trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 177 bài
  1 - 20 / 177 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tủ sách talawas
8.9.2005
Lý Quí Chung
Hồi ký không tên
15 kì
 1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11   12   13   14   15   16 
 
11. Từ Sài Gòn đến Điện Westminster

Sau Tết Mậu Thân, không khí chính trị tại Sài Gòn hoàn toàn thay đổi. Chẳng hạn trước Tết Mậu Thân, một cuộc thăm dò dư luận Mỹ vào tháng 11-1967, cho thấy 44% người Mỹ muốn quân đội của họ rút về nước toàn bộ hoặc dần dần; 55% chủ trương một đường lối cứng rắn, tức sử dụng vũ khí hạt nhân. Tháng 2-1968, khi cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân đang diễn ra ác liệt, 53% người Mỹ chủ trương tăng cường các cuộc hành quân quân sự với một qui mô lớn hơn và chấp nhận cả nguy cơ chạm trán với Liên Xô và Trung Quốc. Chỉ có 24% người Mỹ muốn thấy cường độ chiến tranh hạ thấp xuống. Thế nhưng chỉ 6 tuần lễ sau sự kiện Tết Mậu Thân, sự ủng hộ của người Mỹ dành cho tổng thống Lyndon Johnson từ 40% rớt xuống còn 26%. Người ta còn nhớ khi ông Johnson mới vào Nhà Trắng, cứ 10 người Mỹ thì có đến 8 người ủng hộ ông.

Theo nhà báo Stanley Karnow trong quyển Vietnam: A History mà ông là tác giả: Cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân “làm bàng hoàng” tổng thống Johnson (stunned Johnson). Johnson không bao giờ tưởng tượng rằng Việt cộng có thể tấn công vào tòa đại sứ Mỹ và tất cả các thành phố lớn của miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, ngay sáng 31-1-1968 Lyndon Johnson đã ra lệnh cho guồng máy tuyên truyền Mỹ phối hợp tạo ra một dư luận lạc quan trong nước Mỹ đối với tình hình chiến tranh Việt Nam. Johnson chỉ đạo tổng tư lệnh liên quân Mỹ tại Việt Nam Westmoreland trong các cuộc họp báo với báo chí Mỹ tại Sài Gòn phải khẳng định quân đội Mỹ “đang nắm vững tình hình tại đây”. Lyndon Johson cho phụ trách báo chí tại Nhà Trắng biết “cuộc tổng công kích của cộng sản hoàn toàn thất bại”. Johnson cũng chỉ thị cho ngoại trưởng Dean Rusk, cựu bộ trưởng quốc phòng McNamara, Walt Rostow và các phụ tá thân cận khác luôn giữ một lập luận như thế trước báo chí và truyền hình khi được phỏng vấn.

Tuy nhiên tinh thần của phần đông các phụ tá của tổng thống Mỹ sau Tết Mậu Thân thật ra đã suy giảm đáng ngại. Harry McPherson – luật sư và là một trong những người viết diễn văn cho tổng thống Johnson, được Johnson coi như con nuôi của mình (ông Johnson chỉ có con gái chứ không có con trai) đã phát biểu với giới thân cận rằng những hình ảnh về tòa đại sứ Mỹ bị tấn công mà truyền hình phát đi từ Sài Gòn, cũng như hình ảnh Nguyễn Ngọc Loan bắn vào đầu một Việt cộng trên đường phố trước ống kính truyền hình Mỹ đã gây sự thất vọng cho ông, khiến ông thấy cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam là phi nghĩa và mất hẳn khả năng chiến thắng. Nhiều năm sau đó người ta tìm thấy trong sách giáo khoa của trường quân sự Mỹ West Point sự đánh giá cuộc tấn công Tết Mậu Thân gây bất ngờ cho tình báo Mỹ ngang với cuộc tấn công của Nhật ở Pearl Harbor (Trân Châu Cảng) trong lịch sử.

Trong khi từ Việt Nam, tướng Westmoreland thúc bách Johnson tăng cường thêm 206.000 quân Mỹ đến miền Nam, thì tại Washington, Clark Clifford, người thay Mc Namara, đã có suy nghĩ khác. Một cách âm thầm, tổng thống Johnsonn cũng khuyến khích các phụ tá có nhiều ảnh hưởng nhất tính tới “một cách khác giải quyết cuộc chiến Việt Nam”. Một trong những cuộc họp không chính thức diễn ra tại bộ Ngoại giao Mỹ ngày 25-3-1968 đã có ảnh hưởng gần như quyết định đối với diễn tiến tiếp theo của chính sách của Mỹ tại Việt Nam. Cuộc họp này có 14 người tham dự, trong đó có Dean Acheson – cựu ngoại trưởng Mỹ (1942-1952), người đã từng thuyết phục tổng thống Mỹ Truman viện trợ cho Pháp trong cuộc chiến Đông Dương; Arthur Goldberg – đại sứ Mỹ tại Liên hợp quốc; George Ball, McGeorge Bundy; Henry Cabot Lodge – cựu đại sứ Mỹ tại Sài Gòn; Averell Harriman; Cyrus Vance v.v... Ngoài ra bên cạnh Clark Clifford còn có Dean Rusk – ngoại trưởng (1961-1968); Walt W. Rostow – cố vấn an ninh của tổng thống Johnson 1966-1968; Earle Wheeler – chủ tịch Ban tham mưu liên quân Mỹ.

Tổng thống Johnson giao cho bộ trưởng Bộ quốc phòng Clifford thăm dò tìm giải pháp cho một trong ba chọn lựa: một là leo thang chiến tranh với việc đưa quân Mỹ đến Việt Nam nhiều hơn gia tăng oanh tạc miền Bắc; hai là duy trì hiện trạng; ba là hạn chế tấn công không quân và tập trung quân đội Mỹ ở những vùng đông dân cư đồng thời chuẩn bị cho chính quyền Sài Gòn điều khiển trực tiếp cuộc chiến.

Ba chuyên viên cao cấp được mời đến thuyết trình mà người quan trọng nhất là Philip Habib – cựu cố vấn chính trị tòa đại sứ Mỹ tại Sài Gòn – lúc này là phó trợ lý bộ trưởng Ngoại giao. Khi ông Habib kết thúc bản thuyết trình của mình, bộ trưởng Clifford đã chất vấn ông như một luật sư chất vấn một nhân chứng trước tòa (Clifford gốc là một luật sư). Ông hỏi: “Phil, bạn có nghĩ chúng ta có thể giành được chiến thắng quân sự?”. Ông Habib do dự một giây vì ngại rằng câu trả lời có thể làm phật lòng sếp của mình là Dean Rusk:

“Trong những điều kiện hiện nay thì khônlg!”. Liền đó Clifford hỏi tiếp một câu mà sau này Habib, khi kể lại, cho rằng gay go nhất trong sự nghiệp của ông: “Bạn sẽ làm gì nếu quyền quyết định thuộc về bạn?”. Habib im lặng một giây rồi nói: “Ngừng ném bom và thương thuyết”.

Ngày 31-3-1968, trong bài diễn văn với nhân dân Mỹ, tổng thống Johnson thông báo quyết định của ông không ra ứng cử nhiệm kỳ thứ hai “để tránh cho nước Mỹ khỏi bị chia rẽ trong năm bầu cử”. Ngày 13-5-1968 hai phái đoàn Mỹ và VNDCCH khai diễn cuộc hòa đàm tại Paris sau 30 ngày tranh luận với nhau về địa điểm.

Sau Tết Mậu Thân, tinh thần của quân đội Mỹ xuống hẳn. Tháng 3-1968 lại xảy ra vụ thảm sát Mỹ Lai (Sơn Mỹ) làm cho dư luận Mỹ càng phản đối mạnh mẽ cuộc chiến tranh Việt Nam.

Có ba vấn đề được đề cập công khai trong dư luận và báo chí vào thời điểm này tại Sài Gòn: ngưng hay không ngưng ném bom miền Bắc; nhìn nhận hay không nhìn nhận Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam; chính phủ Sài Gòn nên hay không nên tham dự Hội nghị Paris. Trước ba vấn đề này, giới chính trị Sài Gòn phân đôi rõ rệt: phe chống cộng và ủng hộ chính phủ Nguyễn Văn Thiệu đều chủ trương “ba không”: không ngưng ném bom, không nhìn nhận MTDTGPMN và không dự hòa đàm. Giới đối lập, trong đó có tôi, chọn một lập trường ngược lại hẳn.

Tôi không phải là một nhà chính trị chuyên nghiệp. Với tôi, lúc này, các mục tiêu vì dân tộc và hòa bình được đặt lên trên tất cả. Sự chết chóc của người Việt Nam ở hai chiến tuyến đều đau xót như nhau. Những giải pháp nào để chấm dứt cuộc chiến ấy tôi đều ủng hộ. Cuộc hòa đàm sẽ đưa đến sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn? Tôi không biết chuyện ấy sẽ ra sao nhưng có một thực tế rõ ràng là sự tồn tại của chế độ Nguyễn Văn Thiệu không phải là điều mong muốn của đa số nhân dân miền Nam.

… Khi mở lại chồng báo cũ để tìm tài liệu viết Hồi ký này, tôi bắt gặp tờ Tiếng nói Dân tộc đề ngày 22-10-1968 trong đó có bài báo của tôi với hàng tít: “Một bài báo chờ dịp khác đăng: Ha! Ha! Đây là ngày vui dân tộc!”. Nội dung bài báo như sau:

“Chiều ngày 19-10-1968 vào lúc 16 giờ, tôi đang thâu thập tin tức giờ chót cho số báo ra ngày hôm sau thì nhận được một bản tin của hãng Reuter cho hay Mỹ đã đồng ý ngưng oanh tạc miền Bắc và miền Bắc chấp nhận nói chuyện với VNCH. Trong cái giây phút bỗng nhiên thiêng liêng ấy, tôi đã cầm viết và viết bài này để kịp đăng với nguồn tin trên. Nhưng rốt lại nguồn tin trên bị đính chính, bài này không còn giá trị nữa, đúng ra nó phải nằm trong hộc tủ để chờ như mấy chục triệu dân hai miền Nam Bắc vẫn đang chờ… suốt 20 năm qua.
L.Q.C

“Thế là đã hoàn toàn ngưng oanh tạc trên toàn lãnh thổ Bắc Việt. Thế là người dân miền Bắc đã chấm dứt được cảnh sống hãi hùng kéo dài hơn 44 tháng qua, bắt đầu từ vụ tàu Maddox tháng 4 – 1965. Bốn năm chẵn! Bốn năm phải hứng chịu tổng cộng hết cả số bom mà quân Đồng minh đã trút lên nước Đức trong thời gian thế chiến thứ hai – có cơn ác mộng nào bằng!

“Vài lần bị pháo kích trong một năm, Sài Gòn đã không ngủ; cảnh tang tóc thê lương đã phủ trùm, thử hỏi bốn năm oanh tạc, kiếp sống con người với tiếng phản lực cơ gào thét, với tiếng bom vang dội ngày đêm, có còn là một kiếp sống hay chỉ là những chuỗi ngày dài vô tận trốn chạy tử thần?

“Tôi muốn thét lên cho mọi người nghe niềm vui vô tận của tôi. Để nếu trước đây vì cớ gì không thể chia sớt được niềm đau chung của đồng bào ruột thịt ngoài ấy, thì nay ít ra cũng tỏ được không muộn lòng mình. Ở giây phút này, dầu bạn hay thù, dầu quốc gia hay cộng sản, chỉ cần là người Việt biết nghĩ đến những cảnh tang thương trước đây dưới những trận mưa bom, ai ai cũng cảm thấy tự nhiên vùng lên một NIỀM THƯƠNG DÂN TỘC. Có người anh nào thấy em vui mà không vui, có người em nào thấy anh thoát cơn nguy hiểm lại không mừng. Niềm thương ấy là niềm thương ruột thịt, xuất phát từ hơi thở, trong nhịp tim, không cần tìm kiếm, không suy nghĩ mà vẫn cảm nhận đậm đà.

“Tôi không biết ngưng oanh tạc rồi sao. Cộng sản sẽ thắng hay đó là dấu hiệu cộng sản bắt đầu lùi. Tôi quên suy tính. Tôi thấy cần vui cái vui tận cùng cái đã. Trong giây phút tâm hồn lâng lâng, tôi chợt nghĩ bom ngoài Bắc ngừng dội, tiếng súng trong Nam hết nổ. Ha! Ha! Đó là ngày vui của dân tộc. Những buổi đồng bào di cư bỗng chốc lóe lên hình ảnh một buổi chiều vàng gặp lại cha già mẹ yếu bên lũy tre xanh xiêu vẹo vì bom đạn. Những bà mẹ già trong Nam đứng ngồi không yên nhìn ra đồng ruộng thẳng tấp trông ngóng bóng con về.

“Tôi mơ ngày vui dân tộc ấy”.

Một bài báo quả là hồn nhiên chính trị. Với không ít người còn coi đó là ngây thơ chính trị.

Thật sự vào cuối tháng 10-1968, báo chí Mỹ đã “ngửi” thấy từ Washington sắp sửa có một quyết định quan trọng chung quanh việc ngưng oanh tạc miền Bắc để phá vỡ bế tắc về hòa đàm giữa Mỹ và Bắc Việt. Tổng thống Johnson đã có ý định sẽ công bố lệnh này vào ngày 31-10 và bắt đầu cuộc nói chuyện với Bắc Việt ngày 2-1-1968. Nhưng trước khi ra quyết định sau cùng, tổng thống Johnson muốn nghe ý kiến của người có tiếng nói trọng lượng nhất trong vấn đề này: tướng Creighton Abrams, Tổng tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam. Tướng Abrams lên chiếc C -141 từ Sài Gòn bay suốt đêm và đến phi trường quân sự Andrews vào lúc 1 giờ sáng. Abrams được đưa ngay đến Washington và gặp tổng thống Johnson cùng các phụ tá thân cận tại nhà Trắng vào lúc 2 giờ 30 sáng.

Câu hỏi đầu tiên của Johnson đặt ra với Abrams: “Với hiểu biết sáng suốt của ông về tình hình Việt Nam, ông có hối tiếc hay do dự khi có quyết định ngưng ném bom miền Bắc Việt Nam?”. Tướng Abrams: “Thưa ngài, không”. Câu hỏi tiếp theo của Johnson: “Nếu là tổng thống, ông có hành động như thế?”. Abrams trả lời “Sẽ không do dự” và thêm rằng: “Tôi không nghĩ đó là điều đúng đắn phải làm mà là một việc thích đáng phải làm”.

Nhưng thời điểm này, tại Mỹ đã khởi đầu cuộc chạy đua vào nhà Trắng. Johnson muốn hòa đàm về Việt Nam là khởi đầu tốt đẹp để ứng cử viên Đảng Dân chủ có tham vọng thay ông có nhiều thuận lợi hơn ứng cử viên Richard Nixon của Đảng Cộng hòa. Biết được chỗ yếu này, tổng thống Thiệu tìm cách khai thác tình hình chính trường Mỹ có lợi cho mình. Mặt khác chính Nixon cũng cho người thân thuộc móc nối Thiệu để khuyến khích Thiệu đối đầu lại áp lực của Washington và làm trì hoãn ý đồ ngưng ném bom của tổng thống Johnson trong lúc không còn bao lâu nữa nhiệm kỳ của Johnson kết thúc. Tổng thống Thiệu tính rằng nếu ứng cử viên của Đảng Dân chủ là Hubert Humphrey đắc cử thì đồng nghĩa “chính phủ liên hiệp sẽ được thành lập trong 6 tháng; nhưng nếu Nixon trúng cử thì vẫn còn hi vọng”. Trong cuốn sách “No Peace, No Honor: Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam” của tác giả Larry Berman đã tiết lộ bộ trưởng Mỹ Clark Clifford tố cáo ý đồ của Thiệu lợi dụng cuộc bầu cử ở Mỹ là “thối như cứt ngựa” (horseshit).

Ngày 28-10-1968, theo chỉ thị của tổng thống Johnson, đại sứ Mỹ Ellsworth Bunker đến gặp tổng thống Thiệu thông báo rằng ngày 31-10 vào lúc 8 giờ chiều, giờ Washington, tổng thống Mỹ sẽ thông báo chính thức ngừng ném bom, và cuộc gặp phái đoàn Bắc Việt sắp tới sẽ là ngày 6-11 sau khi cuộc bầu cử tổng thống Mỹ diễn ra. Tổng thống Mỹ hi vọng rằng tổng thống Thiệu sẽ tán đồng sự công bố này. Thay vì đáp ứng lời yêu cầu của Johnson, Thiệu xuất hiện trước quốc hội lưỡng viện (có cả Hạ viện lẫn Thượng nghị viện) chỉ trích Washington với những lời lẽ mà đại sứ Bunker gọi là “nẩy lửa”. Thiệu bày tỏ quan điểm “tẩy chay” cuộc hòa đàm. Còn phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, ngoài hành lang Quốc hội, nói với một số dân biểu, nghị sĩ rằng quyết định ngưng ném bom của tổng thống Johnson khiến “chúng ta không thể tiếp tục tin người Mỹ - họ đúng ra chỉ là một đám lừa đảo” (“a band of crooks” – trích trong “The Vietnam War – Day by day” của John S. Bowman). Trong hồ sơ của CIA được công khai sau này có một báo cáo ghi lại lời tố cáo của Thiệu về quyết định của tổng thống Johnson là “không khác gì sự phản bội của Mỹ khi bỏ rơi Tưởng Giới Thạch sau các cuộc thương lượng ở Yalta, Teheran và Casablanca”.

Hai người làm gạch nối Thiệu với Nixon để chống lại Johnson là Anna Chennault và Bùi Diễm – đại sứ của chế độ Sài Gòn tại Washington. Anna Chennault là vợ góa của tướng Claire Chennault – một anh hùng không quân Mỹ. Hồ sơ của FBI được tham khảo tự do tháng 12 -2000 tiết lộ bà Chennault thông qua Bùi Diễm liên tục thúc đẩy Thiệu giữ vững lập trường không hợp tác với tổng thống Johnson. Bà ta nói rõ mình nhận được ý kiến từ “ông chủ” (boss) của bà, tức từ Nixon. Nhìn thấy ý đồ của Thiệu, tổng thống Johnson nói với Bộ trưởng quốc phòng Clark Clifford rằng Thiệu là một kẻ nói dối và một con người hai mặt (a liar anh a double – crosser).

Phía sau sự kiện chính phủ Thiệu nghe lời Nixon phá vỡ kế hoạch hòa đàm của tổng thống Johnson hồi năm 1968, người ta phát hiện vai trò xấu xa của Henry Kissinger trong âm mưu này! Vào thời điểm đó, Kissinger là nhân vật thân cận của thống đốc Nelson Rockefeller và từ chỗ đứng này trong phe Dân chủ, ông trở thành một thành viên không chính thức trong ban tham mưu chiến lược hòa đàm của tổng thống Johnson. Thấy trước rằng ứng cử viên của đảng Dân Chủ trong cuộc bầu cử tổng thống sắp tới là Hurbert Humphrey (đang là phó của tổng thống Johnson) khó thắng đối thủ đảng Cộng Hòa là Richard Nixon, Kissinger chơi trò hai mặt: vẫn đứng trong ban tham mưu của Johnson nhưng làm việc ngầm cho phe Nixon với mục đích giành một địa vị quan trọng trong chính phủ tới nếu Nixon đắc cử! Ông ta đã thông báo trực tiếp cho Nixon biết các chi tiết quan trọng trong kế hoạch kết thúc chiến tranh của tổng thống Johnson và tham mưu cho Nixon cải cách đối phó. Nhờ các thông tin quí giá do Kissinger cung cấp, phe Nixon liên hệ với chính phủ Thiệu qua trung gian của Bùi Diễm – đại sứ Sài Gòn tại Mỹ - liên kết nhau phá vỡ kế hoạch thương thuyết hòa bình với Hà Nội của chính phủ Johnson. Nixon hứa với Thiệu nếu ông ta thắng cử, Thiệu sẽ tại vị thêm bốn năm nữa và lúc đó sẽ có những điều kiện thương lượng thuận lợi hơn cho chính phủ Thiệu (nhưng thực tế bốn năm sau với Nixon, ông Thiệu đã phải chịu đắng cay và nhục nhã hơn rất nhiều).

Lúc đó tuy Kissinger không phải là thành viên chính thức nhưng được trưởng đoàn thương thuyết của tổng thống Johnson là Averell Harriman xem là một nhân vật cốt cán trong ê kíp mình. Richard Holbrooke, trợ lý Bộ trưởng ngoại giao của chính phủ Johnson sau này cho biết: “Henry là người duy nhất ngoài chính phủ mà chúng tôi cho phép tham gia các cuộc thảo luận về hòa đàm”. Ông Holbrooke nói thêm rằng mọi người rất tin tưởng Kissinger nên không ai ngờ rằng trong ê kíp thương thuyết của chính phủ Johnson lại bị cài người nằm trong chiến dịch tranh cử của Nixon.

Đề cập trở lại dư luận tố cáo ông và Kissinger tiếp tay cho Nixon phá vỡ nỗ lực hòa đàm của chính phủ Johnson nhằm cản trở ứng cử viên Dân Chủ thắng cử, trong hồi ký của mình (In the Jaws of History) ông Bùi Diễm gián tiếp xác nhận sự tố cáo này bằng cách thú nhận rằng: “Ông Humphrey (ứng cử viên tổng thống của đảng Dân Chủ) và những nhân vật trong đảng Dân Chủ khiến tôi thất vọng vì những người này trước đây ủng hộ chính sách can thiệp vào Việt Nam bao nhiêu thì nay lại tìm cách lảng ra bấy nhiêu. Bởi thế phản ứng tự nhiên của tôi là bắt đầu ngả về phía đảng Cộng Hòa rồi từ đó cũng gặp nhiều bạn trong đảng Cộng Hòa”. Bùi Diễm còn nhắc lại một mật điện của ông đề ngày 23-10-1968 gửi cho tổng thống Thiệu khuyến khích Thiệu tiếp tục giữ lập trường cứng rắn để đối đầu áp lực của tổng thống Johnson: “Nhiều bạn bè thuộc đảng Cộng Hòa tiếp xúc tôi và khuyến khích chúng ta giữ vững lập trường”.

Thái độ của dân chúng và giới đối lập ở miền Nam lúc này phần đông đều muốn chính phủ Sài Gòn cử phái đoàn đến Paris để sớm chấm dứt chiến tranh. Lập trường cứng rắn không dự hòa đàm của ông Thiệu không được hậu thuẫn mạnh mẽ, ngoại trừ phe chống cộng.

Tác giả quyển “The Trial of Henry Kissinger” (Phiên tòa xét xử Henry Kissinger – Nhà xuất bản Verso, London – New York) là Christopher Hitchens coi Kissinger là một tội phạm chiến tranh xứng đáng đưa ra tòa án Nuremberg hay The Hague. Sau khi phá vỡ cuộc hòa đàm 1968 của chính phủ Johnson, bốn năm sau (1972), Kissinger trở thành “kiến trúc sư” của Hiệp định Paris được chính phủ Nixon ký kết với những điều kiện gần giống hoàn toàn những điều kiện mà thời chính phủ Johnson đã sẵn sàng chấp nhận nếu không có sự phá bĩnh từ bên trong của Kissinger (và Bùi Diễm). Tác giả Christopher Hitchens coi Kissinger là kẻ gây ra tội ác chống lại nhân loại vì rằng cuộc chiến đáng lý có thể chấm dứt từ năm 1968 cùng với những điều kiện của năm 1972, đã kéo dài thêm bốn năm “khiến cho có thêm ba triệu thường dân Việt Nam bị thương vong hoặc mất nhà cửa, 31.205 lính Mỹ, 86.101 lính VNCH và 475.609 quân địch bị thiệt mạng” (theo tài liệu của Lầu Năm Góc). Kết quả thật mỉa mai: Kissinger không bị đưa ra Tòa án Nuremberg hay The Hague mà lại được trao tặng giải Nobel hòa bình!

Theo Christopher Hitchens, Kissinger còn là người chịu trách nhiệm chính về một hành động tội ác khác: vụ “bình địa” Kiến Hòa. Vụ thảm sát ở Mỹ Lai chẳng nghĩa lý gì so với cuộc tàn sát ở Kiến Hòa, xảy ra một năm sau (tháng 3-1969), lúc đó Henry Kissinger là người chỉ huy cuộc chiến Việt Nam. Theo báo cáo của Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Robert McNamara ngày 22-1-1968 với Thượng nghị viện (thời tổng thống Johnson) thì không có đơn vị Bắc Việt nào có mặt ở đồng bằng sông Cửu Long lúc đó. Do đó không thể viện lý do nhằm chống lại sự tràn ngập của quân Bắc Việt để tiến hành cuộc “tẩy sạch” vùng này.

Phóng viên Kevin Buckley, trưởng văn phòng Newsweek tại Sài Gòn đã tố cáo vụ tàn sát ở Kiến Hòa tháng 3 -1969 trên tờ báo (ngày 19-6-1972) như sau:

“… Theo một viên chức khoảng 5000 người dân thường bị hỏa lực của Mỹ giết chết trong cuộc “bình định” ở Kiến Hòa. Sự chết chóc ở đây khiến cho cuộc thảm sát ở Mỹ Lai không thể nào so sánh. Sư đoàn 9 (Ninth Division) huy động tất cả sức mạnh vào cuộc hành quân này. 8000 lính bộ binh cày nát Kiến Hòa nhưng rất hiếm xảy ra đụng độ với địch. Cuộc hành quân được 50 khẩu đại bác, 50 trực thăng hỗ trợ. Máy bay đã thực hiện tất cả 3.381 lần tấn công ném bom trong cuộc hành quân mang tên “Speedy Express” này. Trên một trực thăng có kẻ khẩu hiệu “Death is our business and business is good” (tạm dịch “Bắn giết là công việc của chúng tôi và đó là công việc thú vị”).

“Thật khó giải thích về sự khác biệt khủng khiếp giữa số xác người được đếm (11.000) và số vũ khí đã tịch thu được (748). Chỉ có thể giải thích: đa số những xác chết ấy là của người dân vô tội…”

Theo Christopher Hitchens, từ khi Henry Kissinger trở thành cố vấn an ninh của Nixon không có một quyết định nào trong cuộc chiến ở Việt Nam lại không được thông qua ông ta. Cho nên tướng Telford Taylor, từng đứng đầu Ủy ban điều tra tại tòa án Nuremberg, đã viết trong quyển Nuremberg và Việt Nam rằng có thể đưa Henry Kissinger ra xét xử như đã xét xử người chỉ huy quân đội của Nhật hoàng Hirohito là tướng Tomoyuki Yamashita vì ông ta đã bị không kiểm soát quân Nhật và để xảy ra các vụ tàn sát dân thường. Yamashita đã bị xử treo cổ. Ngoài những tội ác gây ra ở Việt Nam, Campuchia, Lào, Kissinger còn bị coi là người chịu trách nhiệm các tội ác khác xảy ra ở Bangladesh, Chile, Síp, Đông Timor…

…Trở lại vấn đề hòa đàm Paris, sau cùng thì chính phủ Thiệu cũng không thể đối đầu với áp lực của Washington, phải cử phái đoàn do đại sứ Phạm Đăng Lâm dẫn đầu dự hội nghị bắt đầu ngày 25-1-1969. Nguyễn Cao Kỳ được chỉ định là cố vấn chính trị của phái đoàn Sài Gòn. Có một chuyện bên lề được kể rộng rãi về thái độ của nước Pháp chủ nhà, đối với phó tổng thống Kỳ. Tổng thống Pháp là tướng De Gaulle từ chối tiếp ông Kỳ với nghi thức chính thức. Nhưng ông Kỳ vẫn đến Paris với danh nghĩa cố vấn của phái đoàn Sài Gòn. Ngay lúc ông Kỳ còn trên đất Pháp, trong một cuộc họp báo của tổng thống De Gaulle, một nhà báo đã hỏi De Gaulle về Nguyễn Cao Kỳ thì được De Gaulle hỏi lại “Qui est Ky?” (Ky là ai?). Một cách chơi chữ của De Gaulle coi thường ông Kỳ. Vai trò của ông Kỳ dù không công khai tại Paris nhưng cũng góp phần làm cho tư thế của phái đoàn VNCH càng sút giảm. Bởi hình ảnh của tướng Nguyễn Cao Kỳ là “diều hâu 100%”.

Đầu tháng 2-1969, phụ tá đặc biệt của tổng thống Thiệu là Nguyễn Cao Thăng đến tòa soạn báo Tiếng Nói Dân Tộc mời tôi tham gia một phái đoàn trí thức nhân sĩ miền Nam thăm chính thức một số nước châu Á, châu Âu và châu Mỹ với mục đích làm cho thế giới hiểu thêm về miền Nam và chế độ Sài Gòn. Nhưng tôi nói liền với ông Thăng: tôi là một dân biểu đối lập, không thể tham gia một cuộc “giải độc” cho chính phủ Nguyễn Văn Thiệu được. Ông Thăng bảo tôi hãy yên tâm: “Ông dân biểu không có trách nhiệm làm việc đó. Ông vẫn có thể giữ lập trường độc lập của ông, miễn ông không công khai tuyên truyền cho cộng sản”.

Đoàn gồm có cựu trung tướng Trần Văn Đôn – đang là nghị sĩ quốc hội; Hà Thúc Ký – một lãnh tụ đảng chính trị (Đại Việt); bà nghị sĩ Nguyễn Phước Đại; nghị sĩ Trần Văn Lắm sau này là Tổng trưởng Giáo dục; GS. Nguyễn Xuân Oánh – cựu phó thủ tướng và thống đốc Ngân hàng quốc gia Sài Gòn, Nguyễn Gia Hiến – công giáo chống cộng và khoảng ba hay bốn người nữa mà tôi không nhớ tên. Đoàn được các chính phủ thân chế độ Sài Gòn như Nhật, Bỉ, Ý, CHLB Đức, Hà Lan, Pháp, Anh, Mỹ đón tiếp trân trọng nhưng không vượt qua khuôn khổ ngoại giao. Khi đoàn đến Nhật, người được chủ nhà đón tiếp nồng hậu nhất là giáo sư Nguyễn Xuân Oánh vì từng du học tại đây và sau đó trở lại dạy đại học trên đất Nhật. Ông Oánh có buổi nói chuyện với sinh viên Nhật tại Tokyo bằng tiếng Nhật.

Rời Nhật đến châu Âu trên máy bay Janpan Airlines qua ngả Anchorage, tôi có dịp đặt chân lên Bắc Cực (Alaska). Một sự cố nhỏ xảy ra với tôi: khi máy bay dừng lại để mua đồ lưu niệm, thì tôi không làm sao mang lại đôi giày da của mình. Số là tất cả hành khách đi máy bay đường dài của Japan Airlines đều được phát tất ấm và dép vải để được đi thoải mái trong cuộc hành trình. Khi nào xuống máy bay mới mang giày của mình trở vào. Đôi giày da mới toanh của tôi vừa đóng tại Sài Gòn, do nhiệt độ quá lạnh trong máy bay, đã co rúm lại. Tôi cố gắng thế nào cũng không thể mang vào. Thế là tôi đành đặt chân nửa trong nửa ngoài đôi giày rồi xuống máy bay cho kịp với các hành khách khác. Tất cả hành khách đến Anchorage đều được Japan Airlines cấp cho một giấy chứng nhận đã đặt chân lên Bắc Cực.

Đoàn đến Paris 9 giờ ngày 18-1-1969, cũng trong ngày này, một tiếng rưỡi sau (10 giờ 30), Hội nghị Paris mở rộng chính thức khai diễn tại Hotel Majestic. Tôi và ông Hà Thúc Ký được đại sứ Phạm Đăng Lâm, trưởng đoàn VNCH mời gặp tại nơi làm việc của đoàn (đặt tại 101, Avenue Raymond Poincafé) với sự có mặt của các thành viên như luật sư Vương Văn Bắc, luật sư Nguyễn Phương Thiệp, giáo sư Nguyễn Ngọc Huy để nghe báo cáo những diễn tiến mới nhất của hội nghị. Đoàn cũng gặp chính thức phái đoàn Mỹ do Cyrus Vance tiếp. Riêng tôi và bà Nguyễn Phước Đại có dịp mở một cuộc họp báo dành cho các nhà báo Pháp hoạt động trong quốc hội (presse parlementaire) tại Thượng viện Pháp. Cuộc họp báo trực tiếp bằng tiếng Pháp, không thông qua thông dịch. Chủ yếu chúng tôi vận động giải pháp chấm dứt chiến tranh, nói lên sự tha thiết của nhân dân Việt Nam muốn thấy đất nước mình được thống nhất. Tôi còn nhớ bà Đại đã gây xúc động với các nhà báo Pháp khi nói về cuộc chiến ở Việt Nam. Về phần tôi, tôi lưu ý dư luận Pháp và quốc tế rằng trong cuộc chiến ở miền Nam, ngoài hai phe đối nghịch còn có những người Việt Nam đứng giữa là những người thầm lặng không chấp nhận Mỹ - Thiệu nhưng cũng không xếp về phía Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam.

Tại Paris, trong khuôn khổ riêng, tôi đã gặp và ăn cơm trưa với nhà báo Jacques Decornoy của báo Le Monde, lúc đó phụ trách khu vực Đông Nam Á, theo sự giới thiệu của nhà báo Jean Claude Pomonti thường trú tại Sài Gòn. Sau cuộc tiếp xúc, Jacques Decornoy đề nghị tôi viết một bài báo trên mục “Tribune internationnale” của Le Monde để đánh động dư luận quốc tế về sự thảm khốc của cuộc chiến ở Việt Nam và tình cảnh của những người Việt đứng giữa. Jacques Decornoy cũng ủng hộ quan điểm của một số người ở miền Nam vào thời điểm ấy là cần có một thành phần thứ ba. Tôi viết bài báo đó tại Paris và giao cho J. Decornoy trước khi rời nước Pháp. Tuần sau đó, bài báo được Le Monde đăng tải.

Đại sứ Phạm Đăng Lâm có mời tôi một buổi riêng ăn tại nhà hàng L’ Orée du Bois ở Bois de Boulogne. Đây là một buổi chiêu đãi có tính cách riêng tư. Đại sứ Lâm là bạn học của cha tôi thời cả hai người học tại trường Collège Mỹ Tho.

Nhưng chuyện đáng nhớ nhất trong chuyến đi này là khi đến nước Anh. Trong nhiều hoạt động của đoàn có buổi dự chiêu đãi do đảng cầm quyền lúc bấy giờ (Công Đảng) tổ chức tại Điện Westminster, trụ sở quốc hội Anh. Phía chủ nhà, ngoài các lãnh tụ của đảng, còn có hai đại diện đoàn thanh niên của Công Đảng. Trước khi buổi tiệc bắt đầu, chủ nhà phát biểu rồi đến khách phát biểu. Nhưng đại diện của đoàn miền Nam là Hà Thúc Ký chưa kịp nói gì thì một trong hai đại biểu thanh niên Công Đảng đứng lên phủ nhận tính cách đại diện miền Nam Việt Nam của đoàn, anh cho rằng đại diện hợp pháp duy nhất của miền Nam Việt Nam là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Trên ngực của anh thanh niên người Anh có đeo một huy hiệu của MTDTGPMN. Tôi nhìn qua anh thanh niên ngồi bên cạnh, cũng thấy một huy hiệu MTDTGPMN trên ngực. Rồi cả hai đồng loạt đứng lên hô to khẩu hiệu phản đối đoàn nhân sĩ trí thức Sài Gòn và hoan hô MTDTGPMN. Đến đây người chủ trì buổi chiêu đãi cho gọi bốn viên cảnh sát vào, cứ hai viên cảnh sát “kẹp” một chàng thanh niên, đưa ra khỏi phòng ăn một cách khá êm. Vào lúc đó, trong đầu tôi xuất hiện một suy nghĩ mà trước đây còn lờ mờ: rõ ràng chế độ Nguyễn Văn Thiệu đã bị đánh bại trên mặt trận ngoại giao nhân dân.

Tại CHLB Đức, đoàn đã được đưa đi xem “bức tường Berlin”. Đứng trên một vọng gác sát tường bên phía Tây, tôi nhìn qua Đông Đức. Đó là một thế giới xa lạ và đầy “bí hiểm” đối với tôi. Sự hiểu biết của tôi về “chế độ cộng sản” nói chung và về Đông Âu nói riêng, lúc đó còn lờ mờ lắm.

Nên lúc đó nhìn qua bên kia “bức tường Berlin”, tôi cảm thấy điều gì đó không yên ổn. Những con chó berger có mặt dọc theo chân tường phía bên Đông Đức càng làm sự cảm nhận nặng nề hơn. Sau khi đất nước thống nhất, năm 1980 tôi có dịp sang thăm Liên Xô trong đoàn trí thức miền Nam (cùng các anh chị: Bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Phượng, giáo sư Trần Văn Tấn, giáo sư Trần Phước Đường, tiến sĩ Trần Xuân Danh, nữ nghệ sĩ Phùng Há, tiến sĩ Tôn Nữ Thị Ninh, nhà báo Tô Nguyệt Đình, nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba v.v…). Ước ao của tôi lúc đó là được đến CHDC Đức, được viếng “bức tường Berlin” từ phía Đông, để đối chiếu cái nhìn từ hai phía. Nhưng tôi không có cơ hội đạt được mong muốn đó trước khi bức tường bị triệt hạ. Tuy nhiên chuyến đi Liên Xô năm 1980 đã để lại trong ký ức tôi những ấn tượng đẹp về một đất nước xã hội chủ nghĩa (dù nhiều mặt chưa hoàn chỉnh và yếu kém). Tôi có cảm tình với Liên Xô của năm 1980 mà tôi có dịp đến và thăm viếng nhiều nơi. Từ Moscow, tôi đoán được phần nào phía bên này “bức tường Berlin”. Sau khi “bức tường Berlin” được hạ xuống, hai nước Đức thành một, khi những thực tế đối chiếu hai chế độ xã hội trở thành trực diện thì người ta mới nhận ra rằng ở chế độ cộng sản ngày trước cũng có thật nhiều điều tốt đẹp để cho người dân Đông Đức cũ thật sự nhung nhớ, luyến tiếc. Các tờ báo thuộc cánh hữu ở châu Âu cũng nhìn nhận thực tế này bên cạnh những gì mà họ chỉ trích, tấn công.

Khi đoàn trí thức nhân sĩ miền Nam rời châu Âu tiếp tục chuyến đi sang Mỹ, lúc ấy cận Tết nên tôi không theo đoàn. Từ nước Anh, tôi về thẳng Sài Gòn. Không đến Mỹ trong dịp này, tôi không có dịp nào khác đến nước Mỹ. Sau năm 1975, hai lần tôi xin nhập cảnh vào Mỹ để thăm mẹ của tôi đã 82 tuổi nhưng đều bị Tổng lãnh sự Mỹ tại TP. HCM từ chối.

Các thành viên của đoàn trở về Sài Gòn đều lần lượt tham gia chính phủ Thiệu hoặc đứng vào tập hợp đảng phái của Thiệu. Chỉ có hai người vẫn đứng ngoài chính quyền là bà nghị sĩ Nguyễn Phước Đại và tôi. Trong buổi chiêu đãi đoàn tại Dinh Gia Long (nay là Bảo tàng TP. Hồ Chí Minh đường Lý Tự Trọng) sau chuyến đi, tôi có nghe tổng thống Thiệu chính thức mời bà Đại tham gia chính phủ nhưng bà Đại khéo léo từ chối. Riêng với tôi, qua trung gian là giáo sư Nguyễn Xuân Oánh đến gặp tôi tại tòa soạn báo Tiếng Nói Dân Tộc ông Thiệu mời tôi tham gia đảng do ông sắp sửa thành lập và đứng đầu. Tôi nói với ông Oánh cảm ơn lời mời này nhưng sự chọn lựa chính trị của tôi vẫn là đứng ngoài chính quyền, tiếp tục hoạt động đối lập với chính phủ. Ngày 25-5-1969, Nguyễn Văn Thiệu cho ra mắt mặt trận 6 đảng do ông đứng đầu, trong đó có Đại Việt Cách Mạng, Lực lượng Đại Đoàn Kết (Công giáo di cư), Dân Xã (Hòa Hảo), Việt Quốc… Trái với mong mỏi của ông Thiệu, mặt trận không được dư luận ủng hộ và bị báo chí nước ngoài tại Việt Nam gọi là “liên minh sáu quả trứng ung”!

Trong thời gian này, ông Hoàng Đức Nhã, Tổng cục trưởng Tổng cục Dân vận chiêu hồi là cánh tay mặt của ông Thiệu, cũng tiếp cận tôi qua sự móc nối của Phạm Ngọc Kha, đã từng quen biết tôi khi còn học chung ở Lycée Yersin Dalat (Kha từng là đổng lý văn phòng Bộ Phát triển sắc tộc). Bản thân ông Nhã cũng là một cựu học sinh trường Yersin. Nhã mời hai vợ chồng tôi cuối tuần đến Suối Tre, địa điểm giải trí của Plantation SIPH trên đường đến Xuân Lộc, ăn trưa, đánh quần vợt và bơi lội. Cùng tham gia có một số tổng trưởng thuộc cánh của Nhã. Có lẽ Nhã thăm dò để lôi kéo tôi đứng về phía Nhã và chính phủ Thiệu. Hai vợ chồng tôi tham dự những Weekend như thế khoảng ba, bốn lần thì không đi nữa. Lý do: giữa tôi và Hoàng Đức Nhã không thể liên kết với nhau. Bởi cho dù có những buổi đi chơi chung cuối tuần, tôi vẫn liên tục viết báo và lên diễn đàn Hạ nghị viện tấn công chính quyền Nguyễn Văn Thiệu.

Hoàng Đức Nhã có liên hệ gia đình rất gần với ông Thiệu (hình như là anh em cô cậu) đã từng học tại Mỹ nên có phong cách làm việc và suy nghĩ rất Mỹ. Khi Nhã về nước và được Thiệu sử dụng, Nhã đã gặp sự phản ứng bất lợi từ giới trí thức và công chức thuộc thế hệ cũ. Nhã đã không mang lại cho ông Thiệu thêm một sự ủng hộ nào, trong guồng máy chính quyền cũng như ngoài quần chúng. Nhã đưa vào chính phủ một loạt bộ trưởng trẻ được đào tạo tại Mỹ như ông ta. Thiệu hi vọng với Nhã ông sẽ “nắm” các chính khách Mỹ và chính trường Mỹ sâu sát hơn. Nhã đã từng cáo giác với ông Thiệu: “Người Mỹ là những người có đầu óc kinh doanh (businessmen) họ sẽ bán đứng tổng thống nếu tổng thống không còn mang lợi cho họ”. Trong quyển No peace, no Honor, Larry Berman đã kể lại một đoạn đối thoại giữa Kissinger và thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu về Hoàng Đức Nhã ngày 4-8-1973 tại sân bay Kennedy ở New York như sau:

Kissinger nói với Lý Quang Diệu “Nhã ghét tôi lắm”, rồi hỏi ông Lý Quang Diệu “Cảm tưởng của ông thế nào về Nhã?”. Lý Quang Diệu trả lời “Hắn sáng sủa và tham vọng. Đầy tự tin, hắn tự cho rằng những điều hắn nói đều có trọng lượng đối với Thiệu”. Kissinger kết luận “Điều đó đúng. Nhưng hắn vẫn còn non nớt (immature)”.

Các cuộc tiếp xúc với Hoàng Đức Nhã không để lại ở tôi một ấn tượng đặc biệt nào. Hoàng Đức Nhã có thể là một người có nhiều năng lực nhưng không phải là một chính khách có sức thuyết phục.


12. Từ “Tiếng Nói Dân Tộc” đến “Điện Tín”

Cho đến khi ra tờ Tiếng Nói Dân Tộc, tôi làm tất cả 5 tờ báo: Đuốc Thiêng, Buổi Sáng, Thanh Việt, Bình Minh, Sài Gòn Tân Văn. Tờ Sài Gòn Tân Văn do tôi làm chủ nhiệm bị chính phủ Phan Huy Quát đóng cửa. Tờ Tiếng Nói Dân Tộc là tờ thứ hai tôi trực tiếp làm chủ, ra ngày 17-12-1968 đến trước Tết năm 1970 thì bị chính quyền Thiệu đóng cửa. Lý do đóng cửa chính thức như đã nói: tờ báo chống lại vụ án “Châu–Hồ- Trúc”.

Tôi xin nói thêm về ba người này. Ông Trần Ngọc Châu từng làm trung tá tỉnh trưởng ở Bến Tre có người anh là Trần Ngọc Hiền đại tá tình báo Việt cộng. Qua sự tiếp tay của CIA, Thiệu tìm ra bằng chứng Trần Ngọc Châu có liên lạc với người anh của mình (thời đó tội liên lạc với cộng sản là tội nặng nhất). Nhưng nhiều người cho rằng đó không phải là lý do chính. Châu có quan hệ sâu với nhiều nhân vật Mỹ có thế lực tại Việt Nam và cả tại Mỹ. Theo nhà báo Zalin Grant, người đã từng có mặt tại miền Nam từ 1964 đến 1973 và sau đó đã gặp và trao đổi với Trần Ngọc Châu nhiều lần tại Mỹ (sau 1975) thì ông Châu là người đã từng làm việc chặt chẽ với CIA. Một trong những người rất thân với ông Châu là Edward G. Lansdale, nhà hoạt động tình báo nổi tiếng nhất của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Lansdale từng là cố vấn của tổng thống Ngô Đình Diệm, năm 1966 trở lại Việt Nam làm trợ lý đặc biệt cho đại sứ Henry Cabot Lodge và sau đó cho đại sứ Elslworth Bunker. Grant nói rõ điều này trong quyển sách của ông có tên “Facing the Phonenix” (xuất bản năm 1991). Theo Grant, Trần Ngọc Châu còn là người ảnh hưởng chính đối với John Paul Vann trong đường lối bình định. Vam là một loại quan theo kiểu thực dân Pháp, tự gán cho mình “sứ mạng khai hóa” (mission civilisatrice). Đến Việt Nam từ thập niên 60, Vann đã có mặt tại Ấp Bắc sau khi Mỹ thất bại thảm hại trong trận đánh bằng máy bay trực thăng.

Vào thời điểm Châu bị bắt, năm 1970, đại sứ Bunker và CIA tại Sài Gòn tin rằng Thiệu có thể chiến thắng cộng sản và chương trình bình định của chính quyền Thiệu (chiến dịch Phượng Hoàng) là một thành công. Nhưng Châu và “một số người bạn Mỹ” của ông thì chỉ ra chiến lược mà Thiệu va những người Mỹ ủng hộ Thiệu áp dụng trong cuộc chiến giành dân ở nông thôn là một sai lầm. Đó cũng là một trong những lý do tòa đại sứ Mỹ và CIA đã bật đèn xanh cho Thiệu loại Châu.

Theo Grant, chính Ted Shackley thuộc văn phòng CIA tại Sài Gòn đã theo dõi Châu một thời gian dài và thu thập tài liệu về mối quan hệ giữa Châu và anh mình là Trần Ngọc Hiền để cung cấp cho chính quyền Thiệu có lý do bắt và kết án Châu. Ted Sackley không thuộc cánh của Lansdale, ngược lại còn ác cảm với Lansdale. CIA đã từng dùng Trần Ngọc Châu nhưng khi thấy Châu trở thành một trở ngại cho đường lối của họ ủng hộ chế độ Thiệu thì họ không ngần ngại chối bỏ mối quan hệ này và hy sinh Châu! Trong khi đó Edward G. Lansdale và John Paul Vann vẫn nhất quyết cho rằng dân biểu Châu là “người yêu nước quốc gia” có đầu óc chống cộng mặc dù có quan hệ với anh mình là sĩ quan tình báo Việt cộng.

Tôi không thân lắm với ông Châu khi còn là đồng viện. Trong thời gian ở Quốc hội, tôi thường tránh những quan hệ mà tôi thấy phức tạp. Nhưng với tư cách đồng viện, tôi phản đối quyết liệt việc chính quyền Thiệu bắt Châu, vi phạm quy chế bất khả xâm phạm của đại diện dân cử. Cũng theo nhà báo Zalin Grant, khi biết được chính quyền Thiệu có ý định sẽ bắt Châu, “những người bạn Mỹ” của Châu trong đó có John Paul Vann, tìm cách giấu Châu tại Cần Thơ trong một khu nhà dành riêng cho người Mỹ chỉ cách trụ sở CIA Cần Thơ vài bước. John Paul Vann có ý định đưa Châu ra khỏi Việt Nam qua đường Campuchia. Nhưng dân biểu Châu từ chối, cho rằng trốn đi là tự xóa sinh mệnh chính trị của mình. Khi cảnh sát rằn ri và cảnh sát chìm ùa vào bắt Châu (26-2-1970), một số dân biểu đối lập cố gắng ngăn chặn, đặc biệt là Kiều Mộng Thu chiến đấu đúng nghĩa để bảo vệ ông Châu tới cùng. Lúc đó trên ngực Trần Ngọc Châu có đeo Bảo quốc huân chương – huân chương cao quí nhất của chế độ Sài Gòn – và hai tay cầm cái huy hiệu Quốc hội to bằng gỗ lấy ra từ bục diễn đàn Hạ nghị viện để che chắn cho mình. Nhưng cảnh sát của Thiệu vẫn lôi xềnh xệch Châu từ phòng họp ra tận cửa lớn và kéo anh như một con vật xuống các bậc thang trước Hạ nghị viện rồi ném lên xe chở đi. Dù phía sau vang lên những lời la hét, chửi bới chế độ dữ dội của dân biểu Kiều Mộng Thu.

Dân biểu thứ hai bị tòa án quân sự của Thiệu kết tội liên lạc với cộng sản là ông Hoàng Hồ, một nhà báo, chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ “Trinh Thám”. Thể loại báo của ông Hoàng Hồ lúc đó khá độc đáo, chủ yếu khai thác chuyện các vụ án trong nước và thế giới, có những bài nghiên cứu khá sâu về tội phạm học là ngành chuyên môn mà ông đã theo đuổi khi ông du học ở Pháp. Tôi không rõ tại sao ông bị kết án và làm thế nào ông biến mất khỏi Sài Gòn trước khi chính quyền Thiệu ra tay.

Người thứ ba là Phạm Thế Trúc, cũng là một dân biểu, được giáo hội Phật giáo cử sang Tokyo để nhận tiền và quà của người Nhật gửi tặng cho nạn nhân bão lụt miền Trung. Nhưng tại Nhật, Trúc tham gia các cuộc biểu tình chống chính quyền Sài Gòn và đã tự tay đốt một hình nộm của Thiệu. Dĩ nhiên ông Thiệu không hề tha thứ hành động này. Nếu Phạm Thế Trúc trở lại Sài Gòn, anh sẽ bị bắt ngay. Trong ba người bị chính quyền Thiệu kết án, tôi thân Trúc nhất vì tôi và Trúc cùng học một trường – Lycée Yersin Đà Lạt – và có một năm học chung một lớp (lớp 4ème). Trong lớp- đa số là Tây con – chỉ có hai chúng tôi biết mê các bài thơ của Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Huy Cận, TTKH, Tế Hanh, Hàn Mặc Tử… Mỗi đứa có một tập thơ chép tay, từng câu từng chữ được viết một cách nắn nót. Sau chuyện xảy ra ở Tokyo, tôi không có dịp gặp lại anh. Trúc sống luôn tại Pháp.

Lý do chính thức đóng cửa tờ Tiếng nói Dân tộc là vì tôi đã viết bài phản đối vụ án Châu–Hồ-Trúc. Nhưng nguyên nhân tiềm ẩn là từ khi tờ báo xuất bản, đường lối của TNDT ngày càng đi ngược lại đường lối của chính phủ Thiệu, nhất là các vấn đề liên quan đến chiến tranh và hòa bình. Chính phủ Thiệu dồn tất cả nỗ lực của mình, lúc đầu để ngăn cản Washington không ngừng ném bom miền Bắc. Khi thất bại thì tìm cách ngăn trở và trì hoãn cuộc hòa đàm tại Paris. Ông Thiệu cũng phủ nhận sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam và sự thành lập của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. Trong khi đó Báo TNDT thúc đẩy quá trình chấm dứt chiến tranh, thương lượng hòa bình và đề cao tinh thần hào giải hòa hợp dân tộc. Một bộ phận người dân miền Nam, vào thời điểm 1968-1969, không ràng buộc quyền lợi và địa vị với chính quyền Thiệu có khuynh hướng chung là chờ đợi sự rút quân của Mỹ và một cuộc hòa đàm vời miền Bắc để kết thúc chiến tranh.

Những người như tôi thuộc loại được ưu đãi ở xã hội miền Nam bấy giờ vậy cớ gì chống chế độ, đòi hỏi một kết thúc chiến tranh mà không đoán được nó sẽ ra sao đối với số phận chính trị của mình? Sẵn sàng đánh đổi cái lợi lộc trước mắt rất đảm bảo cho mình để đấu tranh cho một tương lai gần như là một ẩn số hoàn toàn đối với mình, tại sao? Tôi vẫn nhớ cái tâm trạng của mình lúc đó: tôi không tưởng tượng được chỗ đứng chính trị của mình ở đâu khác hơn là vị trí đối lập với chính quyền. Cuộc sống với tôi sẽ mất đi tất cả ý nghĩa nếu không bày tỏ thái độ đối với cuộc chiến, thái độ trước thực trạng đất nước chia đôi mà theo tôi là nỗi bất hạnh lớn nhất của thế hệ mình. Tôi say sưa đấu tranh cho các mục tiêu ấy. Tôi cảm nhận những ưu đãi mà mình đang được hưởng là phù du và trước tình cảnh đất nước đang bị giằng xé đó, mình không thể an lòng thụ hưởng những ưu đãi ấy.

Những tấn công của các đồng nghiệp trong làng báo Sài Gòn như Chu Tử (báo Sống), linh mục Nguyễn Quang Lãm (Xây Dựng) hay Đặng Văn Sung (Chính Luận) cho rằng tôi “ngây thơ chính trị” cũng chẳng làm tôi lung lay.

Những người có suy nghĩ như tôi lúc ấy khá đông, trong giới trí thức, kể cả trong quân đội, trong hàng ngũ công chức và trong dân thường. Suy nghĩ và lập luận của họ rất đơn giản dù chưa biết người cộng sản ra sao nhưng có một điều chắc chắn họ là người Việt Nam. Nếu chiến tranh kết thúc thì cái lớn nhất đạt được là chấm dứt máu đổ. Vấn đề ưu thế chính trị thuộc về ai trở thành thứ yếu. Một trong những nguyên nhân thất bại của chế độ Thiệu trong thời điểm khởi đầu cuộc đấu tranh quyết liệt với người cộng sản và đồng thời với cả người Mỹ - gần như đã bỏ rơi Thiệu khi quyết định rút chân khỏi Việt Nam – là ở chỗ, phía sau chế độ đó không có hậu thuẫn dân chúng và các lực lượng chính trị có uy tín.

Lật lại hồ sơ chiến tranh Việt Nam của FBI và CIA (mà thời gian bảo mật không còn) người ta nhận ra rằng cuộc đối đầu chế độ Thiệu với đường lối Washington – muốn rút chân khỏi Việt Nam – đơn độc làm sao! Gần như chỉ có ông Thiệu và Hoàng Đức Nhã chiến đấu. Chính phủ Thiệu không dấy lên được một phong trào quần chúng đúng nghĩa làm hậu thuẫn cho quan điểm chính trị của mình. Tại Mỹ ông Thiệu chỉ có “đầu cầu” rất trơ trọi là đại sứ Bùi Diễm tiếp tay. Phó tổng thống Kỳ cũng đứng về phía hai anh em ông Thiệu, chống lại đường lối hòa đàm của Washington, nhưng không có sự phối hợp thật sự giữa hai ông Thiệu và Kỳ. Mâu thuẫn quyền lực giữa Thiệu và Kỳ vẫn quá nặng nề.

Do đó cái cảnh lạc lõng của phái đoàn VNCH tại Paris càng thảm hại. Trên tờ Tiếng Nói Dân Tộc ngày 5-01-1969 tôi có ghi lại lời thuật của luật sư Vương Văn Bắc, một thành viên của đoàn, về tình hình của đoàn tại Paris như sau:

“… Paris rất lạnh, như chưa bao giờ lạnh như thế vào dịp Giáng Sinh, lạnh nhất kể từ năm 1873 đến nay. Tuyết rơi trắng trên thân xe và trên mặt đất rừng Boulogne. Anh Nguyễn Xuân Phong, anh Nguyễn Ngọc Huy và tôi thường đi bộ trong rừng để bàn những vấn đề đất nước, một lúc cả giày lẫn tất đều ướt thẫm. Trở về phòng riêng không thể được vì lẽ đơn giản là không có phòng riêng. Mấy người ở chung nhau một phòng lớn. Những lúc đêm khuya, tôi tiếp tục đọc sách vì không ngủ được. Giáo sư Huy phải dùng khăn lông lớn che mắt ngủ. Buổi sáng chúng tôi xếp hàng để sử dụng phòng tắm độc nhất. Phải nói chúng tôi hoạt động trong một môi trường ghẻ lạnh, đối đầu những kẻ thù hăm hở và bên cạnh những người bạn ngập ngừng.

“Hôm đầu tiên, anh Huy và tôi xuống phố mua áo len, mũ khăn về để chống cái lạnh của Paris. Về tới nhà, vừa mới mở cửa xe bước xuống, hai tay lễ mễ bưng gói đồ thì mấy ông phóng viên đã xuất hiện, chụp hình và quay phim lia lịa. Kinh nghiệm “thập mục sở thị” ấy làm cho chúng tôi không muốn đi đến đâu.

“Tôi thấy rạp chiếu bóng chiếu mấy phim có tiếng như La Chamade của Francoise Sagan hay La Prionniere của Clouzot cũng muốn đi coi nhưng rồi lại thôi vì người ta cho là du hí. May chúng tôi có vài cuộn băng nhạc Việt Nam và báo chí ở bên nhà gửi sang. Chị Vui (tức Nguyễn Thị Vui) nóng lòng muốn biết dư luận ở bên nhà ra sao đối với cuộc hòa đàm. Ngoài ra dĩ nhiên chị cũng nóng lòng muốn biết số phận của Lệnh Hồ Xung trong Tiếu Ngạo Giang Hồ ra sao”.

Nhớ lại mấy chục năm, đọc đoạn này, tôi thấy lòng mình chua xót thế nào ấy. Họ đơn độc và chẳng có chút khí thế gì khi “ra trận”. Họ đến Paris nhưng đã thấy trước sự thất bại, bởi họ phải bảo vệ cho một chế độ không thể bảo vệ nữa. Tôi nhớ như in những gương mặt xưa: một Vương Văn Bắc lúc nào cũng mặc bộ đồ vét với cà vạt chỉnh tề, ngay cả khi đi dạy ở Học viện Quốc gia Hành chính. Thời tôi còn là sinh viên HVQGHC, chỉ có giờ của giáo sư Bắc là tôi không cúp cua. Ông chuẩn bị bài giảng nghiêm túc, nói trực tiếp chứ không cầm tài liệu đọc lê thê như các giáo sư khác. Bỏ qua vấn đề khác biệt chính kiến – ông là người miền Bắc di cư, lập trường chống cộng – thì theo tôi, ông là một trí thức có tư cách. Chị Nguyễn Thị Vui, luật sư, là một trường hợp khá phức tạp. Chị đã từng gần gũi với những người cộng sản trong thời chống thực dân Pháp nhưng rồi tách dần ra nhưng vẫn chưa thật sự tìm ra một bến bờ mới cho cuộc sống tinh thần của mình. Chị vẫn bơi giữa dòng. Trong giới trí thức ở miền Nam bấy giờ chị được đánh giá là một nhân vật trong sáng, có nhiều thiện chí với đại cuộc. Nghe đâu cả hai vợ chồng chị đều từng đứng trong hàng ngũ phong trào thanh niên Việt Nam cộng sản ở Châu Âu những năm 50 khi đi du học ở Pháp. Chồng chị là kỹ sư Lâm Văn Sĩ. Có lúc chị tự nhận mình là một “người Việt đứng giữa”. Chị tiết lộ riêng với tôi về sự thân thiết với một vài nhân dân trong MTDTGPMN. Có người đã đến tiếp xúc với chị ngay tại văn phòng luật sư của chị ở đường Nguyễn Du trước 1975. Khi chế độ Sài Gòn sụp đổ, chồng chị, anh Lâm Văn Sĩ, có đến sinh hoạt ở Hội trí thức yêu nước ở đường Nguyễn Thông, nhưng chị thì ở nhà, hạn chế các cuộc tiếp xúc, nhất là tránh gặp những người quen từ trong rừng trở về.

Khi ông Thiệu giao cho Nguyễn Cao Kỳ thành lập phái đoàn đại diện VNCH tại Hội nghị Paris, ông Kỳ đã thuyết phục được luật sư Vui tham gia. Có lẽ chị nghĩ đây cũng là một cách đóng góp cho viêc chấm dứt chiến tranh. Nhưng ông Kỳ thì có ý đồ là dùng chị Vui để “đối xứng” và đối đầu với một nhân vật nữ ở trong phái đoàn chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam là bà Nguyễn Thị Bình. Không hiểu từ đâu, lúc đó lại có dư luận cho rằng bà Vui và bà Bình là bạn cũ với nhau. Kỷ niệm 30 năm ký Hiệp định Paris (năm 2003) tôi có dịp gặp bà Bình trong một buổi tiệc do Ủy ban Việt kiều tại TP. HCM tổ chức tại nhà khách số 1 đường Lý Thái Tổ. Tôi tò mò hỏi bà Bình chuyện xưa, thì được bà xác nhận là không quen biết bà Nguyễn Thị Vui và bà nói thêm: “Ở Sài Gòn trước đây có người lẫn lộn tôi với một người khác cũng tên Nguyễn Thị Bình nhưng là con gái của nhà báo cách mạng Nguyễn An Ninh”.

…Tháng 3-1969, tổng thống Nixon gửi Bộ trưởng quốc phòng Mervin Laird sang Sài Gòn gặp ông Thiệu, cùng đi có tướng Wheeler, mang theo một thông điệp: nhân dân Mỹ muốn chính quyền mới (tức Nixon) đưa cuộc chiến đi đến một kết thúc mĩ mãn và “kết thúc mỹ mãn” ấy đối với đa số người Mỹ có nghĩa là đưa nước Mỹ ra khỏi cuộc chiến. Trở về Mỹ, Laird gặp Nixon và bàn về kế hoạch “Termination Day” (Ngày kết thúc), một chương trình chi tiết rút quân Mỹ và đồng thời chuyển giao thiết bị cho chính quyền Sài Gòn. Kế hoạch của Nixon là “de- Americanize the war” (phi Mỹ hóa cuộc chiến) nhưng khi được đưa ra công khai nó lại trở thành “Vietnamisation” (Việt Nam hóa chiến tranh), mà theo Nixon có nghĩa xây dựng cho quân đội VNCH đủ mạnh để chủ động được chiến trường để quân đội Mỹ rút dần. Theo tác giả Larry Berman trong cuốn No Peace, No Honor, Thiệu lúc đầu tin rằng Nixon sẽ giúp VNCH đứng vững trong 8 năm, thời gian đủ để chế độ Thiệu củng cố và vững mạnh.

Ngày 9-7-1969 đơn vị quân đội Mỹ đầu tiên trở về nhà, tại căn cứ không quân McChord, gần Tacoma- Washington. Tướng William Westmoreland có mặt đón họ. Theo tôi dù 30-4-1975 mới là ngày chính thức Mỹ cuốn cờ chạy khỏi Việt Nam nhưng chính cái ngày 9-7-1969 Mỹ đã bắt đầu “tháo chạy” và cũng đã quyết định số phận của chế độ Sài Gòn rồi… Tờ Tiếng Nói Dân Tộc bị đóng cửa; dân biểu Trần Ngọc Châu bị bắt bất kể ông được hưởng quyền bất khả xâm phạm của Quốc hội, chủ nhiệm tờ báo tiếng anh Saigon Daily News, ông Nguyễn Lâu, cũng bị bắt trong lúc này cùng một lý do (ngoài ra còn có 26 trí thức khác). Đó là thời kỳ Thiệu siết lại đời sống chính trị ở miền Nam để củng cố quyền lực của mình. Dĩ nhiên phong trào sinh viên không thể không bị đàn áp. Tôi có dự buổi họp báo của ban chấp hành Tổng hội sinh viên Sài Gòn (khóa 1967 -1968) bị cảnh sát Thiệu tấn công tại số 4 Duy Tân (hiện nay là Nhà Văn hóa Thanh Niên) do Nguyễn Đăng Trừng (hiện là trưởng đoàn luật sư TP. Hồ Chí Minh) làm chủ tịch. Chính quyền Thiệu không công nhận Ban chấp hành này. Buổi họp báo này nhằm phản đối chính quyền Thiệu bắt sinh viên Nguyễn Trường Cổn. Nhưng cuộc họp báo vừa bắt đầu thì cảnh sát tấn công bằng lựu đạn tay và ập vào. Trừng nhanh chân chạy thoát. Sau cuộc tổng công kích đợt 2, Trừng rời Sài Gòn ra vùng giải phóng đi theo Liên minh Dân tộc Dân chủ Hòa bình của luật sư Trịnh Đình Thảo. Sinh viên Nguyễn Trường Cổn bị tòa án quân sự Sài Gòn kết án 5 năm tù về tội phản nghịch. Tòa án quân sự cũng tuyên án tử hình khiếm diện Nguyễn Đăng Trừng khi biết được anh đã vào rừng theo Việt cộng. Vào thời điểm này một số đông trí thức và sinh viên cũng có chọn lựa như Trừng.

Để nắm chặt hơn nữa tình hình chính trị và quân sự trong lúc quân Mỹ rút, ông Thiệu lèo lái Hạ nghị viện bỏ phiếu bất tín nhiệm thủ tướng Trần Văn Hương để bổ nhiệm người bạn thân và đáng tin cậy nhất của mình là tướng Trần Thiện Khiêm vào chức thủ tướng (23-8-1969). Cũng từ lúc này, các dân biểu đối lập như tôi không còn được cấp hộ chiếu xuất ngoại. Bởi Thiệu biết rất rõ các dân biểu đối lập thường lợi dụng các chuyến ra nước ngoài để hoạt động chống chính phủ.

Nhật báo Tiếng Nói Dân Tộc bị đóng cửa, tôi hợp tác với nghị sĩ Hồng Sơn Đông làm tờ Điện Tín. Hợp đồng giữa anh Đông và tôi khai thác Điện Tín được ký ngày 1-4-1971. Anh Đông là chủ nhiệm, tôi làm chủ bút và là người bỏ tiền ra khai thác tờ báo. Nói bỏ tiền ra nhưng thực tế tiền đầu tư chẳng là bao. Do làm báo lâu năm được sự tin cậy trong làng báo, tiền ban đầu chúng tôi phải bỏ ra rất ít, không như các nhà tài phiệt làm báo. Anh Hồng Sơn Đông là một cựu đại tá quân đội, đắc cử nghị sĩ trong liên danh của tướng Trần Văn Đôn. Tuy nhiên ông Hồng Sơn Đông còn là một người thân thuộc và trung thành của tướng Dương Văn Minh.

Làm tờ Điện Tín, tôi mời anh Trương Lộc đảm trách vai trò tổng thư ký tòa soạn. Khi chúng tôi cùng học ở Đại học Khoa học, năm PCB (Physique – Chimie - Biologie) thì tôi đã bắt đầu viết báo thể thao. Tôi không mê ngành khoa học, (sau chuyển sang học Hành chính) ít khi vào trường, chủ yếu dành thời gian đi viết báo, còn Lộc tiếp tục học cho đến khi đậu bằng cử nhân khoa học. Vài năm sau, tôi rất bất ngờ khi gặp lại Lộc cộng tác với một hãng thông tấn của Nhật. Anh Lộc đi cùng họ đến phỏng vấn tôi. Rồi chỉ một hai năm sau, anh lại gia nhập làng báo Sài Gòn.

Trước năm 1975, anh Lộc là một trong những nhà báo hiếm hoi sớm quan tâm tới một hình thức trình bày hiện đại cho tờ báo – từ cách đặt tít cho đến cách giới thiệu từng trang báo, bài báo. Sau 1975, anh tiếp tục làm báo với tôi ở tờ Tin Sáng, tiếp đó anh phụ trách bộ phận quốc tế cho báo Sài Gòn Giải Phóng. Sau này anh lại chuyển sang lĩnh vực kinh doanh về quảng cáo và tiếp thị (Công ty VMC).

Tờ Điện Tín có nhiều mục rất được độc giả ưa chuộng và gây tiếng vang. Chẳng hạn mục “Ký sự nhân vật” do anh Trần Trọng Thức viết, mục “Văn tế sống” theo thể loại thơ châm biếm của anh Cung Văn tức Nguyễn Vạn Hồng. Mỗi ngày Điện Tín còn có một tranh châm biếm của họa sĩ Ớt tức nhà báo Huỳnh Bá Thành. Người giới thiệu anh Huỳnh Bá Thành với tôi là anh Trần Trọng Thức. Trong buổi gặp đầu tiên tại tòa soạn ở đường Võ Tánh (bây giờ là Nguyễn Trãi), tôi hỏi anh Thành có thể làm được gì trong tờ báo. Anh cho biết trước đây anh có sửa bản in, ngoài ra anh cũng có thể vẽ tranh. Thế là tôi gợi ý cho anh Thành vài đề tài để anh về vẽ thử. Hôm sau anh mang tranh đến, rất đạt. Lúc bấy giờ anh Thành chưa chọn bút danh cho mình. Tôi và anh Lộc cùng tìm một bút danh để anh Thành ký trên tranh. Và bút danh Ớt ra đời. Lúc đầu bên dưới tên Ớt, anh Thành còn vẽ một trái ớt trông rất vui!

Thời kỳ này, tranh của Ớt nhắm chủ yếu vào hai mục tiêu: tổng thống Thiệu và tổng thống Nixon, với cách vẽ đơn giản, chỉ cần vài nét nhưng Ớt đủ làm cho độc giả nhìn ra Thiệu và Nixon. Tôi nhớ mãi bức tranh Ớt vẽ Nixon nằm trong cái quan tài không đậy nắp, thò tay ra ngoài kéo Thiệu cùng vào. Đó là thời điểm tổng thống Nixon phải từ chức vì vụ xì- căn- đan Watergate. Ý của Ớt: Nixon ra đi sẽ kéo theo Thiệu. Vụ thảm sát ở Sơn Mỹ cũng bị Ớt lên án trên tranh của mình: tên trung úy đồ tể William Calley được Ớt cho mặc một bộ sĩ quan đại lễ với từng cái cúc áo là sọ người! Khi tôi không còn làm tờ Điện Tín nữa, chuyển sang các anh Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận phụ trách, họa sĩ Ớt và các anh Trương Lộc, Minh Đỗ, Cung Văn… vẫn tiếp tục cộng tác với tờ Điện Tín bộ mới.

Ở bất cứ tờ báo nào tôi làm tòa soạn, bao giờ tôi cũng dành cho tranh biếm họa một vị trí quan trọng nơi trang nhất. Với tờ Sài Gòn Tân Văn (tôi làm chủ nhiệm kiêm chủ bút năm 1964), cây vẽ tranh liên hoàn trên mỗi số báo là Cát Hữu với nhân vật Tám Sạc Ne. Đến tờ Tiếng Nói Dân Tộc, tranh liên hoàn được giao cho họa sĩ Diệp Đình với nhân vật có tên Tư Cầu Kho. Các tranh của Ớt cũng luôn chiếm vị trí quan trọng trên trang nhất tờ Điện Tín. Sau năm 1975, phụ trách tòa soạn báo Tin Sáng, tôi rất thích thú các tác phẩm biếm được vẽ rất kĩ lưỡng của họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi. Cố họa sĩ Chóe đạt đỉnh cao của mình về thể loại biếm họa cũng là lúc anh cộng tác với báo Lao Động: Tranh được đăng với kích thước to và ngay trên trang nhất, mỗi tranh có sức nặng như một bài xã luận.

Trương Lộc, Trần Trọng Thức, Nguyễn Vạn Hồng, Huỳnh Bá Thành lúc đó đều là những nhà báo trẻ, đại diện cho một cách viết báo và làm báo mới mẻ và tiến bộ trong làng báo Sài Gòn.

Trước khi đến với tờ Điện Tín, anh Trương Lộc đã làm thư ký tòa soạn cho các tờ Đất Mới Tìm Hiểu- cả hai đã đánh dấu những bước cải tiến đầu tiên về cách trình bày, đặt tít, viết tin trong làng báo Sài Gòn.

Các bài “Văn tế sống” của Nguyễn Vạn Hồng với bút hiệu Cung Văn dữ dội và độc đáo, đả kích lần lượt các nhân vật trụ cột của chế độ gần như không thiếu một ai. Anh tế sống họ. Lúc đầu tôi không tin anh tài hoa như thế và có lần tôi nói nửa đùa nửa thật với anh: “Có phải người ở “trỏng” viết sẵn và mang ra cho anh, rồi anh nộp bài cho tòa soạn không?”. Nhà của anh Hồng lúc đó nằm trong làng báo chí bên kia cầu Sài Gòn, coi như vùng ven đô. Tôi nói “ở trỏng” là ngầm ý nói trong vùng giải phóng. Ngay thời điểm đó dù chưa biết Cung Văn có quan hệ với người cộng sản, tôi vẫn cảm nhận khá rõ tình cảm của anh với “bên kia”.
Anh Trần Trọng Thức, được đào tạo chính qui tại Việt Tấn Xã bởi các nhà báo nước ngoài (Philipines và Mỹ) có một phong cách viết rất chặt chẽ và luôn giàu thông tin. Các bài “Ký sự nhân vật” của anh ký tên Trần Văn Lê là những chân dung nhân vật tiêu cực lẫn tích cực, được viết một cách sinh động và độc đáo – có thể coi là những tài liệu phong phú giúp những ai muốn tìm hiểu về bộ mặt xã hội Sài Gòn những năm đầu thập niên 70.

Nhân đề cập chuyên mục “Ký sự nhân vật” của anh Trần Trọng Thức, không thể không nhắc: Chính từ chuyên mục này mà nữ nghệ sĩ Kim Cương và anh Thức có dịp quen biết nhau và sau đó trở thành vợ chồng. Nghệ sĩ Kim Cương là một trong những “nhân vật tích cực” được nhà báo Trần Trọng Thức đưa lên mục “Ký sự nhân vật”. Bài báo đã chinh phục “kiều nữ” Kim Cương lúc đó đang rất nổi tiếng về tài năng diễn kịch và cả về hoạt động xã hội.

Anh Trần Trọng Thức là nhà báo Việt Nam đã phát hiện và đưa lên mặt báo Điện Tín vụ lính Mỹ thảm sát dân thường ở Sơn Mỹ, là sự tố cáo đầu tiên tội ác chiến tranh này trên báo chí Sài Gòn. Sau đó một hãng tin Mỹ trích đăng lại, góp phần làm nổ bùng thông tin về vụ tàn sát này tại Mỹ.

Sự việc này bắt đầu từ một số nạn nhân chiến tranh chạy từ miền Trung vào Sài Gòn, sống chui rúc ở một khu tồi tệ thuộc vùng Tân Định đã đến tòa soạn kêu cứu. Anh Thức đến tận nơi điều tra và phát hiện vụ thảm sát tại Sơn Mỹ. Nhưng vì ngại Bộ thông tin tịch thu khi báo ra, nên mẩu tin chỉ có khoảng 300 chữ. Sau đó khi vụ thảm sát đã được đưa ra quốc hội Mỹ dưới sức ép của dư luận Việt Nam, quốc hội Sài Gòn mới tiền hành điều tra, gửi một phái đoàn do nghị sĩ Trần Văn Đôn dẫn đầu đi Quảng Ngãi. Với tư cách phóng viên Việt Tấn Xã, anh Thức tháp tùng phái đoàn này và viết bài cho Điện Tín dưới một bút danh khác.
Khi tổng thống Mỹ Nixon ân xá cho trung úy William Calley, báo Điện Tín đã phản ứng quyết liệt bằng bài viết và bằng tranh biếm của họa sĩ Ớt. Truyền hình Mỹ (hình như là CBS) có phỏng vấn tôi với tư cách là chủ bút báo Điện Tín về phản ứng đối với quyết định ân xã Calley của Nixon. Lúc đó tiếng Anh của tôi còn rất yếu, tôi phải nhờ anh Trương Lộc chuẩn bị sẵn cho tôi một số ý trước, để thể hiện sự cực lực phản đối việc Nixon bao che tội ác!

Với Calley thật sự không thể ân xá. Hắn nói: “Tôi coi cộng sản cũng như người Mỹ miền Nam nhìn một tên mọi đen (negro). Cá nhân tôi, ngày hôm đó tôi không có giết một người Việt Nam nào cả. Tôi nói rõ – cá nhân tôi. Tôi đại diện cho Hoa kỳ. Quê hương tôi”. Hắn cho rằng giết cả trẻ em vì lớn lên chúng sẽ là VC như cha mẹ chúng. Theo Calley, nếu hắn chỉ giết đàn bà, ông già, con nít – đều đó có nghĩa cha chúng đã đi chiến đấu. Chúng đều là VC. Calley lập luận chuyện bắn giết của hắn không có gì tồi tệ hơn so sánh với chuyện ném bom 500 pound từ một pháo đài bay B52. Hay khi chính quyền Mỹ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki… Những lời lẽ khủng khiếp này của Calley được in trong quyển “VietNam – A war lost and won” của Nigel Cawthorne (nhà xuất bản Capella).

Về chuyện tàn sát dân thường của lính Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, đạo diễn điện ảnh Mỹ Oliver Stone (các phim Platoon Born on the Forth of July) có phát biểu như sau:

“Tôi rất phẫn nộ khi nghe các cựu chiến binh nói: “Ồ! Đây là chiến tranh, có thể làm bất cứ điều gì mình muốn. Mẹ kiếp! Bọn dân thường khốn nạn làm gì biết được điều đó”, lập luận này không thể lọt vào tai tôi một giây nào. Tôi chán nghe bọn ngu xuẩn đó nói rằng trong chiến tranh họ có thể tàn sát bất cứ ai. Dù rằng chiến tranh khơi dậy những bản năng xấu xa nhất của con người, nhưng ở đó vẫn còn có chỗ của đạo đức. Chúng ta (người Mỹ) đi đến sự thất bại không tránh khỏi vì cuộc chiến này không có mục tiêu đạo đức và chúng ta chiến đấu mà không có một lý tưởng trong sáng nào”.

Oliver Stone đến miền Nam Việt Nam hai lần. Lần đầu năm 1965, lúc đó 19 tuổi làm giáo viên Anh văn tại Chợ Lớn. Lần sau năm 1967 trong hàng ngũ quân đội Mỹ.

Nhắc những người cộng tác với tờ Điện Tín mà quên nhà văn Thiếu Sơn là một thiếu sót lớn.

Nhà văn Thiếu Sơn rất lựa chọn báo để viết. Không phải báo nào mời ông cũng viết, dù đời sống vật chất của ông không dư dả. Mặt khác, theo ông thà không viết, còn nếu đã viết ông luôn đòi hỏi nhuận bút rất cao, nhất là với những tờ báo mà ông biết họ có tiền. Nhưng khi viết cho báo Điện Tín có lập trường gần gũi với ông, ông sẵn sàng nhận số tiền nhuận bút tượng trưng mà thôi. Ông nói với tôi: “Báo ông bị tịch thu liên miên, đâu có tiền để trả nhuận bút cao”. Tôi nhớ rất rõ hình ảnh quen thuộc của ông mỗi khi tạt ngang tòa soạn: bao giờ cũng xách theo một cái túi đệm đơn sơ, trong đó có một cái khăn lau mặt, một cái quần cụt, một áo thun ba lỗ và một cái bàn chải đánh răng. Ông giải thích với tôi: “Bất cứ lúc nào bị bọn chúng lượm thì mình cũng sẵn sàng”. Tôi có một kỷ niệm riêng với ông vừa hài vừa bi: một hôm ông đến gặp tôi và chờ khi không có ai, ông nói nhỏ vào tai tôi một cách bí mật: “Tới nơi rồi ông Chung”. Ý ông muốn nói: Quân giải phóng sắp vào đến thành phố rồi. Nhưng chỉ một ngày sau, chưa thấy quân giải phóng đâu mà tôi lại nhận được tin ông bị cảnh sát chìm Tổng Nha bắt. Rồi ông bị “cất” luôn cho đến ngày 30-4!

Trong cuộc đời làm báo có hai lần tôi được hợp tác với hai ê kíp viết báo gồm những đồng nghiệp tài giỏi, có thể gọi đó là những “Dream team”: Lần đầu với ê kíp Điện Tín (1970-1971), lần thứ hai với ê kíp Lao Động (1991-1994).

Làm tờ Điện Tín sau khi tờ Tiếng Nói Dân Tộc bị đóng cửa, trước hết tôi muốn duy trì tiếng nói đối lập của mình. Một dân biểu đối lập mà không có tờ báo trong tay thì như cua không có càng. Năm 1970 là năm bầu cử bán phần Thượng nghị viện và năm chuẩn bị bầu cử lại Hạ nghị viện (1971). Do lời mời hợp tác của trung tướng – nghị sĩ Trần Văn Đôn, chấm dứt nhiệm kỳ ba năm của ông và có ý định ra tranh cử trở lại, bấy giớ tôi cũng có ý định ứng cử vào Thượng nghị viện. Theo thế thức tổ chức Thượng nghị viện thì cứ ba năm, một nửa trong số 60 nghị sĩ phải được bầu lại. Sự phân định ở đợt đầu 30 nghị sĩ ra đi và 30 nghị sĩ ở lại do một cuộc rút thăm (có nghĩa sẽ có ba liên danh mới đắc cử). Sau khi bàn bạc giữa tướng Đôn và tôi thỏa thuận đạt được như sau: liên danh mười người ra ứng cử sẽ gồm hai thành phần, một do tướng Đôn đứng đầu với năm ứng cử viên là cựu nghị sĩ (tướng Trần Văn Đôn, tướng Tôn Thất Đính, bà Nguyễn Phước Đại, tướng Nguyễn Văn Chuân, ông Tôn Ái Liêng), và một gồm năm dân biểu đang tại chức (Lý Quý Chung, Nguyễn Hữu Chung, Hồ Ngọc Nhuận, Kiều Mộng Thu, Thạch Phen). Tuy liên danh có đến ba cựu tướng lãnh nhưng họ đều có quan điểm chống tổng thống Thiệu. Đây là một liên danh đối lập, có nhiều khả năng sẽ thắng cử với số phiếu cao.

Nhưng khi liên danh sắp sửa đăng ký ứng cử thì phát hiện có vấn đề về điều kiện tuổi: tôi thiếu một ngày! Luật bầu cử Thượng nghị viện qui định muốn ra ứng cử phải đủ 30 tuổi tròn tính đến ngày bầu cử. Ngày bầu cử là 30-8-1970 nhưng tôi lại sinh ngày 1-9-1940. Như thế chưa “tròn” 30 tuổi tính từng ngày bởi tháng Tám có 31 ngày. Lúc đầu có ý kiến phớt lờ chi tiết này nhưng tướng Trần Văn Đôn thận trọng đã tham khảo ý kiến của thẩm phán Trần Văn Linh, chủ tịch Tối cao pháp viện, nơi sẽ phân xử tính hợp hiến các đạo luật và cả sự vận dụng nếu có sự khiếu nại hoặc tranh chấp. Dự đoán các đối thủ, nhất là phe chính quyền, chắc chắn sẽ không bỏ qua cơ hội khai thác điểm sơ hở này để loại liên danh chúng tôi, nên cuối cùng tôi phải rút tên. Có lúc tướng Đôn đề nghị đưa cha tôi (Lý Quí Phát) có nhiều quen biết với cử tri người Việt gốc Hoa, thay tôi. Nhưng sau đó thấy không ổn, liên danh dự kiến không thành. Bà Nguyễn Phước Đại vẫn muốn tiếp tục ra tranh cử đã thành lập một liên danh khác không có năm dân biểu có mặt trong danh sách trước nhưng rồi bà đã thất bại. Lúc đó tôi cũng tiếc vì thiếu chỉ một ngày trong điều kiện tuổi nên mất cơ hội hoạt động ở Thượng nghị viện. Tiếc không vì cái danh xưng nghị sĩ mà tiếc vì với cương vị nghị sĩ tiếng nói đối lập ở Thượng nghị viện của mình sẽ có ảnh hưởng lớn hơn.

Với tờ Điện Tín, sự tách biệt về lập trường chính trị của tôi với chế độ Thiệu càng dứt khoát hơn xuất phát từ diễn tiến của tình hình lẫn chuyển biến ở lập trường chính trị cá nhân. Tờ báo liên tục bị Bộ Thông tin ra lệnh tịch thu. Có tuần, tờ Điện Tín phát hành lậu đến 3 ngày, có nghĩa là dù số báo được lệnh của Bộ Thông tin cấm phát hành nhưng chúng tôi vẫn chuyền báo qua nóc nhà kề bên và tuồn báo ra phía sau tòa soạn ở đường Lê Lai, để bán ra ngoài. Trong lịch sử báo chí ở Sài Gòn, dưới thời chế độ Thiệu, chỉ có tờ Tin Sáng vượt qua Điện Tín về số lần bị tịch thu và ra tòa. Dĩ nhiên các lần tịch thu như thế đều làm kiệt quệ tài chính của vợ chồng tôi bởi có tuồn được báo ra ngoài bán đi nữa thì số lượng không thể nhiều được. Chúng tôi mắc nợ nhà in, mắc nợ nơi cung cấp giấy in và nợ cả tiền lương của các anh em nhà báo. Không thể trả lương cho mọi người cùng một lúc, vợ tôi – đảm trách khâu quản lý, kế toán đã nghĩ ra một cách giải quyết khá đặc biệt: anh em nào có đời sống khó khăn thì lãnh lương trước, còn những anh em ít khó khăn thì lãnh trễ hơn vào giữa tháng. Thường thì Minh Đỗ, Trần Trọng Thức là những người lãnh sau cùng.

Nhưng khi làm tờ Điện Tín, tôi còn nhắm một mục tiêu nữa: hỗ trợ giải pháp Dương Văn Minh thay thế tổng thống Thiệu, nhằm thành lập một nội các hòa bình, góp thêm một điều kiện thuận lợi để chấm dứt chiến tranh. Lúc này, tướng Minh đã chấm dứt thời kỳ bị bắt buộc sống lưu vong (tại Bangkok, Thái Lan). Chính thái độ công khai ủng hộ giải pháp Dương Văn Minh khiến cho Bộ Thông tin của chính phủ Thiệu càng tỏ ra gắt gao với tờ Điện Tín. Tờ Điện Tín, sau hơn một năm xuất bản, tạm đình bản không do một quyết định chính thức của Bộ thông tin mà do một cuộc tấn công phá hoại của “kẻ giấu mặt” theo tôi không ai khác hơn là “tay chân” của chính quyền. Vào lúc 5 giờ sáng, một chiếc xe máy chạy ngang tòa soạn Điện Tín ném một bọc có chứa chất cháy vào cửa. Bác bảo vệ ngủ bên trong không hay biết gì cả. Nếu vụ cháy không được tri hô kịp lúc thì chẳng những tòa báo bị thiêu rụi mà cả sinh mạng của bác vệ cũng không còn. May mắn là khi bên trong tòa báo vừa bén lửa thì người ở nhà đối diện bên kia đường Võ Tánh là phóng viên nhiếp ảnh Lỗ Vinh phát hiện nên vụ cháy đã được ngăn chặn. Lúc xảy ra vụ phá hoại tòa soạn Điện Tín, nghị sĩ Hồng Sơn Đông, chủ nhiệm tờ báo, đang đi công tác ở nước ngoài. Gia đình anh Đông sống ở Thủ Đức nghe tin phá hoại này bị lung lạc tinh thần, yêu cầu tôi tạm ngưng xuất bản tờ báo và chờ anh Đông về quyết định tiếp.

Sau đó có vài trục trặc trong sự bàn luận hợp tác trở lại khi anh Đông về, tôi rút lui khỏi tờ Điện Tín và chuyển sang thuê “manchette” tờ Bút Thần (của anh Nguyễn Văn Phương làm chủ nhiệm) làm tiếp. Tôi không thể không buồn về sự gián đoạn với tờ Điện Tín. Sau thời gian tự đình bản, tờ Điện Tín đã xuất bản trở lại (tháng 2-1972) do ê kíp Tin Sáng sang khai thác. Tờ Tin Sáng vắng chủ nhiệm – anh Ngô Công Đức – không thể tồn tại. Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận, bạn thân của anh Đức, giám đốc chính trị tờ Tin Sáng chuyển sang làm chủ bút tờ Điện Tín. Cùng chủ biên tờ Điện Tín ở giai đoạn này còn có giáo sư Lý Chánh Trung, cựu dân biểu Dương Văn Ba. Họa sĩ Ớt phụ trách phần trình bày. Người điều khiển thật sự tờ Điện Tín là anh Dương Văn Ba, năm đầu làm việc trực tiếp tại tòa soạn nhưng sau đó chính quyền Thiệu truy nã anh vì anh bị thất cử ở nhiệm kỳ dân biểu kế tiếp và chống lại lệnh gọi đi lính. Do đó anh Ba phải lẩn trốn trong Dinh Hoa Lan, tư dinh của thủ tướng Dương Văn Minh ở số 3 Trần Quý Cáp (nay là đường Võ Văn Tần). Nhưng từ đây anh vẫn phụ trách tòa soạn cho tờ Điện Tín. Mỗi ngày anh biên tập và chuẩn bị đủ bài vở cho số báo rồi chuyển ra tòa soạn cho Huỳnh Bá Thành thực hiện. Người làm liên lạc giữa anh Ba và tòa soạn Điện Tín hàng ngày là Triệu Bình, em trai của Cung Văn. Sau 1975, Triệu Bình làm phóng viên báo Tin Sáng rồi làm ở báo Sài Gòn Giải Phóng.

Tờ Điện Tín của các anh Hồ Ngọc Nhuận, Lý Chánh Trung, Dương Văn Ba, Huỳnh Bá Thành nối tiếp tờ Điện Tín do tôi làm trước đó cũng có chung một mục đích: Tăng cường tiếng nói đối lập, chống chiến tranh và vận động cho giải pháp Dương Văn Minh. Trên báo này còn có sự đóng góp tiếng nói của nữ dân biểu Kiều Mộng Thu, linh mục Nguyễn Ngọc Lan. Các bài bút ký của anh Lý Chánh Trung dưới tiêu đề chung “Bọt biển và sóng ngầm” thu hút một số đông độc giả và gây một ảnh hưởng lớn trong cách suy nghĩ của nhiều giới tại Sài Gòn về tình hình đất nước, về thân phận của những người dân không có quyền tự quyết. Các bài của linh mục Nguyễn Ngọc Lan luôn làm cho chính quyền Thiệu phải nhức đầu.

Tôi không trực tiếp làm tờ Điện Tín nữa nhưng vẫn tham gia tờ báo với anh em ở hai mục: viết một “feuillenton” (chuyện dài nhiều kỳ có tên “Nhật ký nàng Kiều Dung” tố cáo buộc sống đa đọa của giới trưởng giả Sài Gòn) và một tuần góp một bài xã luận.

Nguồn: Nhà xuất bản Trẻ (www.nxbtre.com.vn), TP HCM, 2004, 486 tr., 97.000 Ä‘