nghịch với lòng nhân từ của Thiên chúa mà Thiên chúa giáo đang cố gắng rao giảng. Kinh sách Công giáo trong hai ngàn năm qua cũng dạy chúng ta về sự hiện hữu của lâm bô (limbo), một nơi chốn tối tăm dành cho những em bé chết khi chưa kịp rửa tội và những người tốt lành sống trước khi đức Giê-su nhập thế. Ngày nay, Vatican đã công khai bác bỏ giáo lý về sự hiện hữu của lâm bô. [1]

Việc ban thưởng hay luận phạt dựa theo tiêu chuẩn đức tin hoàn toàn vô lý. Tại sao vất bỏ lý trí để tin điều vô lý lại là một nhân đức lớn trong Thiên chúa giáo, cao trọng hơn cả lòng bác ái và tính ngay thẳng lương thiện tri thức; trong khi lòng hoài nghi, một phẩm hạnh thiết yếu và đứng đầu trong khoa học, thì lại bị xem là kiêu ngạo? Rất có thể Thiên chúa chỉ ban phần thưởng thiên đàng cho những kẻ ngay thẳng với lương tâm, can đảm và hành động theo lý trí, chứ không cho những kẻ mù quáng, chỉ vì mối lợi mà hèn nhát đến nỗi bất chấp mọi lý lẽ. Hành động tốt hay xấu của chúng ta quan trọng hơn việc tin hay không tin. Người tốt lành là người ăn ở ngay thẳng, không màng đến kết quả của phần thưởng hay hình phạt. Nếu chúng ta làm điều tốt lành để mong được phần thưởng thiên đàng hay để khỏi chịu hình phạt ở địa ngục thì đó là sự buôn bán đổi chác, đầu tư sòng phẳng, không hơn không kém. Điều này rõ ràng cho chúng ta thấy rằng đạo đức của người không tin có tiêu chuẩn cao hơn đạo đức của người tin. Richard Dawkins viết rằng, Bertrand Russell được hỏi khi phải đối diện với Thiên chúa: “Tại sao ngươi đã không tin Ta hiện hữu?” Russell thành thật ngay thẳng trả lời: “Thưa Thiên chúa, tại vì không có đủ bằng chứng để tôi tin Ngài hiện hữu”. Nếu Thiên chúa có tinh thần của một một nhà khoa học – Thiên chúa dĩ nhiên phải có tinh thần của một nhà khoa học vì chính Ngài được xem như đã thiết kế tạo dựng ra vũ trụ và muôn loài – thì Thiên chúa phải biết thưởng thức tính lương thiện tri thức của người hoài nghi như Russell, và khinh thường sự hèn nhát của những người chỉ vì lợi mà tin vào điều vô lý. Và khi không biết chắc chắn kết quả thắng cuộc sẽ được ban thưởng hay bị luận phạt nặng nề hơn thì sự đánh cuộc chỉ là một việc làm vô nghĩa lý.

Ngoài ra, không phải muốn tin là có thể tin. Tin tưởng không phải là một quyết định của ý chí, mà là trạng thái của trí tuệ khi chấp nhận một mệnh đề nào đó. Trạng thái chấp nhận này chỉ đến với chúng ta qua lý luận hợp lý, hay khi có các chứng cớ khách quan hỗ trợ. Lý trí nhận thấy điều gì vô lý thì tự động làm mình không tin. Người ta không thể tin tưởng điều vô lý chỉ vì lợi. Người tin vào điều vô lý thực ra chỉ hy vọng và ao ước điều hắn tin là đúng, do động cơ mối lợi, chứ không phải hắn đang tin tưởng thực sự. Niềm hy vọng và ao ước của hắn không làm điều hắn tin chân thật hơn. Hắn có thể đi nhà thờ, lần chuỗi Mân côi, đọc kinh Tin kính, tuyên xưng đức tin, đặt tay lên Kinh thánh để thề… nhưng những thứ đó không làm đức tin của hắn mạnh mẽ hơn nếu hắn đã không tin. Trong trường hợp đó, một dụng cụ điện tử như máy ghi âm lặp lại vô hạn lời kinh chắc chắn tốt và có giá trị hơn người đọc kinh. Đó cũng là lý do tại sao Thiên chúa giáo hay quanh co bàn đến niềm hy vọng thay vì bàn thẳng vào đức tin. Hiểu được điều này sẽ làm chúng ta không còn ngạc nhiên và thắc mắc tại sao vẫn thường hay xảy ra những vụ xì căng đan lớn của những quí vị giáo sĩ quyền cao chức trọng. Spinoza, một triết gia người Đức, cho rằng tin tưởng và hiểu biết thì hoàn toàn giống nhau; trong khi không tin còn phải đòi hỏi một động tác tiếp theo là từ khước, là chối bỏ. Như vậy, nếu không có tin tưởng hay nắm chắc và thấu hiểu thực sự một điều vô nghĩa lý thì làm thế nào để Thiên chúa thưởng phạt con người dựa theo tiêu chuẩn đức tin? Điều Thiên chúa giáo dạy rằng đức tin là một ân huệ hay tặng phẩm Thiên chúa ban riêng cho mỗi người càng làm sự thưởng phạt trở nên vô nghĩa hơn nữa.


Giả định Thiên chúa không hiện hữu

Giả định Thiên chúa của Thiên chúa giáo không hiện hữu, và điều này thì tuyệt đối chắc chắn theo Luận lý học, thì có phải người tin và người không tin đều không mất mát như nhau? Chúng ta hãy xem xét thời gian và công sức một người phải bỏ ra để lo việc tôn thờ và vinh danh Thiên chúa. Mỗi người chỉ sống trung bình 70-80 năm. Nếu phải dành một ngày trong mỗi tuần cho việc tôn thờ và vinh danh Thiên chúa thì mỗi người phải bỏ phí mất 10 năm. Cho dù có tính toán một cách dè dặt hơn nữa, thì mỗi người cũng phải bỏ phí một thời gian hơn 7 năm của tuổi thọ, tương đương với thời gian học đại học để lấy bằng tiến sĩ hay học làm bác sĩ; đó là chưa kể thời gian làm ra tiền bạc để đóng góp hỗ trợ cho các công việc tôn giáo như xây dựng nhà thờ, nhà xứ, nuôi các giáo sĩ và tu sĩ. Thời gian phí phạm 7-10 năm là một quãng thời gian quá dài nếu biết rằng con người rất bận rộn vật lộn với một đời sống khó khăn, hữu hạn và duy nhất. Nếu huy động thời gian và nguồn lợi tức này để chú tâm lo cho các công việc bác ái khác thì sẽ hữu ích cho xã hội và con người hơn.

Luận điểm hấp dẫn nhất của Pascal nằm ở chỗ so sánh một bên là “một đời” hiện tại với sinh, lão, bệnh, và tử; và một bên là “muôn muôn đời” với hạnh phúc vĩnh cửu. Nếu bạn chỉ cần bỏ ra một đồng VN để có cơ hội 50% thắng “muôn muôn” lần đồng Euro thì sự đánh cuộc quá hấp dẫn, không thể không đặt cuộc. Điều này có nghĩa là ngoài cuộc đời khổ luỵ này, chúng ta còn có vô số cuộc đời tiếp nối khác chắc chắn tràn trề hạnh phúc để hưởng thụ. Hệ quả hai bên không cân bằng như vậy của việc đánh cuộc là người ta xem thường mạng sống của mình. Cuộc sống kiếp này chỉ là một cuộc du hành để đi về nhà Chúa, và ở đó người ta sẽ gặp lại những người thân yêu đã đi trước. Sinh ký tử qui là vậy. Do đó, người ta không lạ gì khi người tín hữu Thiên chúa giáo thường hay hô hào rằng, chúng tôi thà vâng lời Thiên chúa hơn là vâng lời người thế gian. Lề luật của tôn giáo được đặt lên trên lề luật của quốc gia, nhất là khi có sự mâu thuẫn giữa hai lề luật. (Ðó là chưa kể đến việc còn có nhiều tôn giáo với những lề luật đối nghịch nhau trong cùng một quốc gia.) Vụ các tín hữu Thiên chúa giáo giết các bác sĩ và đặt bom nhà thương có dịch vụ phá thai hợp pháp, vụ cướp hai phi cơ đâm vào hai toà nhà ở World Trade Center thuộc bang New York ngày 11 tháng 9 năm 2001, vụ các khủng bố quân ôm bom nổ ở khắp nơi… tất cả đều có nguồn gốc từ đức tin tôn giáo hữu thần. Những tác giả của các thảm trạng này đều có niềm tin tưởng không lay chuyển rằng đó là con đường ngắn nhất để đi đến thiên đàng, nơi có các cô trinh nữ đang chờ đợi mà Thiên chúa đã hứa ban thưởng cho họ, những người chết cho đạo giáo. Không có một phản lực nào có thể chống đỡ nổi sức mạnh của niềm tin tưởng tôn giáo mù quáng như vậy. Người ta có thể lập luận rằng đó chỉ là những người theo chủ nghĩa cực đoan, cuồng tín vì tin tưởng sai lầm, không phải là những người có đức tin đúng đắn. Nhưng làm thế nào để có thể bào chữa được rằng đức tin của bạn đúng đắn hơn đức tin của họ, nếu không có một tiêu chuẩn nào để so sánh? Một khi lý trí đã bị vứt bỏ qua một bên để tin vào điều vô lý thì người ta không còn có thể nói đến chuyện lý lẽ nữa. Và hậu quả của một quốc gia không thượng tôn pháp luật tất nhiên sẽ dẫn đến bất ổn, loạn lạc và chiến tranh.

Như vậy, những điều bất lợi do niềm tin tôn giáo hữu thần mang lại rõ rệt nhiều và nghiêm trọng hơn những điều lợi. Bằng chứng ngày 23.12.2006, báo The Guardian đã đăng kết quả của một cuộc nghiên cứu thăm dò về các tôn giáo hữu thần ở Anh quốc, một quốc gia có một thời nhận Anh giáo Tin lành là quốc giáo, ghi nhận rằng 82% dân chúng được phỏng vấn trên 18 tuổi đều tin rằng tôn giáo làm hại hơn làm lợi (religion does more harm than good), là duyên cớ gây chia rẽ và căng thẳng giữa con người với nhau (they see religion as a cause of division and tension between people). [2] Còn một thăm dò trên trang báo điện tử About.com đặt ra câu hỏi rằng nếu bạn phải đánh cuộc theo Pascal, bạn sẽ đặt đời bạn ở tôn giáo nào? Có 31% trả lời rằng họ không thích những câu hỏi như vậy, và không thiết tha đánh cuộc theo bất kể tôn giáo nào; 32% chọn một tôn giáo vô thần, chẳng hạn Phật giáo (atheistic religion like maybe Buddism); chỉ có 18% chọn Thiên chúa giáo. [3] Tôn giáo vô thần ở đây phải hiểu là những tôn giáo trong đó không có chỗ đứng của một Thượng đế sáng tạo ra vũ trụ và muôn loài, đối nghịch với các tôn giáo hữu thần trong hệ thống độc thần giáo.


Kết

Tóm lại, thật dễ dàng để nhận thấy rằng nếu theo Pascal đánh cuộc thì chúng ta sẽ phải chịu nhiều thiệt thòi hơn ở đời này và còn bi thảm hơn ở đời sau (nếu có), bởi phần thưởng thiên đàng, nếu có, sẽ thuộc về người lương thiện ngay thẳng không tin, còn địa ngục thì dành cho kẻ mù quáng, những người chỉ vì lợi mà bất chấp mọi lý lẽ. Một khi không biết chắc chắn kết quả thắng cuộc sẽ được ban thưởng hay bị trừng phạt nặng hơn, thì sự đánh cuộc là một việc làm hoàn toàn vô nghĩa lý. Hơn nữa, sự hiện hữu của Thiên chúa trong Thiên chúa giáo với những thuộc tính mâu thuẫn loại trừ nhau là điều tuyệt đối không thể có theo Luận lý học. Mối lợi mà Pascal tin tưởng đã được dựa trên những tiền đề giả định hoang tưởng. Việc nêu ra mối lợi để tin tưởng mà không cần bằng chứng cũng giống như điều tin tưởng rằng có một viên kim cương to lớn bằng cái tủ nằm rất sâu trong vườn để bỏ công sức cả đời ra đào xới tìm kiếm. Nếu tìm được viên kim cương đó đúng như mình luôn luôn hy vọng và tin tưởng bằng một đức tin không lay chuyển thì đời mình chắc chắn sẽ phải sung sướng lắm. Phải chăng đó cũng là một mối lợi lớn mà chúng ta cần phải theo đuổi với bất cứ giá nào?

© 2008 talawas


[1]Pope to end doctrine of Limbo. Nguồn: http://www.religionnewsblog.com/16159/pope-to-end-doctrine-of-limbo
[2]Religion does more harm than good-Poll. Nguồn: http://www.guardian.co.uk/religion/Story/0,,1978045,00.html?gusrc=rss&feed=1#article_continue
[3]Poll Results. Nguồn: http://atheism.about.com/gi/pages/poll.htm?linkback=http%3A%2F%2Fatheism.about.com%2
Flibrary%2Fpolls%2Fblpoll_rel0001.htm&poll_id=6536398568&poll=2&submit1=Submit+Vote