Bộ giáo khoa đầu tiên của
loài người
Xin bắt đầu bằng một giai thoại ở Ấn Ðộ thời cổ đại:
Chàng hoàng tử nọ của một tiểu vương quốc kết hôn với công
chúa của tiểu vương quốc láng giềng. Trong đêm tân hôn, người
đẹp hiền thục bỗng trở nên chủ động và thành thạo đến
mức đáng ngờ. Như một kỹ nữ sành sỏi thời ấy. Nhưng mọi
ngờ vực của hoàng tử được giải tỏa ngay: Công chúa vẫn còn
là trinh nữ. Nàng lại cho biết thêm: Nàng hiểu biết và thành
thạo chuyện chăn gối như vậy là nhờ từ khi ở tuổi đến trường,
nàng đã đọc rất kỹ cuốn Kama Sutra.
Trước khi tìm hiểu cuốn Kama Sutra, cũng nên biết rằng
ở Ấn Ðộ cổ đại, trẻ em đến trường đều được học
những môn cơ bản: Tiếng Phạn (Sanskrit), giáo lý Bà La Môn, toán
học, y học, chiêm tinh học... và tất nhiên cả tình dục học. Môn
khoa học này đã được đem dạy trong trường từ cách đây 3000 -
4000 năm, rất lâu trước khi nó được soạn thành bộ sách Kama
Sutra nổi tiếng. Trẻ em có khả năng đi học hầu hết đều
con nhà quyền quý và lứa tuổi mới bước đến trường cũng là
lúc đã dậy thì. Trẻ em Ấn Ðộ dậy thì sớm, phụ nữ có thể
sinh con từ tuổi lên chín lên mười.
Trở lại cuốn Kama Sutra mà ở ta đã có người dịch là
Dục Lạc Kinh. Kama là tên thần tình yêu trong thần
thoại Ấn Ðộ, luôn mang bên mình một bộ cung tên, kẻ nào trúng
tên của Kama, kẻ đó sa vào cõi mê cuồng yêu đương say đắm. Sutra
nghĩa là cuốn sách, bộ kinh. Vậy Kama Sutra nghĩa là cuốn sách
tình yêu, hoặc là khoa học tình yêu.
Tác giả cuốn sách là nhà hiền triết Vatsyayana, sống vào
khoảng thế kỷ IV sau công nguyên. Tương truyền khi đã già, ông tìm
đến thành phố thiêng bên bờ sông Hằng để sống những ngày
cuối cùng. Tại đó, nhà hiền triết đã viết cuốn Kama Sutra,
tự coi đây là nghĩa vụ tôn giáo cuối cùng của mình. Cuốn sách
xấp xỉ 1000 trang này có lẽ là cuốn sách đầy đủ và hoàn
chỉnh bậc nhất của nhân loại về khoa học tình dục, và cũng
xuất hiện sớm bậc nhất trong lịch sử nhân loại. Mãi cho tới
cuối thế kỷ XIX, năm 1883, bản dịch tiếng Anh rút gọn khoảng hơn
200 trang mới đến với châu Âu, do một người Anh là Sir Richard
Burton và một người Ấn là F.F.Arbuthnot, hai người bạn thân hợp
tác dịch. Còn bản tiếng Anh đầy đủ, một cuốn sách tình dục
đồ sộ, mãi tới đầu những năm 1990 mới ra mắt.
Theo tinh thần đạo Hindu, tình dục là thiêng liêng và hoạt động
tình dục là sự diễn tả lại sự hòa hợp thiêng liêng của các
vị thần. Hoạt động ấy có vai trò quan trọng trong cuộc đời
một người đàn ông theo đạo Hindu, được chia làm 4 giai đoạn:
1-
Brahmacharya: Giai đoạn đèn sách học hành, thường tính từ
nhỏ đến khoảng 25 tuổi.
2-
Grahasthya: Sau khi tu học, trở về nhà, lấy vợ sinh con, xây
dựng gia đình, nuôi dưỡng con cái, cho con đi học, dựng vợ gả
chồng cho con. Công việc này được làm trong khoảng 20-25 năm.
3-
Vanaprastha: Mọi nghĩa vụ đối với con cái và gia đình đã
hoàn tất, người ta lui về nghỉ ngơi, thiền định, tách khỏi
những ham muốn trần tục, chỉ theo đuổi đời sống tinh thần.
Người Ấn giai đoạn này thích dùng một hình ảnh: Người ta như
hoa sen, sống trong nước mà vươn ra khỏi mặt nước. Cũng như
vậy, về hình thức người ta vẫn sống trong cùng một gia đình
với con cháu, nhưng nội tâm đã thoát lên và ra khỏi đời sống
trần tục.
4-
Sanyas: Giai đoạn cuối cùng của đời người. Người đàn
ông từ bỏ mọi ham muốn, mọi nhu cầu, không dùng tiền bạc.
Họ lên đường, theo đuổi cuộc sống tinh thần, lang thang đó đây
đàm đạo với những người đồng hành, tá túc trong các ẩn
viện giữa rừng.
Giai
đoạn 2 được người Hindu coi là quan trọng nhất. Xem ra cũng chỉ
có giai đoạn này người Hindu mới sống hết mình, chi dùng hết
sinh lực cho cuộc sống tình dục. Cuốn Kama Sutra đồ sộ cũng
được viết ra cho con người trong giai đoạn này, coi đó như một
nghĩa vụ tôn giáo thiêng liêng mà con người phải thực hành trong
cuộc đời.
Có lẽ không còn những gì liên quan đến tình dục mà người
ta không thấy trong cuốn sách này. Vatsyayana đã miêu tả và chỉ
dẫn tỉ mỉ "ba mươi sáu kiểu" ôm ấp, "ba mươi sáu
kiểu" hôn, các loại tình dục về mặt đạo đức xã hội, các
tư thế... Những khái niệm và những hình ảnh đã trở thành thông
dụng trong đời sống hàng ngày như bandhura (thắt nút), prenkha (chơi
đu), mausala (giã gạo), dadhyataka (khuấy sữa), bhamara (ong đất),
hastika (kiểu voi), harina (kiểu hươu), vadavaka (kiểu ngựa),
nagabandha (kiểu rắn)...
Có những trường hợp đặc biệt được ghi lại trong sử thi Mahabharata,
khoảng 3000 năm trước công nguyên: Nàng Draupadi làm vợ chung của
năm anh em Pandava, trong khi Krishna, một nhân vật hào hoa võ hiệp
lại có tới 500 thê thiếp. Có lần, người ta đã hỏi Draupadi xem
vì sao nàng có thể sống hoà hợp cùng lúc với cả năm người
chồng trong khi 500 thê thiếp chưa đủ làm thỏa mãn Krishna. Câu
hỏi này đã xới lên vấn đề tình dục và đưa vào kinh sách cách
chúng ta gần 5000 năm.
Trong đời sống dân dã, người Ấn thích tán chuyện tình dục.
Họ chỉ có giai đoạn thứ hai của cuộc đời cho chuyện chăn
gối và họ đã sống hết mình. Có người trí thức Ấn Ðộ đã
kêu lên: "Trời ơi, người Ấn ăn quá nhiều hành, thức ăn
nhiều gia vị kích thích, uống quá nhiều sữa trâu và sữa dê. Giở
sách ra thì gặp Kama Sutra, đến đền chùa thì gặp linga
của thần Shiva". Linga là tượng dương vật của thần Hủy
Diệt và Tái Tạo Shiva, đây là biểu tượng tái tạo, cho nên
những người đàn bà không con thường tới đền chạm tay vào
linga mà cầu tự. Có thể thường xuyên gặp linga trong các đền
thờ Hindu, nhỏ to các cỡ. Những đền thờ tạc trong hang đá ở
miền Nam Ấn có những tượng linga bằng đá cao hàng mét, đường
kính dăm ba người ôm. Còn ở miền Bắc Ấn quanh năm tuyết phủ,
ngôi đền nọ có cả một tượng linga bằng băng, cao tới gần
chục mét.
Ngôi đền
lừng danh - Một cách làm trong sạch linh hồn
Nhưng trong đền thờ Hindu không chỉ có tượng dương vật
của thần Shiva. Rất nhiều đền đài còn tạc hẳn tượng mô
tả sinh hoạt tình dục. Lừng danh nhất trên thế giới là khu đền
Khajuraho, từng bị chìm lấp nhiều thế kỷ trong rừng sâu, tưởng
đã hoàn toàn bị bỏ quên.
Tôi đến
Khajuraho tháng 11-1992. Phải đi tàu hỏa hơn 400 km từ thủ đô đến
Jhansi, từ Jhansi phải đi thêm 180 km nữa, nhưng chiều tối rồi mà
không có xe đi thẳng tới nơi, đành phải đi xe buýt tới Chatripur,
rồi chung với năm cô người Pháp gặp ở bến xe thuê một chiếc
xe jeep đi nốt 50 km còn lại. Trong đêm tối, năm cô gái người
miền nam nước Pháp hát những bài dân ca về những cánh đồng
nho trên con đường gập ghềnh Ấn Ðộ. Mười giờ đêm, chúng tôi
được đổ vào một khách sạn nhỏ ở Khajuraho, đêm tối rồi mà
nhìn ra thấy mấy chục ngôi đền chi chít những pho tượng phồn
thực vẫn lấp lánh ánh đèn vây bọc xung quanh.
Lịch sử nhiều khi vẫn lãng quên như thế.
Quần thể 85 ngôi đền tuyệt tác ở Khajuraho, miền trung Ấn Ðộ,
bị bỏ quên những tám thế kỷ. Mãi đến năm 1839, viên tiểu đội
trưởng công binh Hoàng gia bang Bengal, thuộc chính quyền thực dân
Anh, ông này tên là T.S. Burt, mới tình cờ phát hiện ra một quần
thể đền đài giữa rừng sâu. Về sau, trong cuốn Ghi chép về
quần thể kiến trúc châu Á, ông ta viết: “Trong đám đổ
nát ở Khajuraho tôi phát hiện ra bảy ngôi đền đồ sộ theo phong
cách Hindu giáo. Về mặt nghệ thuật, đây là những tác phẩm điêu
khắc tinh vi bậc nhất. Nhưng các nghệ sĩ có lúc đã đi quá xa, có
một số pho tượng khá là khiếm nhã”.
Nghe nói là các quý bà quý cô người Anh khi ấy xuyên rừng
tới xem đã phải lấy tay che mặt và thốt lên những câu đại
loại "eo ơi, khiếp!" Không chỉ riêng trong chuyện này, người
Ấn Ðộ vốn đã cho là người Anh đạo đức giả. Nhưng thời thế
đã khác, năm cô gái châu Âu đi cùng chẳng thấy cô nào che mặt,
cũng chẳng eo ơi, họ cười nói chỉ trỏ một cách thật tự tin.
Trên thực tế phương Ðông thường miêu tả lịch sử dân
tộc mình qua các truyền thuyết, các huyền thoại từ thủa hồng
hoang, hoặc thể hiện câu chuyện dưới dạng tranh tường trong đền
chùa, trong điêu khắc gỗ hoặc điêu khắc đá. Ðây cũng là một
khả năng nghệ thuật kỳ diệu của người Ấn Ðộ. Hồi đó, cũng
như nhiều người phương Tây khác, T.S. Burt đã không hiểu được
như vậy. Những bức chạm khắc ông ta phát hiện được là một
phần của thiên sử thi trên đá, do những ông vua triều Chandella
ở miền Trung Ấn cho xây dựng vào khoảng thế kỷ X và XI. Trong
khoảng 100 năm, những người sùng đạo Hindu đã dựng lên cả
thảy 85 ngôi đền mang tên thần Sáng Tạo và các vị thần Hindu
giáo.
Kiến trúc đền đài thời cổ Ấn Ðộ là một cống hiến to
lớn cho kho tàng văn hóa nhân loại. Cho đến ngày nay người ta
vẫn chưa hết kinh ngạc về sự khéo léo, tinh tế của những bàn
tay thợ tài hoa cách đây 10 thế kỷ. Có cảm tưởng đá cẩm
thạch trong tay nghệ nhân thời xưa cũng dễ sai khiến như chất
dẻo hay đất sét trong tay người thời nay. Những nhóm tượng có
tính sắc dục đã làm Burt bất bình cách đây hơn 100 năm giờ đây
lại vẫn làm giật mình biết bao du khách.
Ðược xây dựng dần dần trong hai thế kỷ X và XI, ở
Khajuraho hiện tại chỉ còn 22 đền trong tổng số 85 ngôi đền.
Khắp bề mặt các ngôi đền, từ những bậc đá lên tới tận đỉnh
tháp, là những bức tượng bằng đá diễn tả cảnh sinh hoạt
mọi mặt của người Ấn Ðộ. Từ cảnh ăn chơi xa hoa của vua chúa
trong hoàng cung cho đến cảnh lao động, học hành tu tập, thuần hóa
thú dữ... Những hình chạm trổ trên đá về vũ nữ apsara trên
thiên đình hay hình những thiếu nữ đồng trinh tuyệt đẹp xuất
hiện trên đỉnh cột của các đền đài. Ðặc biệt, xen kẽ
giữa các nữ thần là những nhóm tượng cặp trai gái, hoặc
từng nhóm trai gái, đang giao hoan. Những người ở gần đó kẻ thì
tinh ngịch rình xem, kẻ thì ngượng ngùng, nụ cười thấp thoáng
đằng sau những bàn tay che mặt. Nhưng người nghệ nhân điêu
khắc cũng tinh quái, họ đã để cho cô gái che mặt nọ vẫn hé
mắt nhìn giữa những ngón tay che.
Khi làm phép so sánh giữa những pho tượng được tạc ở thế
kỷ X với tượng tạc vào thế kỷ XI , người ta dễ dàng nhận
thấy hình thể những đôi trai gái thế kỷ XI đã thanh tú hơn,
cặp chân dài hơn. Chi tiết này một mặt phản ảnh sự tiến hóa
của cơ thể con người sau một thế kỷ, mặt khác cũng nói rõ
rằng sau một thế kỷ, quan niệm về vẻ đẹp của người Ấn Ðộ
cổ cũng thay đổi.
Những
cảnh sinh hoạt tình dục chiếm nhiều nhất về số lượng, có nơi
được sắp xếp theo trình tự như kiểu sách giáo khoa. Rồi hàng
loạt cảnh sinh hoạt của hai người nam nữ, của những nhóm người,
những người đồng giới, người và thú. Có cả.
Ðiều đó
không có gì lạ khi mà trong các đền thờ của đạo Hindu người
ta đều thờ tượng dương vật của thần Siva, biểu tượng của
sự sáng tạo ra thế giới. Thời điểm hoạt động nhục dục
giữa hai người yêu nhau được coi là sự hòa hợp và thống
nhất hoàn toàn giữa linh hồn với sự thánh thiện. Có một giáo
phái Hindu thờ cúng biểu tượng hòa hợp thể xác này, coi lạc thú
nhục dục và tu luyện yoga là hai con đường cùng dẫn tới sự
giải thoát khỏi kiếp luân hồi.
Nhưng cũng
có người lại cho rằng quanh đền được trang trí bằng nhiều nhóm
tượng nam nữ giao hoan như vậy để tránh cho đền bị sét đánh.
Bởi lẽ Ngọc Hoàng Indra nổi tiếng phong tình, Ngọc Hoàng không
bao giờ đặt lưỡi tầm sét xuống những ngôi đền như thế.
Có ý kiến lại nói đây là
một cách làm trong sạch linh hồn cho những kẻ mộ đạo, một cách
thử thách những người tới đền để cúng tế, khiến họ phải
kiềm chế được bản thân và bỏ lại bên ngoài tất cả những
ham muốn trần tục trước khi bước vào chính điện. Phía ngoài
ngôi đền có pho tượng một người đang thuần hóa một con vật
nửa sư tử nửa hổ báo lớn hơn mình gấp bội, cảnh này được
coi như cuộc chiến đấu chống lại con thú nhục dục trong chính
con người.
Khắp
thị trấn Khajuraho bán đầy đồ lưu niệm phiên bản pho tượng
phồn thực các cỡ, nhỏ nằm trong lòng bàn tay cho đến cao chừng
một mét. Các loại bưu ảnh, đồ họa, đồ chơi... cùng đề tài.
Trẻ em bán rong dí vào mặt du khách những cái kéo nhấp ra nhấp vào,
hình một cặp nam nữ đang giao hoan, ở nơi khác có thể bị coi là
vượt quá tính chất cho phép của văn hóa phẩm. Nhưng trong khung
cảnh Khajuraho, lại trên đất Ấn Ðộ, tất cả chỉ là chuyện
thường ngày.