Mô hình xung đột tiếp theo
Chính trị thế giới đang bước vào một thời kỳ mới, và
các học giả vội vã dội vào chúng ta những kiến giải về diện mạo
tương lai của nó: sự cáo chung của lịch sử, sự phục hồi những cuộc
cạnh tranh truyền thống giữa các nhà nước dân tộc, sự sa sút của
nhà nước dân tộc trước sức ép của các khuynh hướng khác của chủ
nghĩa phân lập bộ lạc, chủ nghĩa toàn cầu... Mỗi cách kiến giải
này đều nắm bắt những khía cạnh riêng biệt của hiện thực đang hình
thành. Nhưng tất cả chúng đều bó qua một khía cạnh cơ bản cốt yếu
nhất của vấn đề.
Tôi cho rằng nguồn gốc cơ bản của các
xung đột trên thế giới này sẽ không còn là hệ tư tưởng hay kinh tế
nữa. Các ranh giới quan trọng nhất chia rẽ loài người và nguồn gốc
bao trùm của các xung đột sẽ là văn hóa. Nhà nước dân tộc vẫn là
nhân vật chủ yếu trên sân khấu thế giới, nhưng các xung đột cơ bản
nhất của chính trị toàn cầu sẽ diễn ra giữa các dân tộc và các
nhóm người thuộc những nền văn minh khác nhau. Sự đụng độ giữa các
nền văn minh sẽ trở thành nhân tố chi phối chính trị thế giới.
Ranh giới giữa các nền văn minh sẽ là chiến tuyến tương lai.
Sự đụng độ giữa các nền văn minh sẽ là giai đoạn diễn biến
cuối cùng của các xung đột toàn cầu trên thế giới hiện đại. Trong
một thế kỷ rưỡi sau sự ra đời của hệ thống quốc tế hiện đại với
Hòa ước giữa các ông vua: các hoàng đế, quốc vương, các nhà quân
chủ chuyên chế và quân chủ lập hiến, những người ra sức mở rộng bộ
máy quan liêu; tăng cường quân đội, củng cố sức mạnh kinh tế của
mình, mà Cái chính là liên kết các vùng đất mới vào lãnh thổ của
mình. Quá trình này đẻ ra các nhà nước dân tộc, và bắt đầu từ cuộc
Ðại Cách mạng Pháp, các tuyến xung đột cơ bản kéo ra không hẳn là
giữa những người cầm quyền, mà đúng hơn là giữa các dân tộc. Như
R.R. Palmer đã nói năm 1793: „Những cuộc chiến tranh giữa các ông
vua đã chấm dứt, và những cuộc chiến tranh giữa các dân tộc đã bắt
đầu.“ Cái mô hình này kéo dài suốt thế kỷ 19 cho tới tận Chiến
tranh Thế giới thứ nhất. Rồi do kết quả của cuộc cách mạng Nga và
phản ứng chống lại nó, xung đột giữa các dân tộc nhường chỗ cho
xung đột giữa các hệ tư tưởng. Các bên xung đột lúc đầu là chủ
nghĩa cộng sản, chủ nghĩa quốc xã và chế độ dân chủ tự do, rồi sau
đó là chủ nghĩa cộng sản và chế độ dân chủ tự do. Trong thời kỳ
Chiến tranh lạnh, xung đột này thể hiện qua cuộc đọ sức giữa hai
siêu cường, mà cả hai đều không phải là nhà nước dân tộc theo
nghĩa cổ điển của Châu Âu. Mỗi siêu cường đều tự xác định mình
bằng các phạm trù hệ tư tưởng.
Xung đột giữa các ông
hoàng, các nhà nước dân tộc và các hệ tư tưởng chủ yếu là xung đột
trong nền văn minh phương Tây. William Lind gọi đó là „những cuộc
nội chiến Phương Tây“. Ðây là bản chất của Chiến tranh lạnh cũng
như của các cuộc chiến tranh thế giới và các cuộc chiến tranh hồi
thế kỷ 17, 18 và 19. Với sự kết thúc Chiến tranh lạnh, giai đoạn
Phương Tây của sự phát triển của chính trị quốc tế cũng kết thúc.
Trọng tâm xung đột chuyển thành tác động qua lại giữa Phương Tây
và các nền văn minh phi Phương Tây. Trong giai đoạn mới này, các
dân tộc và các chính phủ của các nền văn minh Phi Phương Tây không
còn đóng vai trò như là các đối tượng của lịch sử mục tiêu của
chính sách thực dân Phương Tây nữa, mà cùng với Phương Tây, chúng
bắt dầu khởi động và sáng tạo ra lịch sử.
Bản chất
của các nền văn minh Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh,
thế giới bị phân chia thành Thế giới thứ Nhất, Thế giới thứ Hai và
Thế giới thứ Ba. Nhưng sau đó, cách phân chia đó không còn thích
hợp nữa. Giờ đây sẽ có ý nghĩa hơn nhiều nếu phân nhóm các nước
theo các tiêu chí văn hóa và văn minh chứ không căn cứ vào hệ
thống chính trị hay kinh tế, hoặc theo trình độ phát triển kinh tế
của chúng.
Khi nói tới văn minh, ta hàm ý điều gì? Văn
minh là một thực thể văn hóa nào đấy. Làng xóm, khu vực, nhóm sắc
tộc, dân tộc, cộng đồng tôn giáo, tất cả đều mang sắc thái văn hóa
đặc thù của mình, phản ánh những mức độ khác nhau của tính không
đồng nhất về văn hoá. Về văn hóa, một làng phía Nam có thể khác
với một làng phía Bắc Italia, song chúng vẫn là những xóm làng
Italia, bạn không thể lẫn lộn chúng với những xóm làng người Đức.
Về phần mình, các nước Châu Âu có những đặc tính văn hóa chung
phân biệt chúng với thế giớl Trung Quốc hay Ảrập.
Vậy là
chúng ta đã đi tới bản chất của vấn đề. Bởi vì thế giới Phương
Tây, vùng Ảrập và Trung Quốc không phải là những phần của một cộng
đồng văn hóa lớn hơn. Chúng là những nền văn minh. Chúng ta có thể
xác dịnh văn minh là một cộng đồng văn hóa cao nhất, là trình độ
cao nhất của tính đồng nhất văn hóa của con người. Cấp độ tiếp
theo sẽ là những gì phân biệt loài người với các loài động vật
khác. Các nền văn minh được xác định bởi sự hiện hữu những nhân tố
chung khách quan như ngôn ngữ, lịch sử, tôn giáo, phong tục, thể
chế và cả bởi những đặc tính chủ thể của con người. Con người có
những cấp độ tự đồng nhất khác nhau: một cư dân thành Rôm có thể
xác định mình ở những mức độ khác nhau là người Rôm, người Italia,
tín đồ Thiên chúa giáo, tín đồ Kito giáo, người Châu Âu và người
Phương Tây. Nền văn minh là cấp độ tính đồng nhất rộng lớn nhất mà
anh ta sở thuộc. Tính tự đồng nhất về văn hóa của con người có thể
thay đổi và do đó, thành phần ranh giới của các nền văn minh cũng
thay đổi theo.
Nền văn minh có thể bao hàm một lượng người
đông như Trung Quốc mà như Lucian Pye đã nói, „đó là một nền văn
minh đóng vai trò nhà nước“, hoặc một nhóm người rất nhỏ như cộng
đồng người Carribe nói tiếng Anh. Một nền văn minh có thể bao hàm
một số nhà nước dân tộc như các nền văn minh Phương Tây, Mỹ
Latinh, Ảrập, hoặc có thể chỉ gồm một nhà nước như nền văn minh
Nhật Bản. Rõ ràng, các nền văn minh có thể bị pha trộn, chồng lấn
lẫn nhau và bao gồm nhiều tiểu văn minh. Nều văn minh Phương Tây
có hai biến thể chủ yếu châu Âu và Bắc Mỹ, còn nền văn minh Hồi
giáo thì có các tiểu văn minh Ảrập, Thổ Nhĩ Kỳ và Mã Lai. Dầu sao,
các nền văn minh cũng là những chỉnh thể xác định và những ranh
giới giữa chúng tuy ít khi rạch ròi nhưng có thực. Các nền văn
minh rất năng động với những bước thăng trầm, tách nhập. Và như
mọi sinh viên sử học đều biết, có những nền văn minh mất đi, cát
bụi thời gian chôn vùi chúng.
Ở Phương Tây người ta cho
rằng nhà nước dân tộc là những nhân vật chủ yếu trên sân khấu quốc
tế. Nhưng chúng đóng vai trò này chỉ trong mấy trăm năm. Một phần
lớn lịch sử loài người là lịch sử các nền văn minh. Theo tính toán
của A. Toynbee, lịch sử loài người đã biết tới 21 nền văn minh.
Chỉ có 6 trong số chúng còn tồn tại trên thế giới hiện nay.
Tại sao các nền văn minh không tránh khỏi đụng độ
với nhau? Tính đồng nhất ở cấp độ nền văn minh sẽ ngày
càng quan trọng và diện mạo thế giới sẽ được định hình ở mức độ
đáng kể trong tiến trình tương tác giữa bảy hoặc tám nền văn minh
lớn. Chúng bao gồm các nền văn minh: Phương Tây, Khổng giáo, Nhật
Bản, Hồi giáo, Ấn Ðộ, Slave Ðông chính giáo, Mỹ Latinh và có thể
cả Phi Châu, những xung đột quan trọng nhất trong tương lai sẽ nổ
ra dọc theo các đường ranh giới phân cách các nền văn minh này.
Tại sao lại như vậy?
Trước hết, những khác biệt
giữa các nền văn minh không những hiện thực mà còn cơ bản. Các nền
văn minh khác nhau về lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa, truyền thống và
quan trọng nhất là tôn giáo. Con người thuộc các nền văn minh khác
nhau nhìn theo cách khác nhau về các quan hệ giữa Chúa và Con
người, cá nhân và nhóm, công dân và nhà nước, cha mẹ và con cái,
vợ và chồng, có các quan niệm khác nhau về tầm quan trọng tương
quan giữa các quyền và nghĩa vụ, tự do các cưỡng bức, bình đẳng và
đẳng cấp. Những khác biệt này là sản phẩm của nhiều thế kỷ. Chúng
sẽ không nhanh chóng biến mất. Chúng cơ bản hơn so với những khác
biệt về hệ tư tưởng chính trị và chế độ chính trị. Đương nhiên
khác biệt không nhất thiết có nghĩa là xung đột, và xung đột không
nhất thiết có nghĩa là bạo lực. Song qua nhiều thế kỷ, chính là
những khác biệt giữa các nền văn minh đã gây ra những xung đột dai
dẳng nhất và đẫm máu nhất.
Thứ hai, thế giới đang trở nên
bé đi. Tác động qua lại giữa các dân tộc thuộc các nền văn minh
khác nhau tăng lên. Ðiều đó làm tăng tự ý thức văn minh, làm sâu
thêm sự nhận biết về những khác biệt giữa các nền văn minh cũng
như những điểm tương đồng trong khuôn khổ một nền văn minh. Làn
sóng người Bắc Phi nhập cư vào Pháp gây ra thái độ thù địch trong
người Pháp nhưng đồng thời làm tăng thiện cảm đối với những người
nhập cư khác: „những tín đồ Thiên chúa giáo và người Châu Âu ngoan
đạo“ từ Ba Lan. Người Mỹ phản ứng trước sự đầu tư của Nhật một
cách bệnh hoạn hơn nhiều so với những khoản đầu tư ở mức lớn hơn
của Canada và các nước Châu Âu. Mọi chuyện diễn ra theo kịch bản
mà Donald Horowitz đã viết: „Một ngườ Ibo có thể là Oweri Ibo hoặc
Onitsha Ibo khi ở miền Ðông Nigeria. Nhưng đến thủ đô Lagot, anh
ta chỉ đơn thuần là người Ibo. Tới London, anh ta là người
Nigeria, tới New York anh ta là người châu Phi“. Tác động qua lại
giữa những đại biểu của các nền văn minh khác nhau củng cố ý thức
về văn minh của họ vì điều đó, đến lượt nó, lại làm gay gắt thêm
những bất đồng và „thù hận đã đi vào chiều sâu của lịch sử hay ít
ra là được tiếp nhận theo kiểu đó.
Thứ ba, những quá trình
hiện đại hoá kinh tế và biến đổi xã hội trên toàn thế giới đang
phá vỡ tính đồng nhất truyền thống của con người nơi địa bàn cư
trú, đồng thời làm suy giảm vai trò của nhà nước dân tộc với tính
cách là nguồn gốc của sự đồng nhất. Những khoảng trống hình thành
như vậy phần lớn được tôn giáo, thường là dưới dạng các phong trào
chính thống, lấp vào. Những phong trào này xuất hiện không chỉ
trong Hồi giáo, mà cả trong Kito giáo Phương Tây, Do Thái giáo,
Phật giáo, Ấn Ðộ giáo. Ở hầu hết các nước và hầu hết các tôn giáo,
trào lưu chính thống được sự ủng hộ của những người trẻ tuổi có
học vấn, các chuyên gia có chuyên môn cao trong tầng lớp trung
lưu, những người làm nghề tự do, các nhà doanh nghiệp. Như George
Weigel đã nhận xét: „Phi thế tục hóa thế giới là một trong những
hiện tượng xã hội nổi bật ở cuối thể kỷ XX“. Sự phục sinh của tôn
giáo, hay như Gilles Kepel nói, „sự phục thù của Chúa“ tạo cơ sở
cho sự đồng nhất và gắn bó với tính chung, vượt ra ngoài biên giới
quốc gia, và cho sự thống nhất của các nền văn minh.
Thứ
tư, sự phát triển của tự ý thức văn minh được quyết định bởi vai
trò 2 mặt của Phương Tây. Một mặt, Phương Tây đứng trên đỉnh cao
quyền lực của mình, nhưng mặt khác, và có thể là vì vậy trong các
nền văn minh phi Phương Tây đang diễn ra hiện tượng trở về cội
nguồn. Người ta nghe thấy đề cập ngày càng nhiều tới những xu
hướng hướng nội và „Châu Á hoá“ ở Nhật, tới sự kết thúc ảnh hưởng
Nehru và „Hindu hóa“ Ấn Ðộ, tới tư tưởng về sự sụp đổ của các tư
tưởng Phương Tây về Chủ nghĩa Xã hội và Chủ nghĩa dân tộc và „Hồi
giáo hóa“ Trung Ðông, và gần dây nhất là cuộc tranh cãi về Phương
Tây hóa hay là Nga hóa đất nước của Boris Elsin. Một Phương Tây ở
đỉnh cao quyền lực của mình đối dầu với các nước phi Phương Tây
ngày càng có mong muốn, quyết tâm và nguồn lực để hình thành thế
giới theo mô hình phi Phương Tây.
Trong quá khứ, giới elit
của các nước phi Phương Tây thường là những người có liên quan
nhiều nhất đến với Phương Tây, được đào tạo ở các trường Oxford
(Anh), Sorbonne (Pháp) hoặc Sandhurst (Anh) và đã hấp thụ những
giá trị và lối sống Phương Tây. Trong khi đó, cư dân ở các nước
này thường duy trì mối liên hệ liên tục với văn hóa bản địa của
mình. Song giờ đây, mọi thứ đã thay đổi. Ở nhiều nước phi Phương
Tây, trong giới elit đang diễn ra quá trình mạnh mẽ phi Phương Tây
hóa và quay trở về với cội nguồn văn hóa riêng của mình. Trong khi
đó những tập quán lối sống và văn hóa Phương Tây, thường là của
Mỹ, lại được phổ biến trong các tầng lớp quần chúng đông đảo.
Thứ năm, các đặc tính và khác biệt văn hoá ít thay đổi hơn
so với các đặc tính và khác biệt về kinh tế và chính trị và do vậy
việc giải quyết và đưa chúng tới thỏa hiệp cũng phức tạp hơn. Ở
Liên Xô trước đây, những người cộng sản có thể trở thành người
giàu, nhưng người Nga dù có muốn bao nhiêu cũng không thể trở
thành người Estonia, và người Azerbaizan không thể trở thành người
Armenia. Trong những cuộc xung dột về giai cấp và hệ tư tưởng, câu
hỏi mấu chốt là «Anh theo phe phái nào?“ và người ta có thể lựa
chọn đứng về phe nào, và thay đổi lập trường đã chọn. Trong đụng
độ giữa các nền văn minh, câu hỏi đặt ra theo cách khác: „Anh là
ai?“ Ðấy là điều đã định và không ai có thể thay đổi. Như chúng ta
đã biết qua kinh nghiệm Bosnia, Kavkaz, Suđan, nếu trả lời sai câu
hỏi này, anh có thể lập tức nhận một viên đạn vào đầu. Tôn giáo
chia rẽ con người còn khắt khe hơn cả tính quy thuộc sắc tộc. Một
người có thể lai nửa Pháp, nửa Ảrập và thậm chí có thể là công dân
của cả hai nước này, nhưng sẽ phức tạp hơn nhiều nếu một nửa là
tín đồ Thiên chúa giáo, một nửa là tín đồ Hồi giáo.
Cuối
cùng, chủ nghĩa khu vực kinh tế đang tăng lên. Tỷ lệ chu chuyển
thương mại bên trong khu vực trong thời kỳ năm 198089 ở Châu Âu
tăng từ 51 lên 59%, ở Ðông Á từ 33 lên 37% và ở Bắc Mỹ từ 32 lên
36%. Nhìn chung, vai trò của các mối liên hệ kinh tế khu vực sẽ
được tăng cường. Một mặt, chủ nghĩa khu vực kinh tế thành công sẽ
củng cố ý thức quy thuộc về một nền văn minh. Mặt khác chủ nghĩa
kinh tế khu vực chỉ có thể thành công khi nó bắt rễ sâu vào tính
chung của nền văn minh. Cộng đồng Châu Âu dựa vào các cơ sở chung
của văn hóa Châu Âu và Kito giáo Phương Tây. Thành công của Khu
vực Mậu dịch Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) phụ thuộc vào sự nhích dần liên
tục giữa các nền văn hoá Mỹ, Canada và Mexico. Ngược lại, Nhật vấp
phải những khó khăn trong việc tạo ra một cộng đồng kinh tế tương
tự ở Ðông Nam Á vì Nhật là một xã hội và một nền văn minh cá biệt.
Dù các mối quan hệ thương mại và tài chính của Nhật với các nước
còn lại của Ðông Nam Á có mạnh như thế nào thì những khác biệt văn
hóa giữa Nhật với các nước ấy vẫn cản trở chúng tiến lên theo con
đường liên kết kinh tế khu vực như mô hình của Tây Âu hay Bắc Mỹ.
Trái lại, tính cộng đồng văn hóa rõ ràng đang tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển mau chóng những mối quan hệ kinh
tế giữa Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa với Hồng Kông, Ðài Loan,
Singapore và những cộng đồng người Hoa ở các nước Châu Á khác. Với
sự kết thúc cuộc Chiến tranh lạnh, tính cộng đồng văn hóa nhanh
chóng lấn át những bất đồng về hệ tư tưởng. Trung Hoa lục địa và
Ðài Loan đang ngày càng xích lại gần nhau. Nếu tính cộng đồng văn
hóa là tiền đề cho liên kết kinh tế thì trung tâm khối kinh tế
Ðông Á trong tương lai rất có thể sẽ là Trung Quốc. Thực tế khối
này đã xuất hiện. Như Murray Weidenbaum nhận xét: „Mặc dù Nhật Bản
hiện đang chi phối trong khu vực, nhưng một trung tâm công nghiệp,
thương mại, tài chính mới ở Châu Á đang nhanh chóng xuất hiện trên
cơ sở của Trung Quốc. Không gian chiến lược này có tiềm năng công
nghệ và sản xuất hùng mạnh (Đài Loan), có các cán bộ với kỹ năng
lỗi lạc trong lĩnh vực tổ chức, tiếp thị và dịch vụ (Hồng Kông),
có một mạng lưới truyền thông tốt (Singapore), một nguồn vốn tài
chính lớn (cả ba nước) và những nguồn lực to lớn về đất đai, tài
nguyên và lao động (Trung Hoa lục địa)... Cái cộng đồng có ảnh
hưởng mà phần nhiều được xác lập trên sự phát triển cơ sở tông
pháp truyền thống này chạy dài từ Quảng Châu tới Sinenpore, từ
Kuala Lumpur tới Manila. Đó là xương sống của nền kinh tế Ðông Á“
[l].
Tính tương đồng văn hóa tôn giáo cũng tạo thành nền
tảng của Tổ chức Hợp tác Kinh tế, liên kết 10 nước Hồi giáo không
thuộc khối Ảrập: Iran, Pakistan, Thổ Nhĩ Kỳ, Azebaizan,
Kazakhstan, Kirgizitan, Turmenia, Tadzhikistan, Uzbekistan và
Afghanistan. Tổ chức này vốn được sáng lập trong những năm 1960
bởi 3 nước Thổ Nhĩ Kỳ, Pakistan và Iran, song xung lực quan trọng
cho sự khôi phục và mở rộng nó là việc các nhà lãnh đạo một số
nước tham gia tổ chức này ý thức được rằng họ không có cơ hội được
thu nhận vào Cộng đồng châu Âu. Tương tự, tổ chức CARICOM, Thị
trường chung Trung Mỹ và MERCOSUR đều dựa trên nền tảng văn hóa
chung. Tuy vậy, các nỗ lực xây dựng một cộng đồng kinh tế rộng lớn
hơn gồm các đảo quốc vùng Caribe và Trung Mỹ không thu được kết
quả: việc bắc nhịp cầu giữa văn hóa Anh và văn hóa Mỹ Latinh cho
đến nay vẫn không thành.
Khi xác định tính đồng nhất riêng
của mình theo các mặt sắc tộc và tôn giáo, người ta có thiên hướng
gọi các quan hệ giữa mình với những người thuộc các sắc tộc và tôn
giáo khác như là các quan hệ giữa „chúng ta“ và „họ“. Sự cáo chung
của các nhà nước hệ tư tưởng hóa ở Ðông Âu và Liên Xô cũ cho phép
các hình thức truyền thống của tính đồng nhất và mâu thuân săc tộc
nổi lên hàng đầu. Những khác biệt về văn hóa và tôn giáo tạo ra
những bất đồng trên phạm vi lớn về những vấn đề chính sách, như
nhân quyền hay di cư, thương mại hay sinh thái. Sự gần gũi về địa
lý làm nảy sinh những yêu sách về lãnh thổ từ Bosnia tới Minđanao.
Nhưng điều quan trọng nhất là những nỗ lực của Phương Tây nhằm
truyền bá các giá trị của mình - nền dân chủ và chủ nghĩa tự do
với tính cách là những giá trị toàn nhân loại, duy trì ưu thế quân
sự và củng cố những lợi ích kinh tế của mình - đã vấp phải sự
chống đối của các nền văn minh khác. Các chính phủ và các nhóm
chính trị ngày càng không có khả năng động viên cư dân và hình
thành nên các liên minh trên cơ sở hệ tư tưởng và chúng càng cố
gắng đạt được sự ủng hộ bằng cách cầu cứu đến tính cộng đồng về
tôn giáo và văn minh.
Bởi vậy, sự đụng độ giữa các nền văn
minh diễn ra ở hai cấp độ. Ở cấp vi mô các nhóm nước lân cận dọc
đường ranh giới giữa các nền văn minh đấu tranh, thường là đổ máu,
để giành quyền kiểm soát đất đai và kiểm soát lẫn nhau. Ở cấp vĩ
mô, các nước thuộc những nền văn minh khác nhau cạnh tranh giành
ảnh hưởng trong lĩnh vực kinh tế và quân sự, tranh giành quyền
kiểm soát các thể chế quốc tế và các nước thứ ba, đồng thời ra sức
khẳng định các giá trị tôn giáo và chính trị của mình.
Ranh giới giữa các nền văn minh Nếu
trong những năm Chiến tranh lạnh, các lò lửa chủ yếu gây ra khủng
hoảng và đổ máu tập trung dọc các đường ranh giới chính trị và hệ
tư tưởng thì giờ đây chúng chuyển sang ranh giới giữa các nền văn
minh. Chiến tranh lạnh bắt đầu khi „bức màn sắt“ chia cắt Châu Âu
về chính trị và hệ tư tưởng. Chiến tranh lạnh chấm dứt cùng với
việc loại trừ „bức màn sắt“. Nhưng sự chia cắt Châu Âu về mặt hệ
tư tưởng vừa biến mất thì sự chia cắt nó về mặt văn hoá thành một
bên là Kito giáo Phương Tây và một bên là Đông chính giáo và Hồi
giáo lại xuất hiện. Đường phân chia quan trọng nhất ở Châu Âu, như
William Wallace quan niệm, có thể là đường ranh giới phía Ðông của
Kito giáo Phương Tây, hình thành vào năm 1500. Ðường ranh giới này
chạy dọc theo đường biên giới hiện nay giữa Phần Lan và Nga, giữa
các nước vùng Baltic và Nga, cắt ngang qua Belarussia và Ukraina,
tách vùng Tây Ukraina ngả theo Kito giáo Phương Tây và vùng Ðông
Ukraina theo Ðông chính giáo, rồi quặt sang phía Tây, tách vùng
Transylvania ra khỏi phần còn lại của Rumania, và sau đó xuyên qua
Nam Tư, gần như trùng với đường ranh giới hiện đang phân cách
Croatia và Slovenia và ra khỏi phần đất còn lại của Nam Tư. Dĩ
nhiên ở khu vực Balkan, đường ranh giới này trùng hợp với biên
giới lịch sử giữa các đế chế Habsburg và Ottoman. Các dân tộc ở
phía Bắc và phía Tây của đường ranh giới chung của lịch sử châu
Âu: chủ nghĩa phong kiến, Thời kỳ Phục Hưng, Phong trào Cải lương,
Thời kỳ Ánh sáng, cuộc Ðại Cách Mạng Pháp, Cách mạng Công nghiệp.
Nhìn chung, về mặt kinh tế họ khá hơn các dân tộc phía Ðông. Giờ
đây họ có thể tính toán hợp lực chặt chẽ hơn trong khuôn khổ nền
kinh tế Châu Âu thống nhất và củng cố các hệ thống chính trị dân
chủ. Những người ở phía Đông và phía Nam của đường ranh giới này
theo Kito Ðông chính giáo và Hồi giáo. Về mặt lịch sử, chúng thuộc
các đế chế Ottoman hoặc Sa hoàng, và dội tới chúng chỉ là tiếng
vang của các sự kiện lịch sử quyết định số phận của Phương Tây. Về
kinh tế chúng thường cách xa Phương Tây và dường như ít sẵn sàng
tạo ra các hệ thống chính trị dân chủ ổn định. Và giờ đây „tấm màn
chung“ văn hóa đã thay thế „bức màn sắt“ hệ tư tưởng với tính cách
là giới tuyến chủ yếu ở Châu Âu. Như các sự kiện ở Nam Tư cho
thấy, đấy không chỉ là ranh giới của sự khác biệt văn hóa mà đôi
khi còn là của những cuộc xung đột đẫm máu.
Cuộc xung đột
dọc đường ranh giới giữa các nền văn minh Phương Tây và Hồi giáo
đã và đang diễn ra suốt 13 thế kỷ. Sau khi Hồi giáo ra đời, cuộc
tiến quân của người Ảrập và người Moor về phía Tây và phía Bắc chỉ
kết thúc ở Tours năm 732. Suốt từ thế kỷ l l đến thế kỷ 13, đội
quân Thập tự chinh thành công tạm thời đã cố gắng đưa Kito giáo và
luật chúa tới Ðất Thánh. Từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 17, người Thổ
dưới đế chế Ottoman đã nắm được thế chủ động. Họ mở rộng quyền
thống trị của mình tới tận Trung Ðông và Balkan, chiếm
Constantinople, hai lần vây hãm thành Viena (Áo). Nhưng từ thế kỷ
19 đến đầu thế kỷ 20, quyền lực của đế chế Ottoman suy yếu, Anh,
Pháp, Italia thiết lập sự kiểm soát của Phương Tây ở phần lớn vùng
Bắc Phi và Trung Ðông.
Sau chiến tranh Thế giới thứ II,
lại đến lượt Phương Tây bắt đầu rút lui; các đế chế thực dân biến
mất; lúc đầu là chủ nghĩa dân tộc Ảrập rồi đến chủ nghĩa chính
thống Hồi giáo xuất hiện; Phương Tây trở nên lệ thuộc nặng nề vào
các nước vùng Vịnh về nhiên liệu. Các nước Hồi giáo giàu dầu mỏ
trở nên giàu tiền của và khi muốn thì chúng cũng trở nên giàu vũ
khí. Vài cuộc chiến tranh đã nố ra giữa các nước Ảrập và Israel,
một nước được lập ra theo sáng kiến của Phương Tây. Trong suốt
những năm 50, Pháp tiến hành gần như liên tục cuộc chiến tranh đẫm
máu ở Angeri. Năm 1956, lực lượng của Anh và Pháp xâm lược Ai Cập.
Năm 1958, người Mỹ tiến vào Liban, sau đó nhiều lần họ quay lại
đó: và còn tấn công Libya, tham gia vào nhiều cuộc đụng độ quân sự
với Iran. Ðể trả đũa những kẻ khủng bố Ai Cập và Hồi giáo, dược ít
nhất ba chính phủ ở Trung Ðông ủng hộ, sử dụng vũ khí của kẻ yếu,
đánh bom các máy bay và cơ sở Phương Tây, bắt con tin Phương Tây.
Cuộc chiến này giữa người Ảrập và Phương Tây lên đến đỉnh cao năm
1990, khi Mỹ đưa một đội quân khổng lồ tới Vùng Vịnh để bảo vệ một
số nước Ảrập chống lại cuộc xâm lăng của một nước Ảrập khác. Khi
cuộc chiến tranh này kết thúc, kế hoạch hậu chiến của NATO được
soạn thảo với sự cân nhắc đến những mối đe dọa và bất ổn định tiềm
tàng dọc „các đường biên giới phía Nam“.
Sự đối đầu về
quân sự giữa Phương Tây và thế giới Hồi giáo kéo dài trọn một thế
kỷ và vẫn không hề suy giảm. Mà đúng hơn là, trái lại, nó có thể
còn gay gắt hơn. Cuộc chiến tranh Vùng Vịnh đã để cho một số nước
Ảrập cảm thấy tự hào rằng Saddam Hussein đã tiến công Israel và
đương đầu với Phương Tây. Nhưng nó cũng làm cho nhiều người cảm
thấy bị lăng nhục và phẫn nộ trước sự có mặt quân sự của Phương
Tây tại Vịnh Persic, trước ưu thế quân sự khá lớn của Phương Tây
và trước việc họ không đủ khả năng làm chủ vận mệnh của chính
mình. Thêm vào đó, nhiều nước Ảrập, không chỉ các nước xuất khẩu
dầu lửa, đã đạt được trình độ phát triển kinh tế và xã hội không
còn phù hợp với các hình thức cai trị chuyên quyền nữa. Những cố
gắng nhằm thực hiện chế dộ dân chủ ở đó cũng trở nên ngày càng
mạnh mẽ hơn. Ðã có một số cởi mở nhất định trong hệ thống chính
trị của một số nước Ảrập. Nhưng được hưởng lợi lớn nhất của những
cởi mở này là những người chính thống Hồi giáo. Tóm lại, trong thế
giới Ảrập, nền dân chủ Phương Tây làm tăng các lực lượng chính trị
chống lại Phương Tây. Ðiều này có thể là một hiện tượng quá độ,
nhưng chắc chắn nó làm cho mối quan hệ giữa các nước Hồi giáo và
Phương Tây trở nên phức tạp thêm.
Những mối quan hệ đó
cũng bị phức tạp thêm bởi các nhân tố dân số. Mức tăng dân số còn
khá cao trong các nước Ảrập, đặc biệt ở Bắc Phi, đã làm tăng số
người di cư sang các nttớc Tây Âu. Ðến lượt mình, sự dồn ứ di dân
diễn ra trên cái nền xóa bỏ từng bước ranh giới bên trong giữa các
nước Tây Âu đã tạo nên những tranh cãi chính trị gay gắt. Tại
Italia, Pháp và Ðức, tệ phân biệt chủng tộc mang hình thức ngày
càng trắng trợn và từ năm 1990, phản ứng chính trị và bạo lực đối
với người Ảrập và Thổ Nhĩ Kỳ không ngừng tăng lên.
Trên cả
hai mặt trận, người ta đều nhìn thấy sự đụng độ giữa các nền vân
minh qua tác động qua lại giữa thế giới Hồi giáo và thế giới
Phương Tây. Ông M.J. Akbar, một nhà báo Ấn Độ theo Hồi giáo nhận
xét: „Phương Tây chắc chắn sẽ phải đối đầu với thế giới Hồi giáo.
Chính cái thực tế về sự truyền bá rộng rãi thế giới Hồi giáo từ
vùng Bắc Phi tới Pakistan sẽ dẫn tới cuộc đấu tranh cho một trật
tự thế giới mới“. B. Lewis cũng đi đến một kết luận tương tự:
„Trước chúng ta là một tinh thần và một phong trào hoàn toàn khác,
không chịu sự khống chế của chính trị và các chính phủ muốn lợi
dụng chúng. Đó đúng là sự đụng độ giữa các nền văn minh. Có thể là
phản ứng không duy lý nhưng được quy định về mặt lịch sử của kẻ
cạnh tranh cổ xưa của chúng ta sẽ chống lại truyền thống Do Thái -
Kito giáo của chúng ta, hiện tại trần thế của chúng ta và sự bành
trướng ra toàn cầu của cái này và cái kia“[2].
Trong
trường kỳ lịch sử, nền văn minh Ảrập Hồi giáo nằm trong sự tương
tác đối kháng thường xuyên với những người đa thần giáo, những
người theo thuyết vật linh và ngày nay chủ yếu là các cư dân da
đen theo Thiên chúa giáo ở phương Nam. Trong quá khứ, sự đối kháng
này thể hiện qua hình ảnh người mua bán nô lệ Ảrập và người nô lệ
da đen. Ngày nay, nó dược phản ánh qua cuộc nội chiến đang tiếp
diễn ở Suđan giữa người Ảrập và người da đen, qua cuộc đấu tranh
vũ trang ở Sad giữa quân nổi loạn được Liby ủng hộ và chính phủ,
qua các quan hệ căng thẳng giữa người Kito Ðông chính giáo và
người Hồi giáo ở mũi Châu Phi, những cuộc xung đột chính trị dẫn
tớl đụng độ đổ máu giữa người Hồi giáo và người Kito giáo ở
Nigiena. Quá trình hiện đại hóa và mở rộng Kito giáo ở Châu Phi
chỉ làm tăng khả năng xảy ra bạo lực ở dọc tuyến này. Triệu chứng
về sự gay gắt của cuộc xung đột này là bài diên văn của Giáo hoàng
John Paul II ngày 12-2-1993 tại Khartum, trong đó ông công kích
những hành động của chính phủ Hồi giáo Suđan chống lại thiểu số
Kitô giáo ở nước đó.
Trên đường biên giới phía Bắc của thế
giới Hồi giáo, xung đột triển khai chủ yếu giữa người Ðông chính
giáo và người Hồi giáo. Ở đây cần đề cập đến cuộc tàn sát lẫn nhau
ở Bosnia và Sarajevo, bạo lực giữa người Serb và người Albani, mối
quan hệ phân biệt đối xử giữa người Bungari và thiểu số người Thổ
Nhĩ Kỳ ở Bungari, đụng độ đổ mÁu giữa người Osetia và Ingush,
người Armenia và người Azerbaizan, xung đột giữa người Nga và
người Hồi giáo ở Trung Á để bảo vệ các lợi ích của Nga. Tôn giáo
hâm lại tính tự đồng nhất sắc tộc đang phục hồi và tất cả những
điều đó làm cho người Nga lo ngại hơn về an ninh ở các đường biên
giới phía Nam của họ. Archie Roosevelt đã cảm thấy mối lo lắng
này. Ông viết: „Phần lớn lịch sử nước Nga liên quan tới cuộc đấu
tranh giữa người Slave và các dân tộc gốc Thổ trên đường biên giới
của họ cách đây hơn một nghìn năm khi nhà nước Nga được thiết lập.
Trong cuộc đấu tranh kéo dài nghìn năm này của người Slave với
những người láng giềng Phương Ðông của họ, chìa khóa để đạt được
sự hiểu biết không phải chỉ là lịch sử Nga mà là chất Nga. Ðể hiểu
được những thực tế nước Nga ngày nay, người ta không được quên
nhóm sắc tộc Thổ đã thu hút sự chú ý của người Nga suốt nhiều thế
kỷ“. [3]
Sự đụng độ giữa các nền văn minh bắt rễ sâu ở các
vùng khác tại Châu Á. Cuộc đấu tranh đã bắt rễ sâu vào lịch sử
giữa người Hồi giáo và Hmdu ở Tiểu lục địa Ấn Ðộ ngày nay thể hiện
rõ không chỉ trong sự cạnh tranh giữa Pakistan và Ấn Độ mà còn
trong sự tăng cường thù địch tôn giáo giữa các nhóm Hindu ngày
càng cuồng chiến và thiểu số người Hồi giáo Ấn Ðộ. Việc phá hủy
nhà thờ Hồi giáo Ayodhya tháng 12-1992 đã đặt ra vấn đề là liệu Ấn
Độ có còn là một nhà nước thế tục và dân chủ hay đã trở thành một
nhà nước Hindu. Ở Ðông Á, Trung Quốc đưa ra những yêu sách lãnh
thổ gần như với tất cả các nước láng giềng. Nó đã trấn áp tàn nhẫn
những tín đồ Phật giáo ở Tây Tạng và giờ đây sẵn sàng trừng trị
thẳng tay đối với thiểu số người Hồi giáo nói tiếng Thổ. Với cuộc
Chiến tranh lạnh kết thúc, những mâu thuẫn giữa Mỹ và Trung Quốc
lại thể hiện đặc biệt mạnh trong các lĩnh vực như nhân quyền,
thương mại và vấn đề phổ biến vũ khí giết người hàng loạt, và
không có bất cứ hi vọng nào dịu đi. Như Ðặng Tiểu Bình đã khẳng
định trong năm 1991, „cuộc Chiến tranh lạnh mới giữa Trung Quốc và
Mỹ vẫn đang tiếp diễn“.
Ý kiến của Đặng Tiểu Bình cũng có
thể áp dụng cho các quan hệ đang ngày càng phức tạp thêm giữa Nhật
Bản và Mỹ. Ở đây, những khác biệt văn hoá cũng làm tăng xung đột
về kinh tế. Mỗi bên đều lên án sự phân biệt chủng tộc của bên kia,
nhưng ít nhất là về phía Mỹ, mối ác cảm không mang tínhchất chủng
tộc mà mang tính chất văn hoá. Thật khó hình dung về hai xã hội
cách xa nhau về các giá trị cơ bản , tâm thế và phong cách ứng xử.
Những bất đồng về kinh tế giữa Mỹ và Châu Âu không kém phần nghiêm
trọng, nhưng chúng không nổi bật về chính trị và đậm nét về tình
cảm, bởi vì mâu thuẫn giữa văn hóa Mỹ và văn hóa Châu Âu kém gay
gắt hơn nhiều so với giữa văn minh Mỹ và văn minh Nhật Bản.
Khả năng tiềm tàng xảy ra bạo lực trong sự tương tác giữa
các nền văn minh khác có thể thay dổi. Sự cạnh tranh kinh tế chiếm
ưu thế trong quan hệ giữa hai tiểu văn minh Mỹ và Châu Âu cũng như
trong quan hệ giữa Phương Tây nói chung và Nhật Bản. Ðồng thời ở
Châu Âu, việc các xung đột sắc tộc đang lan rộng dẫn tới các cuôc
„thanh lọc sắc tộc“ đã không còn là chuyện lẻ tẻ nữa. Chúng thường
hay diễn ra nhất giữa các nhóm người thuộc các nền văn minh khác
nhau trong trường hợp đó chúng mang hình thức cực đoan nhất. Những
ranh giới đã hình thành một cách lịch sử giữa các nền văn minh
thuộc lục địa Châu Âu giờ đây lại bùng lên ngọn lửa xung đột. Các
xung đột này đạt tới mức căng thẳng tột độ dọc các dường ranh giới
của khối Hồi giáo, trải ra theo hình lưỡi liềm trên vùng giữa Bắc
Phi và Trung Á. Nhưng bạo lực cũng đã xảy ra qua các vụ xung đột
giữa một bên là người Hồi giáo và một bên là những người Serb theo
Ðông chính giáo ở Balkan, người Do Thái ở Israel, người Hindu ở Ấn
Ðộ, người Phật giáo ở Mianma và người Thiên chúa giáo ở Philippin.
Các đường biên giới của thế giới Hồi giáo khắp nơi đều đẫm máu.
Tập hợp nền Văn minh: Hội chứng ”quốc gia thân
tộc” Các nhóm hoặc các nước thuộc một nền văn minh
dính líu vào một cuộc chiến tranh với những người thuộc một nền
văn minh khác đương nhiên tìm cách tập hợp sự ủng hộ của các đại
biểu của nền văn minh của mình. Với sự kết thúc Chiến tranh lạnh,
một trật tự thế giới đã hình thành, và theo mức độ hình thành đó,
tính quy thuộc về một nền văn minh, hay nói như S. Greenwey, hội
chứng „quốc gia thân tộc“ đang thay thế hệ tư tưởng chính trị và
các cách kiến giải truyền thống về việc duy trì sự cân bằng sức
mạnh với tính cách là nguyên tắc cơ bản của hợp tác và liên minh.
Có thể thấy hôi chứng này đang xuất hiện dần dần qua tất cả các
cuộc xung đột thời gian gần đây: ở vùng Vịnh Persic, vùng Kavkaz
và Bosnia. Ðúng là tất cả các cuộc xung đột này không phải là các
cuộc chiến tranh với quy mô đầy đủ giữa các nền văn minh , nhưng
mỗi cuộc xung đột đều bao hàm những yếu tố của sự tập hợp bên
trong các nền văn minh. Ðiều đó dường như đã trở nên lớn hơn khi
các cuộc xung đột tiếp tục.
Thứ nhất: Trong các cuộc chiến
tranh Vùng Vịnh, một nước Ảrập đã xâm chiếm một nước Ảrập khác và
tiếp đó phải chiến đấu với một liên minh gồm các nước Ảrập, Phương
Tây và các nước khác. Tuy chỉ có một vài chính phủ Hồi giáo công
khai ủng hộ Saddam Hussein, nhưng giới elit cầm quyền của nhiều
nước Ảrập, với tư cách cá nhân, đã ủng hộ ông ta và Saddam Hussein
đã rất được lòng dân trong các tầng lớp đông đảo cư dân Ảrập. Các
phong trào chính thống Hồi giáo đã hoàn toàn ủng hộ Iraq chứ không
ủng hộ các chính phủ Kuweit và Ảrập Xêút được Phương Tây hỗ trợ.
Hâm nóng lại chủ nghĩa dân tộc Ảrập, Saddam Hussein công khai kêu
gọi cộng đồng Hồi giáo. Ông ta và những người ủng hộ cố diễn tả
cuộc chiến tranh này như một cuộc đấu tranh giữa các nền văn minh.
Như lời ông Safer Al-Hawai, chủ nhiệm Khoa Nghiên cứu Hồi giáo tại
Ðại học Umn Al-Quara ở Mecca, nói trong một bài diễn văn được phổ
biến rộng rãi: „Ðấy không phải là thế giới chống lại Iraq mà là
Phương Tây chống lại Hồi giáo“. Vượt qua các cuộc cạnh tranh giữa
Iran, Ayatollah Ali Khomenei đã kêu gọi tiến hành một cuộc chiến
tranh thần thánh chống lại Phương Tây: „Cuộc đấu tranh chống sự
xâm lăng, lòng tham, các kế hoạch và chính sách của Mỹ sẽ được coi
là cuộc thánh chiến và những ai hi sinh trong cuộc chiến này dều
là những người tử vì đạo“. Còn vua Georđani là Hussein thì tuyên
bố: „Ðây là cuộc chiến tranh chống lại tất cả người Ảrập và người
Hồi giáo chứ không chỉ chống lại riêng Iraq“.
Một tập hợp
gồm phần lớn giới elit và cư dân Ảrập hậu thuẫn cho Saddam Hussein
đã làm cho các chính phủ Ảrập lúc đầu tham gia liên minh chống
Iraq phải hạn chế bớt hành đồng và hạ giọng những tuyên bố công
khai của họ. Các chính phủ Ảrập đã tránh xa hoặc phản đối những cố
gắng tiếp theo của Phương Tây nhằm gây sức ép đối với Iraq, trong
đó có việc quy định khu vực „cấm bay“ áp dụng từ mùa hè năm 1992
và ném bom Iraq hồi tháng 1-93. Liên minh chống Iraq, gồm Phương
Tây, Liên Xô, Thổ Nhĩ Kỳ và các nước Ảrập, hình thành năm 1990,
đến năm 1993 chỉ còn lại Phương Tây và Kuweit. So sánh quyết tâm
của Phương Tây chống Iraq với việc Phương Tây không bảo vệ dược
những người Hồi giáo Bosnia trước người Serb và không áp dặt được
những sự trừng phạt đối với việc Israel vi phạm những nghị quyết
của Liên IIợp Quốc, những người Hồi giáo tố cáo Phương Tây áp dụng
tiêu chuẩn nước dôi. Nhưng thế giới diễn ra sự đụng độ giữa các
nền văn minh tất yếu là một thế giới với tiêu chuẩn nước đôi:
người ta áp dụng một tiêu chuẩn cho các „nước thân tộc“ và một
tiêu chuẩn khác cho các nước còn lại.
Thứ hai: Hội chứng
nước thân tộc cũng xuất hiện trong các cuộc xung đột tại Liên Xô
cũ. Những thắng lợi quân sự của người Armenia hồi năm 1992 - 1993
đã khuyến khích Thổ Nhĩ Kỳ ủng hộ tích cực hơn những người
Berthren cùng tôn giáo, sắc tộc và ngôn ngữ với họ ở Azerbaizan.
Một quan chức cấp cao Thổ Nhĩ Kỳ nói: „Người Thổ Nhĩ Kỳ có cùng
những tình cảm như người Azerbaizan. Chúng tôi hiện nay đang bị
sức ép. BÁo chí của chúng tôi đăng đầy ảnh về những hành động tàn
bạo của người Armenia: Người ta hỏi chúng tôi: lẽ nào chúng tôi
vẫn nghiêm chỉnh theo đuổi chính sách trung lập? Có lẽ chúng tôi
phải cho Armenia biết là vẫn còn một nước Thổ Nhĩ Kỳ to lớn ở khu
vực“. Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ T. Ozal cũng nhất trí với điều này.
Ông tuyên bố cần đe doạ Armenia ít nhiều. Năm 1993 ông lại doạ
rằng „Thổ Nhĩ Kỳ sẽ còn cho thấy nanh vuốt của mình“. Không lực
Thổ Nhĩ Kỳ đã tiến hành các chuyến bay trinh thám trên dọc đường
biên giới Armenia. Thổ Nhĩ Kỳ và Iran cũng tuyên bố sẽ không cho
phép chia cắt Azerbaizan. Trong những năm tồn tại cuối cùng của
mình, chính phủ Liên Xô đã ủng hộ Azerbaizan, nơi những người cộng
sản vẫn nắm quyền lực. Tuy nhiên, với việc Liên Xô sụp đổ, các
động cơ chính trị bị các động cơ tôn giáo thay thế. Giờ đây quân
đội Nga đã chiến đấu bên cạnh người Armenia, còn người Azerbalzan
thì tố cáo „chính phủ Nga quay ngoắt 180 độ sang ủng hộ Armenia
Kito giáo“.
Thứ ba: Nhìn vào cuộc chiến hiện nay ở Nam Tư
thì thấy ở đây công chúng Phương Tây đã bày tỏ sự đồng tình và ủng
hộ những người Hồi giáo Bosnia và mối lo sợ và ghê tởm trước những
hành động dã man do người Serb gây ra. Tuy nhiên, nó tương đối ít
quan tâm tới những cuộc tiến công của người Croat dối với người
Hồi giáo và sự chia cắt Bosnia Hersegovina. Trong thời kỳ đầu sự
tan rã của Nam Tư, Ðức đã thể hiện một sáng kiến và áp lực ngoại
giảo không bình thường, thuyết phục 11 nước thành viên khác của EC
làm theo Ðức công nhận Slovenia và Croatia. Cố gắng củng cố địa vị
của hai nước Thiên chúa giáo này, Vaticăng đã công nhận Slovenia
và Croatia thậm chí trước cả EC. Mỹ cũng làm theo gương Châu Âu
trong chuyện này. Như vậy, các nước chủ yếu trong nền văn minh
Phương Tây đã tập hợp để làm hậu thuẫn cho các đạo hữu của họ. Và
sau đó có tin Croatia nhận dược khối lượng vũ khí từ Trung Âu và
các nước Phương Tây khác: Mặt khác, chính phủ Elsin cố gắng theo
đuổi chính sách trung lập để không phá vỡ quan hệ với những người
Serb theo Ðông chính giáo và không làm nước Nga đối lập với Phương
Tây. Tuy nhiên, những người bảo thủ và dân tộc chủ nghĩa Nga,
trong đó có nhiều đại biểu nhân dân, đã chỉ trích chính phủ không
ủng hộ mạnh mẽ hơn đối với những người Serb. Vào đầu năm 1993,
hàng trăm người Nga hình như đã phục vụ trong các lực lượng của
người Serb và có tin là vũ khí Nga đã được cung cấp cho Serbia.
Ðến lượt mình, các chính phủ và các nhóm chính trị Hồi
giáo cũng chỉ trích Phương Tây là đã không bảo vệ những người Hồi
giáo Bosnia. Các lãnh tụ Iran đã kêu gọi những người Hồi giáo ở
tất cả các nước giúp đỡ Bosina. Vi phạm lệnh cấm vận vũ khí của
Liên Hợp Quốc, Iran đã cung cấp quân lính và vũ khí cho Bosnia.
Các nhóm Liban dược Iran ủng hộ đã phái du kích tới huấn luyện tổ
chức các lực lượng vũ trang Bosnia. Có tin năm 1993, tớ1 4000
người Hồi giáo từ hơn 20 nước Hồi giáo đã chiến đấu ở Bosnia.
Chính phủ Ảrập Xeút và các nước khác bị các nhóm chính thống ở
nước họ gây sức ép ngày càng lớn đòi hỏi ủng hộ mạnh mẽ hơn đối
với Bosnia. Theo tin tức, vào cuối năm 1992, Ảrập Xêút đã giúp
những người Hồi giáo Bosina nhiều tiền mua vũ khí và lương thực,
thực phẩm. Ðiều đó đã làm tăng đáng kể khả năng quân sự của họ đối
với người Serb.
Trong những năm 1930, cuộc nội chiến Tây
Ban Nha đã gây ra sự can thiệp của những nước mà về mặt chính trị
vốn là phát xít, cộng sản và dân chủ. Ngày nay, trong những năm
1990, cuộc xung dột Nam Tư đã gây ra sự can thiệp của các nước Hồi
giáo, Ðông chính giáo và Kito giáo Phương Tây. Sự tương đồng này
không phải không được người ta để ý tới. Một biên tập viên Ảrập
Xêút nhận xét: „Cuộc chiến tranh ở Bosnia Hersegovina đã trở thành
cuộc chiến đầy xúc động giống như chiến tranh chống chủ nghĩa phát
xít trong những năm nội chiến ở Tây Ban Nha. Những ai đã hi sinh ở
đó đều được coi là những người tử vì đạo đã hiến dâng sự sống của
mình dể cứu những người Hồi giáo anh em của họ“.
Xung đột
và bạo lực cũng sẽ xảy ra giữa các nước và các nhóm trong cùng một
nền văn minh, cũng như bên trong các nước đó. Tuy nhiên, chúng
thường không đến mức căng thẳng và rộng khắp bằng cuộc xung đột
giữa các nền văn minh. Tính quy thuộc về cùng một nền văn minh sẽ
làm giảm bớt khả năng xảy ra bạo lực trong trường hợp mà nếu không
trong hoàn cảnh đó thì tất yếu sẽ xảy ra bạo lực. Trong năm 199 l
và 1992, nhiều người đã lo ngại về khả năng nổ ra xung đột quân sự
giữa Nga và Ukraina về các vùng lãnh thổ tranh chấp, dặc biệt là
Krưm, hạm đội Biển Ðen, vấn đề các kho hạt nhân và các vấn để kinh
tế. Nhưng nếu xét đến tính quy thuộc văn minh thì thấy khả năng
xảy ra xung đột vũ trang giữa Nga và Ukraina sẽ không lớn. Chúng
là hai dân tộc gốc Slave, chủ yếu theo Ðông chính giáo, có quan hệ
chặt chẽ với nhau hàng nhiều thế kỷ. Và vì vậy, vào đầu năm 1993,
bất chấp tất cả những lý do có thể làm nổ ra xung đột, các nhà
lãnh đạo của 2 nước đã thương lượng có hiệu quả, loại bỏ được
những bất đồng. Trong khi đó trên lãnh thổ Liên Xô trước đây, đã
diễn ra những trận chiến ác liện giữa những người Hồi giáo và Kito
giáo, sự căng thẳng dẫn tới một số cuộc xung đột trực tiếp giữa
người Kito giáo Phương Tây và người Kito Ðông chính giáo tại các
nước Baltic; nhưng giữa người Nga và người Ukraina đã không xảy ra
bạo lực.
Tới nay, sự tập hợp các nền văn minh còn mang
những hình thức hạn chế nhưng quá trình đó đang tăng lên và nó có
tiềm năng đáng kể cho tương lai. Cùng với diễn biến các cuộc xung
đột ở vùng Vịnh Persic, vùng Kavkaz và Bosina, lập trường của các
nước khác nhau và sự bất đồng giữa chúng ngày càng được quyết định
theo tính quy thuộc văn minh. Các nhà chính trị theo phái dân tuý,
các nhà lãnh đạo tôn giáo và các phương tiện thông tin đại chúng
nhận thấy nó là một công cụ mạnh mẽ đảm bảo cho họ sự ủng hộ của
đông dảo cư dân và cho phép họ gây sức ép với các chính phủ còn
chần chừ, ngần ngại. Trong tương lai gần, các cuộc xung đột địa
phương, giống như các cuộc xung đột ở Bosinia và vùng Kavkaz, xảy
ra dọc theo ranh giới các nền văn minh sẽ có nhiều nguy cơ nhất
chuyển thành các cuộc chiến tranh quy mô lớn. Cuộc chiến tranh thế
giới tới đây, nếu nó xảy ra, sẽ là cuộc chiến tranh giữa các nền
văn minh.
Phương Tây đốí đầu với phần còn lại của
thế giới Phương Tây hiện nay đang ở đỉnh cao quyền lực
của mình trong quan hệ với các nền văn minh khác. Siêu cường thứ
hai, mà trước đây là đối thủ của nó, đã biến mất khỏi bản đồ chính
trị thế giới. Người ta không thể nghĩ tới một cuộc xung đột quân
sự giữa các nước Phương Tây, và sức mạnh quân sự của Phương Tây là
không có gì sánh dược. Nếu không kể Nhật Bản thì Phương Tây không
có kẻ cạnh tranh kinh tế nào. Nó thao túng trong lĩnh vực chính
trị, trong lĩnh vực an ninh và, cùng với Nhật Bản, cả trong lĩnh
vực kinh tế. Các vấn đề chính trị và an ninh toàn cầu đều được
giải quyết có hiệu quả theo sự chỉ đạo của Mỹ, Anh và Pháp; các
vấn đề kinh tế thế giới được giải quyết theo sự chỉ đạo của Mỹ,
Ðức và Nhật bản. Tất cả những nước này có quan hệ chặt chẽ đặc
biệt với nhau, không cho các nước nhỏ hơn, các nước thuộc thế giới
phi phương Tây lọt vào nhóm của mình. Các quyết định do Hội đồng
Bảo an Liên Hợp Quốc hoặc Quỹ Tiền tệ Quốc tế thông qua, phản ánh
những lợi ích của Phương Tây đều được trình bày trước thế giới như
là các quyết định đáp ứng những nguyện vọng thiết thân của cộng
đồng thế giới. Chính nhóm từ „cộng đồng thế giới“ đã trở thành
uyển ngữ thay thế cho nhóm từ „thế giới Tự do“ nhằm đưa lại tính
hợp pháp toàn cầu cho những hành động phản ánh các lợi ích của Mỹ
và các nước lớn Phương Tây khác [4] Thông qua IMF và các tổ chức
kinh tế thế giới khác, Phương Tây thực hiện các lợi ích kinh tế
riêng của họ và áp đặt cho các nước khác chính sách kinh tế mà
Phương Tây cho là thích đáng. Trong bất kỳ cuộc thăm dò nào ở các
nước phi Phương Tây, IMF rõ ràng chỉ giành được sự ủng hộ của các
bộ trưởng tài chính và một số người khác, nhưng không được sự ủng
hộ của đại đa số cư dân. Ông G. Arbatov đánh giá các quan chức IMF
là những „người Bolsevich mới“, thích chiếm đoạt tiền của người
khác, áp đặt cho họ các điều luật không dân chủ và xa lạ về hành
vi kinh tế, chính trị và tước đoạt tự do kinh tế của họ“.
Phương Tây chi phối trong Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc,
và các quyết định của nó, chỉ đôi khi bị giảm đi do Trung Quốc bỏ
phiếu trắng; đã bảo cho Phương Tây các cơ sở hợp pháp dể sử dụng
lực lượng dưới đanh nghĩa Liên Hợp Quốc nhằm đẩy Iraq ra khỏi
Kuweit và thủ tiêu các loại vũ khí tinh xảo của Iraq cùng khả năng
của nước này sản xuất những vũ khí đó. Một việc cũng chưa từng có
là yêu sách do Mỹ, Anh và Pháp đưa ra, nhân đanh Hội đồng Bảo an
đòi Liby trao những kẻ tình nghi thực hiện vụ đánh bom chiếc máy
bay của hãng hàng không PANAm I03 cho họ và sau đó áp đặt những
trừng phạt khi Liby từ chối thực hiện yêu sách đó. Sau khi đánh
đội quân Ảrập to lớn nhất, Phương Tây đã không ngần ngại triển
khai sức mạnh của họ trong thế giới Ảrập. Thực tế, Phương Tây đang
sử dụng các tổ chức, sức mạnh quân sự và các nguồn tài chính quốc
tế để điều hành thế giới, đồng thời củng cố ưu thế của mình, bảo
vệ những lợi ích của Phương Tây và khẳng định những giá trị chính
trị và kinh tế của Phương Tây.
Ít ra là các nước phi
Phương Tây đã nhìn thế giới ngày nay như vậy và trong quan điểm
của họ có một phần đáng kể chân lý. Những sự chênh lệch về quy mô
quyền lực và đấu tranh dành quyền lực quân sự, kinh tế, chính trị
như vậy là một nguồn gây ra xung đột giữa Phương Tây và các nền
văn minh khác. Nhưng khác biệt về văn hoá, những giá trị cơ bản và
niềm tin là một nguồn khác gây ra xung đột ông V.S. Naipaul khẳng
định rằng văn minh Phương Tây là nền „văn minh phổ quát“ phù hợp
với tất cả mọi người. Bề ngoài, nhiều thứ trong nền văn hoá Phương
Tây thực sự đã thâm nhập vào phần còn lại của thế giới. Tuy nhiên
ở mức độ sâu hơn, những quan niệm và tư tưởng Phương Tây khác biệt
về cơ bản với những gì vốn có trong các nền văn minh khác. Các
quan niệm Phương Tây, như chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tự do, chủ
nghĩa lập hiến, chủ nghĩa nhân quyền, bình đẳng tự do, địa vị tối
cao của luật pháp, dân chủ, thị trường tự do, việc tách biệt nhà
thờ với nhà nước, gần như không có tiếng vang trong các nền văn
hóa Hồi giáo, Nho giáo, Nhật giáo, Ấn Ðộ giáo, Phật giáo và Ðông
chính giáo. Những cố gắng của Phương Tây nhằm truyền bá những quan
niệm này thường gây ra sự phản ứng thù địch chống lại „chủ nghĩa
đế quốc về quyền con người“ và góp phần khẳng dịnh những giá trị
văn hóa bản địa. Ta có thể thấy điều này, chẳng hạn, qua việc thế
hệ trẻ ủng hộ chủ nghĩa chính thống tôn giáo các nước phi Phương
Tây. Nhưng ngay luận đề về khả năng có một nền „văn minh phổ quát“
cũng là một ý niệm Phương Tây. Nó trực tiếp xung khắc vơi chủ
nghĩa cát cứ của phần lớn các nền văn hoá châu Á và với sự chú
trọng của nền văn hóa đó tới những dị biệt chia rẽ những người này
với những người kia. Thực tế, như nghiên cứu so sánh về ý nghĩa
của 100 phương châm giá trị trong xã hội khác nhau đã cho thấy,
„những giá trị được coi là quan trọng nhất ở Phương Tây lại ít
quan trọng nhất ở phần còn lại của thế giới“ [5]. Trong lĩnh vực
chính trị,sự khác biệt này thể hiện rõ nhất trong các cố gắng của
Mỹ và các nước Phương Tây khác nhằm áp đặt cho nhân dân các nước
khác những ý tưởng của Phương Tây về dân chủ và nhân quyền. Chính
phủ dân chủ hiện đại hình thành một cách lịch sử ở Phương Tây. Nếu
nó được khẳng định ở đâu đó tại các nước phi Phương Tây, nó chỉ là
sản phẩm của chủ nghĩa thực dân hoặc sự áp đặt của Phương Tây.
Nhìn chung, trung tâm chính trị thế giới trong tương lai,
theo nhận định của Kishore Mahbubani, có thể là xung đột giữa
„Phương Tây và phần thế giới còn lại“ và phản ứng của các nền văn
minh phi Phương Tây đối với quyền lực và những giá trị của Phương
Tây [6]. Phản ứng này thường mang một trong 3 hình thức, hoặc kết
hợp của cả 3 hình thức đó. Thứ nhất, và đây là phương án cực đoan
nhất, các nước phi Phương Tây có thể theo gương Bắc Triều Tiên hay
Mianma, đi theo con đường cách biệt, giữ cho đất nước mình tách
khỏi sự thâm nhập và suy đồi của Phương Tây, về cơ bản không tham
gia đời sống cộng đồng thế giới do Phương Tây thao túng. Tuy
nhiên, cái giá phải trả cho con đường này rất cao và chỉ ít nước
đi theo con đường này triệt để. Khả năng thứ hai là thử hòa nhập
với Phương Tây và chấp nhận những giá trị và thể chế của nó. Nói
theo ngôn ngữ lý luận quan hệ quốc tế thì đó là „nhảy lên đoàn
tàu“. Khả năng thứ ba là cố gắng „cân bằng“ với Phương Tây bằng
cách phát triển sức mạnh kinh tế và quân sự, hợp tác với các nước
phi Phương Tây khác chống lại Phương Tây, trong khi đó duy trì
những giá trị và thể chế dân tộc bản xứ. Nói gọn lại là hiện đại
hoá nhưng không Phương Tây hoá.
Các nước phân
rã Trong tương lai, khi tính quy thuộc một nền văn
minh nào đó trở thành cơ sở tự đồng nhất của con người thì các
nước có nhiều dân tộc với những nền văn minh khác nhau, như Liên
Xô hay Nam Tư, là những nước đứng đầu về khả năng phân rã. Nhưng
có cả những nước khá đồng nhất về mặt văn hóa nhưng lại không nhất
trí về vấn đề là mình thuộc về văn minh nào. Ðó là những nước phân
rã bên trong. Chính phủ của các nước đó thường thích „nhảy lên
đoàn tàu“ và gắn với Phương Tây nhưng lịch sử, văn hóa và truyền
thống của chúng lại chẳng có gì chung với Phương Tây cả. Thí dụ rõ
rệt và điển hình nhất về nước phân rã bên trong là Thổ Nhĩ Kỳ. Ban
lãnh đạo cuối thế kỷ 20 của Thổ Nhĩ Kỳ trung thành với truyền
thống Attaturk và liệt đất nước của mình vào các nhà nước dân tộc
thế tục hiện đại kiểu Phương Tây . Nó biến Thổ thành đồng minh của
Phương Tây theo NATO và trong cuộc chiến tranh Vùng Vịnh, nó đã
xin được là thành viên Cộng đồng Châu Âu. Nhưng đồng thời lại có
những yếu tố riêng biệt trong xã hội Thổ ủng hộ việc phục hồi các
truyền thồng Hồi giáo và khẳng định rằng trên cơ sở của mình, Thổ
Nhĩ Kỳ là một nước Hồi giáo Trung Ðông. Ngoài ra, trong khi giới
elit chính trị của Thổ xác định Thổ là một xã hội Phương Tây, thì
giới elit chính trị của Phương Tây lại không thừa nhận điều đó.
Thổ sẽ không trở thành thành viên của Cộng đồng Cchâu Âu và lí do
đích thực của điều đó, như tổng thống Ozal nói, „là ở chỗ chúng
tôi là những người Hồi giáo, còn họ là những người Kito giáo,
nhưng họ không nói toạc ra điều đó“. Rời bỏ Thánh địa Mecca và rồi
bị Brussel ruồng bỏ, Thổ sẽ trông cậy vào đâu? Câu trả lời có thể
là „Tashkent“. Liên Xô sụp đổ tạo cho Thổ cơ hội độc nhất trở
thành người lãnh đạo nền văn minh Thổ đang được phục hồi, bao gồm
7 nước từ biên giới Hi Lạp đến biên giới của Trung Quốc. Được
Phương Tây khuyến khích, Thổ đang dồn mọi cố gắng để tạo ra cho
mình tính đồng nhất mới này.
Trong thập kỷ qua, cả Mexico
cũng lâm vào cảnh ngộ như của Thổ. Giống như Thổ từ bỏ sự chống
đối lịch sử của mình đối với Châu Âu và rắp ranh gia nhập Châu Âu,
Mexico cũng không còn tự coi mình đối lập với Mỹ như trước đây
nữa, mà cố tìm cách bắt chước Mỹ và gia nhập Khu vực Mậu dịnh Tự
do Bắc Mỹ. Các nhà chính trị Mexico đang bận bịu giải quyết một
nhiệm vụ lớn lao là xác định lại tính đồng nhất của Mexico và thực
hiện những cải cách kinh tế cơ bản, dần dần sẽ dẫn tới những thay
đổi chính trị cơ bản . Năm 1991, cố vấn thứ nhất của Tổng thống
Carlos Salinas de Gortari đã mô tả tỉ mỉ cho tôi những thay đổi mà
chính phủ Salinas đang thực hiện. Khi ông ta nói xong tôi nhận
xét: „Những điều ngài nói gây cho tôi ấn tượng mạnh mẽ. Dường như
về cơ bản ngài muốn biến Mexico từ một nước Mỹ Latinh thành một
nước Bắc Mỹ“. Ông ta nhìn tôi ngạc nhiên và kêu lên: „Ðúng như
vậy! Đó đúng là những gì mà chúng tôi đang tìm cách làm, nhưng tất
nhiên không ai nói công khai như vậy!“ Nhận xét đó cho thấy, ở
Mexico cũng như ở Thổ, có những lực lượng xã hội quan trọng chống
lại cách xác dịnh mới về tính đồng nhất dân tộc. Tại Thổ, các nhà
hoạt động chính trị có xu hướng Châu Âu phải làm những động tác
đối với phía Hồi giáo (cuộc hành hương của Ozal tới thánh địa
Mecca), cũng giống như các nhà lãnh đạo Mexico có xu hướng Bắc Mỹ
phải có động tác với những người coi Mexico vẫn là một nước My
Latinh (cuộc gặp cấp cao Ibero-Mỹ do Salinas tổ chức tại
Guadalajara).
Về mặt lịch sử, Thổ là nước bị rạn nứt bên
trong sâu sắc nhất. Đối với Mỹ, Mexico là nước bị phân rã bên
trong gần nhất. Trên phạm vi toàn cầu, Nga là nước bị phân rã
nghiêm trọng nhất. Vấn đề liệu Nga có phải là một bộ phận của
Phương Tây hay không, haỵlà người lãnh đạo nền văn minh Slave Đông
chính giáo đặc thù của mình, là vấn đề được đặt ra không chỉ một
lần trong lịch sử Nga. Vấn đề này còn bị rối thêm do chiến thắng
của những người cộng sản Nga vũ trang bằng hệ tư tưởng của Phương
Tây, họ đã thích dụng nó vào điều kiện của Nga và rồi thách thức
Phương Tây dưới danh nghĩa của hệ tư tưởng đó. Sự thống trị của
Chủ nghĩa Cộng sản đã chấm dứt cuộc tranh luận lịch sử giữa phái
Tây Âu và phái Slave. Nhưng khi Chủ nghĩa Cộng sản bị gạt bỏ,
người Nga lại một lần nữa đứng trước vấn đề này.
Tổng
thống Elsin đang vay mượn những nguyên tắc và mục đích của Phương
Tây, tìm cách làm cho Nga trở thành một nước „bình thường“ của thế
giới Phương Tây. Vậy mà cả giới elit cầm quyền lẫn đông đảo dân
chúng Nga đều bị chia rẽ về vấn đề này. Một trong số những người
bất đồng chính kiến ôn hoà là Sergei Stankevich cho rằng nước Nga
cần khước từ đường lối „Ðại Tây Dương hoá“, một quá trình sẽ biến
Nga thành một nước Châu Âu, thành một bộ phận của hệ thống kinh tế
thế giới, thành viên thứ 8 của nhóm 7 nước phát triển hiện nay,
rằng nó không được trông đợi ở Ðức và Mỹ, là các nước chủ đạo của
liên minh Ðại Tây Dương“. Trong khi bác bỏ chính sách thuần
„Âu-Á“, Stankevich vẫn cho rằng nước Nga phải ưu tiên việc bảo vệ
người Nga đang sinh sống ở nước ngoài. ông nhấn mạnh tới các mối
liên hệ của Nga với Thổ và Hồi giáo và kiên trì đòi hỏi „phân phối
lại cho thoả đáng các nguồn lực của Nga, xem xét lại các ưu tiên,
các mối liên hệ và lợi ích của chúng ta ở phía Đông, có lợi cho
châu Á“. Những người theo thuyết này chỉ trích Elsin để các lợi
ích của Nga lệ thuộc vào Phương Tây, làm giảm sức mạnh phòng thủ
của nước Nga, từ chối ủng hộ những người bạn truyền thống như Serb
và lựa chọn đường lối cải cách kinh tế và chính trị đem lại cho
nhân dân vô số khổ đau. Biểu hiện của chiều hướng này là sự quan
tâm trở lại đối với những ý tưởng của Petr Savixki, người mà trong
những năm 1920 đã viết rằng Nga là „một nền văn minh Âu-Á duy
nhất“.[7] Có cả những tiếng nói gay gắt hơn, đôi khi mang tính
chất dân tộc chủ nghĩa, chống Phương Tây và bài Do Thái công khai.
Họ đòi Nga phục hồi sức mạnh quân sự và thiết lập những quan hệ
chặt chẽ với Trung Quốc và các nước Hồi giáo. Nhân dân Nga bị phân
rã không kém giới elit chính trị. Một cuộc thăm dò dư luận xã hội
ở phần Châu Âu của Nga vào mùa xuân năm 1992 cho thấy rằng 40% dân
chúng có thái độ tích cực đối với Phương Tây còn 36% có thái độ
tiêu cực. Vào đầu những năm 1990, cũng như trong gần suốt toàn bộ
lịch sử của mình, nước Nga vẫn là một nước phân rã bên trong.
Ðể một nước bị phân rã bên trong có thể lấy lại tính đồng
nhất văn hoá của mình, cần có ba điều kiện. Thứ nhất, giới elit
chính trị và kinh tế của nước đó nói chung phải có thái độ ủng hộ
và hoan nghênh bước đi này. Thứ hai, nhân dân nước đó phải nhất
trí, dù là miễn cưỡng, chấp nhận tính đồng nhất mới. Thứ ba, các
nhóm đang chi phối trong nền văn minh mà nước bị phân rã đang cố
hoà nhập vào phải sẵn sàng hoan nghênh người mới thay đổi chính
kiến. Mexico có 3 điều kiện này. Thổ có 2 điều kiện đầu. Còn đối
với Nga, một nước đang muốn kết thân với Phương Tây, thì hoàn toàn
không rõ tình hình là như thế nào. Xung đột giữa nền dân chủ tự do
và chủ nghĩa Marx-Lenin là cuộc xung đột giữa các hệ tư tưởng mà,
dù có những khác biệt lớn, bề ngoài vẫn có chung những mục tiêu cơ
bản là tự do, bình đẳng và phồn vinh . Nhưng một nước Nga truyền
thống, chuyên quyền và dân tộc chủ nghĩa sẽ hướng tới những mục
tiêu hoàn toàn khác. Một người dân chủ Phương Tây hoàn toàn có thể
tranh luận về tri thức với một người macxít Liên Xô. Nhưng sẽ vô
nghĩa nếu tranh luận với một người theo chủ nghĩa truyền thống
Nga. Và nếu người Nga, khi không còn là những người macxít nữa,
bác bỏ chế độ dân chủ tự do và bắt đầu xử sự như những người Nga
chứ không phải là như những người Phương Tây, thì những quan hệ
giữa Nga và Phương Tây có thể lại trở nên xa cách và thù địch [8].
Khối Nho giáo - Hồi giáo Những chướng
ngại đặt ra trên con đường các nước phi Phương Tây gia nhập Phương
Tây là khác nhau về mức độ sâu sắc và phức tạp. Đối với các nước
Mỹ La tinh và Ðông Âu, trở ngại không lớn lắm. Ðối với các nước
Ðông chính giáo thuộc Liên Xô cũ, trở ngạI đáng kể hơn nhiều.
Nhưng những trở ngại nghiêm trọng nhất là đặt ra cho các nước Hồi
giáo, Nho giáo, Ấn Ðộ giáo và Phật giáo. Nhật Bản đã xác lập được
một vị trí độc nhất cho riêng bản thân mình với tư cách là một
thành viên liên kết của Phương Tây. Về một số mặt nào đó, nó nằm
trong số các nước Phương Tây, nhưng rõ ràng nó khác Phương Tây về
những chiều cạnh quan trọng nhất của mình. Những nhà nước mà vì lí
do văn hoá hoặc quyền lực không muốn hoặc không thể gia nhập
Phương Tây sẽ cạnh tranh với Phương Tây bằng cách phát triển sức
mạnh kinh tế, quân sự và chính trị của riêng mình. Chúng làm điều
này bằng cách phát triển bên trong và hợp tác với các nước phi
Phương Tây khác. Thí dụ nổi bật nhất của sự hợp tác này là khối
Nho giáo - Hồi giáo, hình thành như là sự thách thức với các lợi
ích, giá trị và sức mạnh của Phương Tây.
Các nước Phương
Tây, gần như không trừ nước nào, đang cắt giảm sức mạnh quân sự
của mình. Dưới sự lãnh đạo của Elsin, nước Nga cũng làm như vậy.
Tuy nhiên Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và một loạt các nước Trung
Ðông đang tăng đáng kể tiềm năng quân sự của chúng. Chúng làm điều
này bằng cách mua vũ khí của các nước Phương Tây và phi Phương Tây
và phát triển ngành công nghiệp quân sự riêng của mình. Kết quả là
đã xuất hiện một hiện tượng mà Ch. Krautheimer gọi là hiện tượng
của các nước được vũ trang, nhưng „các nước được vũ trang“ lại
hoàn toàn không phải là các nước Phương Tây. Một kết quả khác là
việc xem xét lại khái niệm kiểm soát vũ khú. ý tưởng về kiểm soát
vũ khí là do Phương Tây đưa ra. Trong suốt thời kì Chiến tranh
lạnh, mục đích hàng đầu của sự kiểm soát đó là thiết lập một sự
cân bằng quân sự ổn định giữa một bên là Mỹ và các đồng minh của
Mỹ và bên kia là Liên Xô và các đồng minh của Liên Xô. Trong thời
kì sau Chiến tranh lạnh, mục tiêu hàng đầu của kiểm soát vũ khí là
ngăn chặn nguồn đe doạ tiềm tàng các lợi ích của Phương Tây.
Phương Tây thực hiện điều này thông qua các hiệp định quốc tế, sức
ép kinh tế, kiểm soát việc chuyển giao vũ khí và kỹ thuật quân sự.
Xung đột giữa Phương Tây và các nước Nho giáo Hồi giáo tập
trung chủ yếu, tuy không phải là hoàn toàn, xung quanh các vấn đề
vũ khí hạt nhân, hoá học, sinh học, tên lửa đạn đạo và các phương
tiện phức tạp khác phục vụ cho việc phóng vũ khí đó, và các hệ
thống điều khiển, quan sát và các phương tiện điện tử khác để đạt
mục tiêu ấy. Phương Tây tuyên bố lấy nguyên tắc không phổ biến vũ
khí làm chuẩn mực chung và bắt buộc, và lấy các hiệp định không
phổ biến vũ khí và giám sát làm biện pháp để thực hiện chuẩn mực
ấy. Phương Tây cũng dự tính một hệ thống các hình thức trừng phạt
khác nhau chống lại những ai tạo điều kiện phổ biến những loại vũ
khí tối tân và ưu đãi đối với những ai tuân thủ nguyên tắc không
phổ biến vũ khí. Dĩ nhiên, mối quan tâm của PhươngTây tập trung
vào các nước thực sự hoặc có khả năng thù địch chống lại mình.
Về phía mình, các nước phi Phương Tây lại khẳng định quyền
của mình được nắm giữ, sản xuất và triển khai bất cứ loại vũ khí
nào mà họ cho là cần thiết đối với an ninh của họ. Họ cũng thấm
nhuần sâu sắc chân lí mà Bộ trưởng bộ Quốc phòng Ấn Ðộ nói ra khi
trả lời câu hỏi là ông ta đã rút ra được bài học gì từ cuộc chiến
tranh vùng Vịnh: „Ðừng giây với Mỹ khi anh không có vũ khí hạt
nhân”. Vũ khí hạt nhân, vũ khí hoá học và tên lửa được coi - có lẽ
là sai lầm - là đối trọng tiềm tàng với ưu thế to lớn của Phương
Tây trong lĩnh vực vũ khí thông thường. Dĩ nhiên, Trung Quốc đã có
vũ khí này trên lãnh thổ của mình. Bắc Triều Tiên, Iran, Iraq,
Liby và Algeri đang cố gắng tìm cách có được loại vũ khí này. Một
quan chức cấp cao Iran đã tuyên bố các nước Hồi giáo cần có vũ khí
hạt nhân và năm 1988 có tin tổng thống Iran đã ra lệnh kêu gọi sản
xuất „vũ khí phòng vệ và tấn công loại hoá học, sinh học và phóng
xạ“.
Sự mở rộng sức mạnh quân sự của Trung Quốc và khả
năng của Trung Quốc tăng cường sức mạnh đó cả trong tương lại đóng
vai trò quan trọng trong việc tạo ra tiềm lực quân sự chống Phương
Tây. Nhờ phát triển kinh tế thành công, Trung Quốc thường xuyên
tăng chi phí quân sự và hiện đại hoá mạnh mẽ quân đội của mình.
Trung Quốc đang mua vũ khí từ các nước thuộc Liên Xô (cũ) , tiến
hành việc chế tạo tên lửa đạn đạo tầm xa. Năm 1992, Trung Quốc thử
một quả bom hạt nhân công suất một mégaton. Thực hiện chính sách
mở rộng ảnh hưởng của mình, Trung Quốc đang nghiên cứu hệ thống
tiếp dầu trên không và tìm cách có được các tàu sân bay. Sức mạnh
quân sự của Trung Quốc và tham vọng của nó chi phối vùng biển Nam
Trung Hoa đang gây ra chạy đua vũ trang ở Ðông Nam Á. Trung Quốc
cũng là nước xuất khẩu lớn về vũ khí và kỹ thuật quân sự. Nó cung
cấp cho Liby và Iraq những nguyên liệu có thể dùng để sản xuất vũ
khí hạt nhân và hơi độc huỷ hoại thần kinh. Nó đã giúp Algeri xây
dựng một lò phản ứng tiện lợi cho việc nghiên cứu và sản xuất vũ
khí hạt nhân. Trung Quốc cũng đã bán cho Iran kỹ thuật hạt nhân,
mà theo các chuyên gia Mỹ, chỉ có thể dùng để sản xuất vũ khí.
Trung Quốc đã chuyển cho Pakistan những bộ phận của tên lửa tầm
300 dặm Anh. Trong một thời gian Bắc Triều Tiên đã nghiên cứu
chương trình sản xuất vũ khí hạt nhân - người ta biết rằng nước
này đã bán tên lửa tối tân và kỹ thuật tên lửa cho Syri và Iran.
Dòng chảy của vũ khí và kỹ thuật quân sự thường theo chiều từ Đông
Nam Á sang Cận Ðông. Tuy nhiên, cũng có một vài trường hợp ngược
chiều: chẳng hạn Trung Quốc lại nhận tên lửa Stinger từ Pakistan.
Như vậy, khối quân sự Nho giáo - Hồi giáo đã hình thành.
Mục đích của nó là thúc đẩy các nước thành viên của mình mua sắm
vũ khí và kỹ thuật quân sự cần thiết nhằm tạo ra đối trọng với sức
mạnh quân sự của Phương Tây. Không biết liệu nó có tồn tại lâu dài
hay không. Nhưng hiện tại, như Dave McCurdy nói, „đó là liên minh
của những kẻ bội giáo, do bọn phổ biến vũ khí hạt nhân và những kẻ
ủng hộ chúng cầm đầu“. Một hình thức chạy đua vũ trang mới đang
được triển khai giữa các nước Hồi giáo - Nho giáo và Phương Tây.
Trong giai đoạn trước, mỗi bên nghiên cứu và sản xuất vũ khí nhằm
đạt được sự cân bằng hoặc chiếm ưu thế trước bên kia . Giờ đây một
bên nghiên cứu và sản xuất các loại vũ khí mới còn bên kia thì cố
hạn chế và ngăn chận việc tăng cùờng vũ khí ấy, đồng thời giảm
tiềm lực quân sự của chính mình.
Những hàm ý đối
với Phương Tây Bài báo này không khẳng định rằng tính
đồng nhất văn minh sẽ thay thế tất cả các hình thức tính đồng nhất
khác, rằng các nhà nước dân tộc sẽ biến mất, rằng mỗi nền vàn minh
sẽ trở thành một thực thể chính trị duy nhất và hoàn chỉnh, rằng
các nhóm khác nhau trong một nền văn minh sẽ không còn xung đột và
đấu tranh với nhau. Tôi chỉ nêu ra giả thiết rằng những khác biệt
giữa các nền văn minh là có thực và quan trọng; tự ý thức về văn
minh đang tăng lên; xung đột giữa các nền văn minh sẽ thay thế
xung đột hệ tư tưởng và các dạng xung đột khác với tính cách là
hình thức xung đột chi phối toàn cầu; các quan hệ quốc tế, mà về
mặt lịch sử là trò chơi trong khuôn khổ nền văn minh Phương Tây,
sẽ ngày càng phi Phương Tây hóa và trở thành một trò chơi mà trong
đó các nền văn minh phi Phương Tây sẽ là các nhân vật tích cực chứ
không đơn thuần là các đối tượng tiêu cực; các thể chế quốc tế có
hiệu quả trong lĩnh vực chính trị, kinh tế và an ninh sẽ hình
thành bên trong các nền văn minh chứ không phải là giữa chúng;
xung đột giữa các nhóm thuộc các nền văn minh khác nhau sẽ nổ ra
thường xuyên hơn, dai dẳng hơn, đẫm máu hơn so với các cuộc xung
đột bên trong một nền văn minh; xung đột vũ trang giữa các nhóm
thuộc những nền văn minh khác nhau sẽ là nguồn gốc có xác suất lớn
nhất và nguy hiểm nhất gây ra tình trạng căng thẳng, là nguồn tiềm
tàng dẫn tới chiến tranh thế giới; các trục chủ yếu của chính trị
thế giới sẽ là quan hệ giữa Phương Tây và phần còn lại của thế
giới; các giới elit chính trị ở một số nước bị phân rã, phi phương
Tây sẽ cố đưa đất nước của mình vào Phương Tây, nhưng trong hầu
hết các trường hợp họ đều vấp phải những trở ngại lớn; trong tương
lai gần, các lò lửa xung đột chủ yếu sẽ là quan hệ qua lại giữa
Phương Tây và một vài nước Hồi giáo - Nho giáo.
Ðó không
phải là bằng chứng về mong muốn có những cuộc xung đột giữa các
nền văn minh: mà chỉ là bức tranh giả định về tương lai. Nhưng nếu
giả thuyết của tôi có lý thì cần cân nhắc xem điều đó có ý nghĩa
gì đối với chính sách của Phương Tây. Ở đây cần phân biệt rõ giữa
cái lợi ngắn hạn và giải pháp dài hạn. Nếu xuất phát từ lập trường
cái lợi ngắn hạn thì rõ ràng các lợi ích của Phương Tây đòi hỏi
cũng có sự hợp tác và thống nhất trong nội bộ nền văn minh của
mình, trước hết là giữa châu Âu và Bắc Mỹ; liên kết vào thành phần
Phương Tây các nước Ðông Âu và Mỹ Latin, những nơi có nền văn hoá
gần gũi với những nền văn hoá Phương Tây; duy trì và mở rộng những
mối quan hệ hợp tác với Nga và Nhật Bản, ngăn chặn các cuộc xung
đột cục bộ giữa các nền văn minh leo thang thành chiến tranh quy
mô lớn giữa các nền văn minh; hạn chế sự bành trướng sức mạnh qnân
sự của các nước Nho giáo và Hồi giáo; cắt giảm dần sức mạnh quân
sự của Phương Tây; ủng hộ đại diện của các nền văn minh khác có
đồng cảm với những giá trị và lợi ích của Phương Tây; tăng cường
các thể chế quốc tế phản ánh và hợp pháp hóa các lợi ích và giá
trị lợi ích của Phương Tây, thu hút các nước phi Phương Tây tham
gia vào những thể chế đó.
Về lâu dài, cần hướng vào những
tiêu chí khác. Nền văn minh Phương Tây vừa Phương Tây lại vừa hiện
đại. Các nền văn minh phi Phương Tây thì cố trở nên hiện đại nhưng
không biến thành Phương Tây. Cho đến nay, mới chỉ có Nhật Bản hoàn
toàn thành công trong việc này. Các nền văn minh phi Phương Tây sẽ
tiếp tục cố gắng trở nên giàu có, có được kỹ thuật, kỹ xảo, thiết
bị vũ khí, tất cả những gì bao hàm trong khái niệm „hiện đại hóa“.
Ðồng thời họ cũng sẽ cố gắng kết hợp hiện đại hóa với những giá
trị và nền văn hoá truyền thống của mình. Sức mạnh kinh tế và quân
sự của họ sẽ tăng lên, khoảng cách với Phương Tây sẽ giảm đi.
Phương Tây ngày càng phải thích nghi những nền văn mmh mà sức mạnh
của chúng thì ngày càng tiến gần tới sức mạnh của Phương Tây,
nhưng lợi ích và giá trị thì hoàn toàn khác biệt với lợi ích và
giá trị của Phương Tây. Ðiều này đòi hỏi Phương Tây phải duy trì
tiềm lực của mình ở mức cần thiết để bảo vệ các lợi ích của Phương
Tây trong quan hệ với các nền văn minh khác. Nó cũng cần phải hiểu
biết sâu sắc hơn các cơ sở tôn giáo và triết học cơ bản của các
nền văn minh đó. Nó cần phải biết con người trong các nền văn minh
ấy hình dung lợi ích của mình như thế nào. Cần phải tìm ra những
yếu tố tương đồng giữa nền văn mmh Phương Tây và các nền văn minh
khác. Bởi vì trước mắt, sẽ chẳng có nền văn minh phổ quát nào hình
thành, mà thay vào đó sẽ là một thế giới bao gồm các nền văn minh
khác nhau, và mồi nền văn minh đó sẽ phải học cách cùng tồn tại
với tất cả các nền văn minh còn lại.
Chú
thích [l] Weidenbaum M. Trung Quốc
lớn hơn: Siêu cường kinh tế tiếp theo?. Trung tâm Nghiên cứu
Doanh nghiệp Mỹ. Ðại học Washington. „Những vấn đề đương đại”.
Loạt sách 57. tháng 1.1993, tr.2-3.
[2] Lewis B. Những nguồn
gốc của cơn thịnh nộ Hồi giáo. "Nguyệt san Đại Tây Dương“, tập
226, tháng 9.1990. tr. 60; „Thời báo“, 15.6.1992, tr.24-28.
[3]
Roosevelt A. Vì lòng tham hiểu biết. Boston, 1988,
tr.332-333.
[4] Trong thực tế, các nhà lãnh đạo Phương Tây luôn
viện dẫn những gì đang tác động dưới danh nghĩa „Cộng đồng thế
giới“. Nhưng quan trọng là điều mà Thủ tướng Anh J. Major đã lỡ
miệng nói ra khi trả lời phỏng vấn của chương trình „Xin chào nước
Mỹ“ tháng 12.1990. Khi nói về các hành động được thực hiện để
chống Saddam Hussein. Major dùng từ „Phương Tây“. Mặc dầu ông ta
đã sửa ngay và tiếp đó ông nói về „Cộng đồng thế giới“, nhưng ông
đã đúng chính vào lúc ông lỡ lời.
[5] Thời báo New York“.
25.12.1990. tr. 41; Nghiên cứu xuyên văn hoá về chủ nghĩa cá
nhân và chủ nghĩa tập thể. „Diễn đàn Nebraska về động cơ.
1989, tập 37. tr41-133.
[6] Mahbubi K. Phương Tây và phần
còn lại của thế giới. „Lợi ích quốc gia“, Mùa hè 1992:
tr.3-13.
[7] Stankevich S. Nước Nga đi tìm chính mình.
„Lợi ích quốc gia”, Mùa hè 1992. tr.47-51; Schneider D.A. Phong
trào Nga từ chối nghiêng về Phương Tây. „Người răn bảo khoa
học Kito giáo“, 5-2-1993, tr. 57.
[8] Như O.Harris nhận xét, cả
Australia cũng định trở thành một nước phân rã bên trong. Tuy nước
này là thành viên đầy đủ của thế giới Phương Tây, ban lãnh đạo
hiện nav của nó thực tế đang đề nghị để nó tách khỏi Phương Tây,
tiếp nhận sự đồng nhất mới với tính cách là một nước Châu Á và
phát triển các mối liên hệ chặt chẽ với các nước láng giềng. Họ
chỉ ra rằng tương lai của Australia gắn với các nền kinh tế đang
phát triển năng động của Đông Á. Nhưng như tôi đã nói, sự hợp tác
kinh tế chặt chẽ thường đòi hỏi phải có cơ sở văn hóa thống nhất.
Ngoài các điều khác, trong trường hợp của Australia, dường như
thiếu cả 3 điều kiện cần thiết cho một nước bị phân rã bên trong
có thể tiếp hợp với một nền văn minh khác.
The Clash of
Civilizations?
Nguồn: Foreign Affairs. Summer 1993,
v72, n3, p22(28). COPYRIGHT Council on Foreign Relations Inc.
1993