trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 227 bài
  1 - 20 / 227 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Dịch thuật
21.7.2003
Lê Đình Khoa
Một bản dịch khiến độc giả kinh hãi
 
Talawas nổi tiếng là nghiêm chỉnh về dịch thuật. Gần đây, một thành viên sáng lập của talawas, nhà văn Phạm Thị Hoài, đã bỏ thì giờ quý báu để dịch lại nguyên một bài của Kafka, chỉ vì bài ấy đã được (hay "bị") một nhà văn dịch sai và đem ra xuất bản. Việc làm của talawas và nhà văn Phạm Thị Hoài thật đáng tuyên dương. Thế nhưng, vào ngày 15.07.2003, tôi lại thấy talawas đăng một bài dịch có thể khiến độc giả kinh hãi. Đó là bài "Một cách sáng giá Eminem, Nobel ca ngợi Ông Nghịch Ngược của nhạc Rap" do Thường Quán dịch từ bài "Eminemently, Nobel praise for rap's Mr Nasty" của Laura Peek. Tôi sống ở London, thường đọc The Times, đã xem bài của Laura Peek đăng ngày Thứ Ba 01.07.2003. Khi đọc bản dịch của Thường Quán, tôi kinh hãi vì lối làm việc, lối hiểu tiếng Anh, và lối dùng tiếng Việt của dịch giả.

Ngay ở tựa đề dịch giả đã thiếu cẩn thận. Tựa đề bị ghi sai thành "Eminemtly,...". Đúng ra là "Eminemently,..." (tác giả chơi chữ: ghép tên Eminem vào chữ "eminently"). Và dịch giả hiểu sai danh từ "praise" thành động từ. "Nobel praise for rap's Mr Nasty" phải là "lời ca ngợi của người đoạt giải Nobel dành cho ông Bựa của nhạc rap". Nếu dịch là "Nobel ca ngợi Ông…" thì nguyên văn tiếng Anh phải là "Nobel PRAISES Mr...", chứ không phải "Nobel praise for Mr...". Còn chữ "Nasty" dịch thành "Nghịch" hay "Ngược" thì cũng tạm được, nhưng dịch thành "Nghịch Ngược" thì không còn là Việt ngữ. "Nghịch" trong chữ Hán là "Ngược" trong chữ Việt. Đã "Nghịch" mà lại thêm "Ngược", thì chẳng còn là tiếng Việt và chẳng có nghĩa gì cả.

Nguyên bài còn lại, dịch giả Thường Quán đã liên tục phạm nhiều cái sai đáng kinh hãi. Tôi xin đặt song song bản tiếng Anh của Laura Peek và bản tiếng Việt của Thường Quán để độc giả so sánh.

HE MADE his name as a chainsaw-waving bigot and misogynist who revels in his position as the drug-fuelled hero of the underclass.
Làm nên tên tuổi như một tay du thủ trẻ dạ ngang tàng tay đàn tay máy cưa [chạy điện], một anh hùng của underclass, giai cấp mạt rệp, xông pha sân khấu đèn đời, bất kể chi đến những sự phải phép, những nền tảng phóng khoáng con nhà hiện đại, các bạn nữ quyền thậm chí còn gọi hắn, anh trẻ ấy, là một gã misogynist dương cường đầu nậu tráng đinh.

– Dịch giả tự ý chêm thêm quá nhiều những điều không có trong nguyên tác (những chỗ tôi tô đậm), và có lối tiếng Việt rất lủng củng (những chỗ tôi gạch dưới). Chêm thêm như vậy không làm rõ nghĩa hơn, mà lại làm sai ý, thậm chí ngược ý. Dịch giả chêm thêm rất nhiều những điều không cần thiết và vô nghĩa, nhưng lại để sót một chữ cần thiết: "drug-fuelled".

– "misogynist" là "người ghét đàn bà", chứ chẳng phải là một gã "dương cường đầu nậu tráng đinh" gì cả. Và tại sao dịch giả lại ghép "dương cường" với "đầu nậu" và "tráng đinh"? Những thứ này có quan hệ gì với nhau chứ?

– "bất kể... những nền tảng phóng khoáng con nhà hiện đại" có nghĩa là gì? Dịch giả chêm thêm những câu vô nghĩa vào bản dịch để làm gì thế?

But Eminem, who earned $51.5 million last year, was hailed yesterday as the saviour of modern poetry by one of the world's greatest poets.
Thế nhưng Eminem, kẻ đã tóm thu bạc triệu, tính sơ chỉ một năm qua thu nhập 51 triệu đô lẻ năm trăm nghìn, kẻ ấy hôm qua lại được ngợi ca như một cứu tinh của nền thơ đương đại, mà lời ngợi ca kia chẳng phải tới từ đám phê bình gia quá chén lem nhem, mà thực của một trong những tài thơ đã được chứng thực là tầm vóc thượng hạng của thế giới méo tròn con người ta chen chúc.

– Dịch giả lại chêm thêm những điều không cần thiết vào đoạn này, thậm chí xuyên tạc nguyên tác. Tiếng Việt cũng rất lủng củng như đoạn đầu.

Seamus Heaney, winner of the Nobel Prize for Literature, said the rap star arouses interest in poetry in the way Bob Dylan and John Lennon did in the 1960s and 70s. ``There is this guy Eminem. He has created a sense of what is possible,'' Heaney said at the Prince of Wales's summer school in Norwich, England.
Seamus Heaney (có thể đọc là Shê-mớc-sơ Hinh-ni), kẻ đã từng đoạt Nobel văn chương, bảo rằng gã ngôi sao nhạc Rap kia đã làm hưng phấn sự quan tâm của các mặt trận bình dân, lẫn cô đơn trí thức, vào thơ ca, một kỳ công chưa từng thấy từ Bob Dylan (Bốp Ðia-lân), từ John Lennon (Giơn Lơn-nơn) của những năm 60, 70 ngày nọ. "Có một gã này Eminem. Gã đã tạo được cho ta một cái gì có lý, đang từ bất khả lại thành ung dung có thể, " Heaney đã nói như vậy tại trường hè Prince of Wales ở Norwich, nước Anh.

– Dịch giả lại chêm thêm những chữ vô ích. Tiếng Việt vẫn rất lủng củng.

Heaping praise on the poor boy who battled his way out of a Detroit trailer park to become the biggest-selling rap singer in the world, Heaney said Eminem had ``sent a voltage around a generation''. ``He has done this not just through his subversive attitude but also his verbal energy,'' the poet said.
Ngợi ca không tiếc chữ cậu trẻ nhà nghèo đánh những trận vào đời từ một khu nhà lưu động lẹp nhẹp ở Detroit nước Mỹ cho tới ngày nổi cồn lên lên thành ca sĩ Rap sáng nhất và chạy nhất của thế giới, Heaney bảo rằng Eminem đã "gởi một dòng điện giật vào vòng tròn thế hệ". Người thi sĩ còn tỏ bày: "Anh ta đã làm thế chẳng duy qua thái độ phản nghịch subversive mà còn qua năng lực ngôn từ sung mãn".

– "sáng nhất và chạy nhất", "chẳng duy qua": tiếng Việt gì lạ thế?

"around a generation" chỉ có thể là "quanh một thế hệ", chứ tại sao lại là "vòng tròn thế hệ". "Vòng tròn thế hệ" là gì?

Eminem, a high-school dropout who has gone on to sell 30 million albums, is likely to have been bemused by this praise from a former professor of poetry at Oxford.
Eminem, một cậu học trò đã bỏ trường ngang để đi băng ra chợ sớm, bằng 30 triệu ăn-bum chắc sẽ ngạc nhiên ngậm ngùi và ngỡ ngàng nhiên quả bởi một đề từ trang trọng như vậy của bác giáo sư đại học Oxford hưu viên.

– Lối tiếng Việt gì lạ thế này?

"bemused by this praise" sao lại dịch thành "sẽ ngạc nhiên ngậm ngùi và ngỡ ngàng nhiên quả bởi một đề từ trang trọng"? Đề từ trang trọng nào ở đây? "Praise" là "lời ca ngợi". "Epigraph" mới là "đề từ".

"a former professor of poetry at Oxford" (một cựu giáo sư thi ca tại Oxford) mà sao lại dịch là "giáo sư đại học Oxford hưu viên"? Nên dùng "hưu viên" hay "hưu trí" ở đây?

Like Eminem, and any other self-respecting hip-hop head, Heaney prizes keeping it real and spinning a good yarn. His use of the vernacular, his passion for telling tall tales and his belief in poetry as a living and important part of life, would go down well with any serious practitioner of hip-hop.
Như Eminem, và bất kỳ cái đầu hip-hop tự trọng nào khác, Heaney xem trọng sự giữ cho thực [keeping it real] và khả năng kể cho hay cho nhịp nhàng sống động một câu chuyện dù bao nhỏ. Sự sử dụng ngôn từ bình dân hè phố, niềm say mê đi kể những truyện tích hiển dương đời, và niềm tin vào thơ như một phần sinh động và thiết thân của đời sống, của nhà thơ Seamus Heaney, vốn đã ăn giơ với bất cứ một anh nhạc sĩ hip-hop nào nghiêm chỉnh làm nghề.

– Dịch giả không phân biệt được hai chữ "hiển dương" và "xiển dương". Trong trường hợp này, "tall tales" có thể dịch đơn giản là "những câu chuyện lớn", chứ sao lại rườm rà đến sai lệch thành "những truyện tích hiển dương đời"?

Heaney cites not just Eminem's subversive attitude, the stock-in-trade of many an enduring and not-so-enduring rocker, but also his verbal energy. His endorsement of Eminem, aka Marshal Mathers III, aka Slim Shady, comes at a time when rap has begun to be talked about in a more insightful way.
Heaney trưng dẫn không chỉ thái độ ngỗ nghịch phản loạn của Eminem, vốn là thứ tồn kho khuyến mãi của lắm bao nhạc sĩ Rốc, ở lâu trong nghề hay đi qua sân khấu một thoáng, mà còn ở năng lực ngôn từ của chàng nhạc sĩ nhạc Rap. Sự chuẩn phê tán trợ của Heaney cho Eminem, tức Marshal Mathers đệ Tam, tức Slim Shady, đến vào lúc nhạc Rap bắt đầu được bàn đuợc luận ở một cấp thông tri cao hơn.

– Có thể gọi là "nổi loạn" chứ sao lại là "phản loạn"?

– Tiếng Việt không có lối nói "lắm bao".

"in a more insightful way" có thể dịch là "theo một đường lối sâu sắc hơn", chứ sao lại luộm thuộm là "ở một cấp thông tri cao hơn"?

From the BBC documentary Imagine to Poet Laureate Andrew Motion, whose official rap for Prince Williams's birthday practically makes him MC By Appointment, it is now acceptable, even in polite society, to look a little deeper into the world's biggest-selling musical genre.
Từ cuốn phim tài liệu của BBC Imagine, đến Thi sĩ Công huân Anrew Motion, mà bài thơ Rap nhà nưóc đón chờ cho sinh nhật chàng hoàng tử William đã trong thực tế biến nhà thơ nhậm tước thành M-Xi Cử Ðịnh, ngày nay rõ ràng là đã chấp nhận được ngay cả trong giới luận đàm nhè nhẹ hương trà cái sự thử tìm vào, sâu hơn một tấc, thể loại nhạc đang bán chạy nhất nhất của trái đất này.

Eminem, pre-empting critics and supplicants alike, admits he is the worst thing since Elvis Presley to do black music so selfishly on the single Without Me and use it to make himself wealthy.
Eminem, nghênh chiến trước cho xong, cả giới phán phê lẫn phe chịu phép, đã tự nhận rằng anh ta là sự tệ lậu nhất kể từ Elvis Presley khi dùng nhạc đen một cách íck kỷ không nghĩ tới ai, qua bản Without Me (Không Tôi, Không Ta) và dùng nó để biến mình thành một anh nhà giàu.

– Lối pha trộn " M-Xi Cử Ðịnh" để dịch MC "By Appointment" thật là đáng kinh hãi.

– Làm gì tiếng Việt có "nghênh chiến trước"? "Nghênh chiến" là "đợi sẵn để đón địch đến mà đánh" (ví dụ, "dàn đội hình nghênh chiến với địch"). Chữ "pre-empting", trong ngữ cảnh về chiến tranh, là "đánh phủ đầu" theo kiểu "tiên hạ thủ vi cường", chứ đâu phải là đợi sẵn để đón địch đến mà đánh. Trong bài này. "pre-empting critics" có thể dịch là "đánh phủ đầu trước những tay phê bình".

– Người Việt không nói "đã trong thực tế…", mà nói là "trong thực tế đã…".

But with Eminem's lyrics focusing on murder, rape, homophobia, pedophilia, drugs and oedipal horror, it was perhaps not the view the Prince of Wales hoped to promote when he founded the summer school to remind people of the timeless principles underpinning teaching.
Nhưng với những bản nhạc mà ca từ chú mục vào những đề tài nguy hiểm như sát nhân, cưỡng hiếp, homophobia (sợ dân đồng tính), pedophilia (yêu trẻ vị thành), ma túy và hoảng kinh mặc cảm Ơ Ðíp, người ta e rằng những thứ ấy dường có lẽ chẳng nằm trong phạm trù quan điểm mà Thái Tử Charles, cha của William, hy vọng sẽ xiển dương cổ xúy khi ông ta thành lập một trường hè [mang tên mình] để nhắc nhở người ta tới những chân lý vượt thời gian đã làm thành giáo dục và ngành sư phạm.

– Dịch giả lại chêm thêm chữ sai (những chỗ tôi tô đậm). "Homophobia" không phải là "sợ dân đồng tính", mà là "sợ người đồng tính luyến ái" (đồng tính mà không "luyến ái" thì chẳng có ai kỳ thị). Tiếng Việt không có "trẻ vị thành", chỉ có "trẻ vị thành niên". "Principles" là "những nguyên tắc" chứ không phải là "những chân lý". "Teaching" chỉ có nghĩa là "dạy học" chứ không phải là "giáo dục và ngành sư phạm".

Điều đáng kinh hãi nhất qua bản dịch này không phải chỉ là lối làm việc cẩu thả, lối hiểu Anh ngữ theo cách xuyên tạc, lối thêm thắt tùy tiện bất chấp nguyên tác, mà chính là lối dùng tiếng Việt của tác giả. Dịch ra tiếng Việt là để cho người Việt thưởng thức. Tiếng Việt của dịch giả như vậy thì đáng kinh hãi quá!

London, 16.07.2003.

© 2003 talawas