trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 884 bài
  1 - 20 / 884 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Văn họcVăn học Việt Nam
19.11.2007
Bùi Văn Phú
Hai giờ với thi sĩ Nguyễn Chí Thiện
 1   2 
 
Đầu tháng 11.2007 nhà thơ Nguyễn Chí Thiện đã đến miền Bắc California để có những sinh hoạt giới thiệu tập truyện tiếng Anh của ông, tác phẩm Hoả Lò / Hanoi Hilton Stories [1] vừa được Yale University Southeast Asia Studies xuất bản. Nhân dịp đến Đại học U.C. Berkeley, ông đã dành cho chúng tôi một cuộc phỏng vấn.
Bìa tập truyện Hoả Lò / Hanoi Hilton Stories do Yale Southeast Asia Studies xuất bản năm 2007
Bùi Văn Phú: Thưa ông Nguyễn Chí Thiện, ông bắt đầu sáng tác từ khi nào?

Nguyễn Chí Thiện: Tôi làm thơ trước khi viết văn. Như nhiều người Việt Nam, tôi thích làm thơ. Tôi bắt đầu làm thơ từ năm 15 tuổi, tức là năm 1954; thời đó cũng thường bắt chước những ông Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ thế thôi. Vì thế những bài thơ đầu tiên sau này thấy nó trẻ con.

Bùi Văn Phú: Ông còn nhớ bài thơ đầu tiên của mình?

Nguyễn Chí Thiện: Bây giờ khó nhớ vì những bài thơ đó chưa đạt yêu cầu nên đã loại nó ra khỏi bộ nhớ của mình.

Bùi Văn Phú: Tại sao ông lại làm thơ?

Nguyễn Chí Thiện: Đua đòi thôi. Chơi với bạn bè mấy ông làm thơ thì mình cũng làm thơ.

Bùi Văn Phú: Lúc đó ông làm thơ tình hay thơ phản ánh xã hội?

Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện tại Đại học U.C. Berkeley, 1.11.2007 (ảnh Bùi Văn Phú)
Nguyễn Chí Thiện: Bài thơ trong thời gian đầu mà tôi còn nhớ là bài “Con tầu rêu”, bắt chước “Con tầu say” [2] của thi sĩ Pháp Arthur Rimbaud, nó cũng có những câu buồn:

Tôi đã biết những đêm dài ròng rã
Con tầu câm trôi giữa bóng trăng sao
Biết dừng đâu, không bóng hải đăng nào
Ra tín hiệu đón con tầu buồn bã

Tôi đã biết những bình minh đói lả
Biến sang mầu loang tím của chiều hoang
Con tầu đi vô định lệ rộng hàng
Thương xót những mảnh tầu trôi vạn ngả

Bài thơ ấy đã mang nỗi buồn rồi, nhưng sự thực chữ nghĩa dùng vẫn còn bị ảnh hưởng của những nhà thơ tiền chiến. Bài “Con tầu rêu” còn có những câu:

Bơ vơ mãi nơi biển trời quạnh quẽ
Đêm ngày mơ sao cập bến bờ vui
Giữa phong ba trong sóng gió dập vùi
Tôi đã đóng những con tầu đẹp đẽ

Và từ đó triền miên trên sóng cả
Con tầu tôi đi kiếm bến bình an
Bốn chung quanh lồng lộng bão cơ hàn
Không phá nổi mảnh buồm căng gió thả

Lúc còn thanh niên, còn hăng. Sau đó có những câu thơ buồn, những câu chửi bới nữa chứ:

Tôi đã biết những con tầu hể hả
Những con tầu cặn bã của trùng dương
Chúng dọc ngang trên khắp mọi nẻo đường
Phun khói độc kín trời mây biển cả

Tức là bắt đầu xỏ lá, chửi rồi đấy. Như thế vẫn chưa làm chủ được mình đâu. Kết luận của nó như thế này:

Tầu tôi hỡi thôi chìm sâu đáy nước
Đâu còn gan giương lại cánh buồm xưa
Khi trông về bát ngát dưới màn mưa
Phơi xác nát bao con tầu thuở trước

Những bài thơ buồn như thế, đến nỗi mà học trò của tôi cũng nói thế. Thời đó tôi dạy lén tiếng Pháp vì tôi không được phép dạy học. Mà không dạy thì chết đói. Đang ngồi làm thơ có học trò đến, nó đọc bài thơ đó và nói thơ của tôi sao buồn thế. Như thế mình cũng thích, vì chúng nó cảm nhận được nỗi buồn của mình.

Bùi Văn Phú: Bài thơ đó ông viết vào năm nào?

Nguyễn Chí Thiện: Khoảng năm 64, 65. Lúc bấy giờ còn ở ngoài.

Bùi Văn Phú: Khi bị vào tù, ông còn nhớ bài thơ đầu tiên ông sáng tác trong đó?

Nguyễn Chí Thiện: Bài đầu tiên trong tù tôi viết là trong những năm ở nhà tù Trần Phú, Hải Phòng, nói lên cảnh thật. Đây là lần đầu tiên mình làm thơ tả cảnh thật và không còn bị ảnh hưởng bởi ai nữa.

Bùi Văn Phú: Ông còn nhớ bài thơ đó không?

Nguyễn Chí Thiện: Nhớ chứ. Lúc bấy giờ trong tù nắng lên, hết đông sang hè thì những người tù đem quần áo ra phơi ở ngoài sân. Đống quần áo rách vá, hôi hám, bẩn thỉu lắm, phơi trên dây thép, phơi ở dưới sân cho đỡ mốc rồi lại cất đi để đến mùa xuân khác. Quần áo tù của những ông già, những người ở nông thôn bị bắt, linh tinh cả. Họ ngồi ve vuốt những quần áo cũ, ngồi lo lắng, chuẩn bị cho tương lai, đi trại phải mang nó theo, không có thì rét chết. Trong trại tù ở Hải Phòng có cây bàng, tự nhiên tôi thấy buồn và làm 12 câu thơ như thế này:

Nắng đã lên rồi hè đã sang
Trước sân yên tĩnh bóng cây bàng
Anh em tù phạm đem chăn áo
Phơi khắp sân và dây thép cao

Quần áo chăn màn tuy chẳng mới
Phần đông rách vá, mầu bạc phai
Nhưng những con người trong khổ ải
Trầm ngâm ve vuốt lo ngày mai

Bỗng dưng tôi thấy lòng bồi hồi
Vì tôi nghĩ tới ngày tháng trôi
Và vì những thứ phơi trong nắng
Là cả đông buồn trước mắt tôi

 

*


Bùi Văn Phú: Tập thơ đầu tiên tiên của ông được xuất bản ở hải ngoại có một hành trình nhiều gian nan, ông có thể kể lại chuyện ông đem tập thơ vào sứ quán Anh?

Nguyễn Chí Thiện: Đầu năm 1979 Trung Quốc đánh cộng sản Việt Nam làm tôi rất lo. Hôm ấy tôi nhớ như in là đang nằm trên giường, tự nhiên cái loa bên dưới loan tin Trung Quốc ngang nhiên xua xe tăng đánh chiếm sáu tỉnh biên giới. Tôi lập tức dậy, vồ mấy bộ quần áo và trốn đi ngay.

Đi ra Hà Nội. Lên đó ở nhà mấy ông bạn không bị tù, chứ lại nhà những ông từng đi tù thì cũng chung số phận như mình cả vì họ cũng trốn hết, như Kiều Duy Vĩnh cũng trốn rồi. Lên Hà Nội nay ở nhà ông này, mai ở nhà ông khác chứ không muốn bị bắt lần thứ ba. Nếu để bị bắt lần thứ ba thì mẻ mặt vì tuổi tôi cũng đã nhiều rồi, hơn 40. Với lại mình yếu, nếu đi tù lần thứ ba mấy chục năm nữa thì tiêu rồi. Trong khi đó mình còn món nợ chưa trả là thơ làm còn giữ đầy đầu, nếu chết đi thì phiền lắm, vì thế phải trốn ngay. Trốn loanh quanh ở Hà Nội chừng hơn nửa tháng thì Đặng Tiểu Bình tuyên bố rút quân. Vì trước khi đánh, Đặng Tiểu Bình cũng đã nói là cuộc tấn công chỉ giới hạn trong không gian và thời gian. Khi đó mình mới cảm thấy yên tâm. Còn Brezhnev có tuyên bố một câu: “Trung Quốc hãy rút khỏi Việt Nam trước khi quá muộn”. Liên Xô đe vì đã kí hiệp định an ninh với Việt Nam trước khi Việt Nam đưa quân qua Campuchia.

Nghe tin Trung Quốc rút quân thì tôi mò về, đi chuyến tầu tối từ Hà Nội về Hải Phòng. Về đến nhà, vừa lên gác đang loay hoay mở khoá cửa thì đã có ông công an đứng ngay sau lưng rồi. Không biết ông ấy đứng đợi từ lúc nào, ông ấy đưa tờ giấy mời mai lên đồn.

Từ đó cứ lên đồn, lên sở nhiều lần để hỏi cung. Mà tôi đã giải thích, tôi không ưa gì ông Trung Quốc, giả sử như Mỹ đánh hay Pháp đánh vào thì các ông nghi ngờ tôi còn có lí, đàng này Trung Quốc là đồng chí đánh nhau với các ông mà các ông hỏi tôi thì làm sao tôi biết được. Về phát biểu tư tưởng, tôi nói thật với các ông là Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch cả hai tôi đều không ưa. Mà không bao giờ tôi ưa thằng Tầu cả. Giả sử như mai mốt thằng Liên Xô ngấp nghé ngoài cửa biển, mấy ông lại bắt tôi nữa thì tôi sống vào đâu. Bạn bè của các ông đánh các ông mà các ông lại cứ lôi tôi ra. Lúc đó tôi còn phải lo miếng ăn nữa chứ, mà cứ tiếp tục bị hành như thế, nhiều khi một tuần hai ba lần lên đồn.

Trong khi đó Đặng Tiểu Bình vẫn đe doạ cho bài học thứ hai. Mình nghĩ là nếu nó đánh lần thứ hai, họ lại xách cổ mình đi thì có thể bị chết oan, vì thế tôi mới quyết định, cũng chưa muốn đi tù nữa, muốn gửi thơ của mình ra ngoại quốc.

Gửi thơ ra ngoại quốc thì có nhiều con đường, không phải con đường sứ quán là duy nhất.

Thứ nhất là có thể gửi cho cánh thuỷ thủ. Bọn nó buôn lậu. Mà mình chọn thuỷ thủ nước tư bản chứ không chọn thuỷ thủ của Ba Lan, Tiệp Khắc hay Đông Đức. Mình sẽ chọn thuỷ thủ Tây Đức hay Hi Lạp hay bất cứ nước tư bản nào. Nhưng nghiên cứu kĩ thì gửi như thế không được vì thuỷ thủ lên bến toàn bọn buôn lậu, mà dân Hà Nội, Hải Phòng đi buôn lậu vẫn gọi bọn này là “my friend”. Buôn lậu thì cũng chỉ buôn những đôi bí tất ni lông, mua đá lửa, mua vải và chủ yếu là thuốc lá như Lucky Strike hay ba số 5 về bán lậu. Thuỷ thủ lên bờ đều bị theo dõi cả, vào đến cảng nhiều khi bị khám. Phe buôn lậu thì Ba Lan nhiều nhất, còn tư bản là Hi Lạp, chứ Nhật hay Tây Đức không buôn lậu lem nhem. Đưa cho họ thì được, nhưng dễ bị bắt lắm, có thể bị bắt ngay tại chỗ cũng nên vì nhiều khi nhặt có mấy chục đôi bí tất ni lông mà còn bị bắt.

Hơn nữa bọn này đâu có ý thức về văn học hay chuyện sáng tác của mình. Có thể họ cứ nhận đút vào người, đến cảng bị khám, bị bắt thì mình chết dở. Vì thế không thể nhờ thuỷ thủ được. Có nghĩ đến, có tính toán rồi nhưng phải loại.

Cách thứ hai là nhờ nhà thờ. Lúc trong tù tôi có quen với nhiều người trí thức Công giáo có uy tín, thân cả với giám mục Phạm Đình Tụng, bây giờ là Hồng y. Họ muốn tôi bảo đảm là không bao giờ tiết lộ ai đem ra. Tôi bảo đảm là nhà thờ có gửi đi và bên ngoài có in thì tôi cũng không bao giờ nói là tôi gửi qua nhà thờ. Đó là con đường an toàn nhất lúc đó. Tại sao tôi nghĩ đến con đường đó, vì lúc đó đang có cao trào vượt biển, gửi đi được rồi thì mình sẽ vượt biển sau.

Lúc đó tuy nghĩ đến vượt biển nhưng cũng có nhiều người chết vì vượt biển lắm, vì thế vượt biển mình có thể chết và mất cả thơ. Mà mình cũng không có đủ tiền để lo vượt biển nữa. Ở miền Bắc vượt biển rẻ, chỉ hai cây vàng một người, tôi một chỉ cũng không có.

Không nghĩ đến chuyện vượt biển nữa mà nhờ mấy ông nhà thờ. Cử người đến nhờ chứ mình không dám đến. Mấy ông nhà thờ trả lời nhà thờ không làm chính trị, không muốn lôi thôi dù rất quý tôi, rất tin tưởng tôi đã được nhiều người giới thiệu. Nhà thờ không nhận thì mình ép họ sao được. Thế là con đường nhà thờ tắt.

Con đường khác là vào sứ quán. Đầu tiên là muốn vào sứ quán Pháp. Lên quan sát sứ quán Pháp ở phố Hàm Long, có cái sân rộng như bãi đá bóng. Tường chỉ cao độ hai mét, có thể nhẩy vào được, nhún lên một cái là nhẩy vào trong được ngay. Nhưng bên trong thì toàn người Việt Nam, quét sân Việt Nam, rửa xe cũng Việt Nam. Mà Việt Nam làm trong sứ quán là ai, toàn người của công an cử qua làm việc. Thấy sân rộng như thế khó vào được, nhưng mình vẫn ham vào sứ quán Pháp vì ngôn ngữ mình còn nói được. Vì thế bức thư tôi mới viết bằng tiếng Pháp đấy chứ. Vào đó mình còn nói năng, giải thích được với họ.

Tối hôm thứ Sáu 13.7, trước ngày 14.7 là ngày Quốc khánh Pháp, sứ quán có chiêu đãi. Tôi đã lên Hà Nội trước đó ba hôm, lên nhà thằng cháu gọi tôi bằng cậu. Bây giờ nó chết rồi. Vợ nó, bây giờ tôi nói thật ra là vợ nó gọi thiếu tướng Quang Phòng là cậu, ông ấy là Cục trưởng An ninh Quốc gia phụ trách về văn hoá. Nhà đó thì công an rất nể, không ai dòm ngó đến cái nhà đó cả. Thế là tôi mới lủi vào nhà đó tôi viết. Vợ nó đi làm thì tôi mới viết, khi vợ nó về thì không viết nữa. Một ngày có 8, 9 tiếng ở nhà để viết, viết gấp rút, chỉ có thằng cháu biết thôi vì tôi nói nó đóng cho tôi một cái tủ hai ngăn, để giấu tập thơ. Nó giỏi thợ mộc nên làm được ngay. Tôi dặn nó tuyệt đối không được mở ra.

Viết xong nó đóng hộ tôi thành ra quyển sách vì tay tôi yếu. Giấy viết hai mặt, đôi lúc thiếu bút, vì thế nguyên bản có nhiều trang viết bằng mực đỏ. Cũng may trước khi đóng, nó khuyên tôi: “Cậu phải viết một cái thư, chứ gửi nguyên thế này đâu được, ai biết chuyện gì”. Tôi nói nó đưa bút, ngồi ngoáy chớp nhoáng lá thư bằng tiếng Pháp. Kí tên, đề thẳng là 136 Rue de la Gare, Nguyễn Chí Thiện, địa chỉ nhà tôi ở Hải Phòng. Dưới lá thư đó tôi đề: “Hoa Địa Ngục” [3] , mở ngoặc đóng ngoặc: Fleurs de l’Enfer, đề tên tác giả hẳn hoi.

Đi vào sứ quán Pháp là một việc mình dự định làm. Tối 13.7 là chiêu đãi, các đoàn ngoại giao đến, mình nghĩ là họ đậu xe ngoài cửa. Khi đoàn vào mình cũng lẻn vào cùng đoàn. Nhưng khổ nỗi cửa đóng, mỗi khi xe đến nó bóp còi, cửa mở ra. Vì sân rộng nên xe chạy thẳng vào trong đậu. Thế làm sao mình lẻn vào được. Hoàn toàn thất vọng, nhưng mình phải làm sao đưa tập thơ ra nước ngoài vì đã viết rồi, để lâu sợ bị lộ, bị bắt.

Cho nên phải tìm sứ quán khác. Tôi đạp xe đi quan sát nhiều sứ quán như Anh, Thuỵ Điển và thấy sứ quán Anh là tiện nhất, dễ vào, vì đi trên vỉa hè sát bên trong thì từ đó lọt vào sứ quán chỉ chừng bốn mét là đến văn phòng rồi. Mình đã thám thính như thế là yên tâm và quyết định vào sứ quán Anh. Ngày 14.7 là thứ Bảy họ nghỉ, Chủ nhật cũng nghỉ, vì thế phải đợi đến ngày thứ Hai 16.7.1979 là vì thế đấy.

Sáng thứ Hai tôi lên đường đi, giấu tập thơ trong người, mặc một chiếc áo sơ-mi ni-lông mầu xanh, quần cũng ni-lông, không mang gì hết cả. Tập thơ nhét trong quần, trước bụng, áo bỏ ngoài quần. Trước khi đi thằng cháu của tôi là Đào Vĩnh Bảo có tiễn tôi. Chỉ có nó biết việc tôi làm. Đến phố Huế, hai cậu cháu vào uống cà phê. Sau khi uống cà phê xong tôi dặn nó: “Thôi mày về đi nhé”. Coi như là vĩnh biệt cháu. Tôi biết có công an theo dõi. Nguyên tắc là tôi đi thì không ngó lại xem có ai theo mình không, nếu ngó lại họ nghi, chặn mình lại khám xét thì phiền ngay. Tập thơ tôi không dám viết ở Hải Phòng vì cái phòng của tôi ở đó nó lộ lắm, hơn nữa viết ở Hải Phòng có nguy cơ khi đi tầu lên Hà Nội, nếu họ khám hàng lậu, nhiều khi sờ đến mình, chỉ khám hàng lậu thôi mà gặp tập thơ thì mình lại chết oan nữa. Khi tới sứ quán Anh có một người lính gác đứng nhìn trời nhìn đất, có bao giờ anh ta ngờ là có người xô mình đâu, nên anh ta không để ý. Anh ta đang nhìn vớ vẩn thì tôi vọt vào ngay, anh ta chỉ ớ một tiếng thôi. Lúc đó tôi đã vào bên trong rồi.

Đây là cái số đấy. Đáng nhẽ không dám vào, nhưng vì có cái bình phong che cửa, đi xe đạp đi bộ qua không nhìn thấy bên trong được. Nếu không có bình phong che, thấy người Việt Nam làm việc trong đó thì bố bảo mình cũng không dám vào. Qua khỏi cái bình phong ấy, giữa phòng có một cái bàn to và bốn người Việt Nam: ba đàn ông và một đàn bà, tuổi trung niên cả, độ chừng 40, đang ngồi viết. Đó là những nhân viên hành chánh, Anh nó thuê làm công việc lặt vặt. Thấy thế là mình vã mồ hôi ra. Bỏ mẹ rồi, đi ra cũng không được mà tiến vào cũng không được. Lúc bấy giờ mình bình tĩnh, bảo: “Báo cáo đồng chí, tôi ở Bộ Ngoại giao sang có việc cần liên hệ với ông đại sứ”. Mình cũng ăn mặc lịch sự, áo ni-lông, quần cũng ni-lông, đi đôi dép nhựa. Họ bảo đồng chí cho xem giấy tờ. Lấy đâu ra giấy tờ bây giờ. Mình cũng sờ túi, vớ vẩn: “Tôi vội đi quá, quên mang giấy tờ. Đồng chí có thể linh động cho tôi vào 5 phút, có việc Bộ Ngoại giao rất cần liên lạc với ông đại sứ bây giờ”. “Không được, nguyên tắc là phải có giấy tờ. Vậy đồng chí cứ về lấy giấy tờ đi”. Sao tôi về được. Cái phòng đó dài chừng 6 mét, có cái bàn kê một bên, đàng sau có một cái cửa bằng da đỏ chỉ có một cánh, trong đó là buồng. Tôi lao đến mở cửa nhưng phải qua cái bàn, ở đó có người đàn bà đang ngồi ở phía ngoài cùng. Chị ta thấy tôi lao đến, chị ta nói không được làm thế, đi đâu thế này. Tôi đẩy chị ta ngã thì hai thằng ngồi đấy đứng lên ngăn ở cái cửa. Thế là không vào được, chạy ngược ra. Nhìn bên phải thấy có một cái buồng con con, buồng bu-loa có kính, trong đó có một cô gái người Anh, tóc vàng, đang ngồi chải tóc. Tôi nghĩ là may ra cô ta cứu được mình, tôi nói với cô ta bằng tiếng Anh: “I am a honest man. Do not fear. I need to talk to Mr. Ambassador”. Nghe tôi nói thế cô ta bỏ cả lược. Cô ta sợ quá vì cái mặt của mình có vẻ hung ác. Trong khi đó một người đã ra báo công an, còn hai tay kia cứ xua đuổi mình ra. Họ chỉ đuổi thôi chứ không ôm hay đánh mình vì trong sứ quán nên họ không dám làm mạnh. Bí quá mình nhấc cái bàn cho nó nghiêng lên, những thứ trên bàn rơi xuống đất kêu loảng xoảng. Đây là điều may vì nghe những tiếng đó cánh cửa đỏ bên trong mở ra, ba người Anh đi ra. Một nhân viên Việt Nam nói một câu: “He is a mad man”. Tôi vội vàng nói ngay: “I am not a crazy man. I have an important document to give to you”. Khi bọn Anh ra thì đám nhân viên Việt Nam dạt ra hết, đứng qua một bên. Tôi chạy tọt vào bên buồng trong.

Ba người Anh đi vào, đóng cửa lại. Thế là mình bắt đầu trình bày với họ. Móc tập thơ đưa cho họ và nói đây là tập thơ của tôi về những prison scences, ông hãy giữ lấy. Tôi nghĩ ông đưa lên gác cất đi đã rồi hãy nói chuyện sau. Họ cũng nghe mình, đưa lên gác cất đi rồi mới nói chuyện. Họ mời nước, có cả rượu. Tôi trình bày tôi là người đã bị 15 năm tù, nhưng vô tội, biết bao nhiêu người Việt Nam bị cảnh tù, những điều tôi viết là về cảnh tù tội. Họ cũng hỏi han mình nhiều điều, lúc thì nói bằng tiếng Anh, lúc bằng tiếng Pháp. Họ cũng biết một tí tiếng Pháp nhưng không giỏi mới khổ, nên lúc nào họ bí tiếng Pháp thì nói bằng tiếng Anh, lúc mình bí tiếng Anh nói bằng tiếng Pháp thì họ lại không hiểu mấy, thế là mình lại nói bằng tiếng Anh. Đại cương mình ráng làm cho họ hiểu chứ không phải là nói tiếng Anh. Cơ bản thì họ hiểu chuyện của mình.

Rồi họ bảo mình ghi tên, ngày sinh tháng đẻ và hứa sẽ can thiệp cho khỏi tù. Họ hứa long trọng là sẽ in tập thơ, mang về Anh quốc in. Tôi có nói là không được đưa tập thơ cho bất cứ một người Việt Nam nào ở Việt Nam. Sau này nếu tôi có đến đòi thì cũng đừng đưa cho tôi vì lúc bấy giờ tôi đã bị tra tấn. Đây là công việc 20 năm của tôi, hi vọng ông mang ra cho thế giới biết về cộng sản Việt Nam, đó là mục tiêu của tôi. Khi tôi vào được đây là tôi chấp nhận chết rồi, các ông phải hiểu về cộng sản Việt Nam. Tôi không làm gì cả mà đã bị 15 năm tù, huống chi bây giờ tôi vào đây với tập thơ này tôi coi như chết, các ông đừng thắc mắc gì về tôi, chỉ mong các ông đưa tập thơ này ra in ở nước ngoài.

Tôi có hỏi các ông cho tôi ở lại được không, họ bảo không được vì công an đang bao vây rồi, đang đợi ở ngoài. Thế mình vẫn cố nài thêm, các ông có thể cho một cái xe chở tôi đi, giữa đường tôi nhẩy xuống. Tôi vẫn còn muốn trốn. Họ bảo như thế không được vì công an đã bố trí cả rồi. Tôi không nài thêm xin tị nạn chính trị vì mình vô danh tiểu tốt. Sau đó tôi vui lòng đi về. Họ có hỏi tôi có cần tiền không, tôi nói không vì nếu tôi lấy tiền, vào đến trại giam cũng bị tịch thu hết. Tôi nhớ một cậu người Anh trẻ, mình cứ tưởng là gián điệp cao siêu lắm, nói với tôi là hay ông cứ nói ông vào nhầm địa chỉ có được không, tôi nói là không được đâu, đối với cộng sản không có chuyện nhầm địa chỉ như vậy được.

Thế mới thấy họ ngớ ngẩn. Sau đó mình bắt tay ba người rồi đi ra. Đi ra phải tìm đôi dép vì lúc nãy vật lộn văng đâu mất. Ra phòng ngoài tìm thấy dép chỗ này một chiếc, chỗ kia một chiếc.

Ra đến ngoài đã thấy 4 người công an chờ sẵn, mặc thường phục, một người giơ thẻ công an. Lúc bấy giờ mình có còn gì nữa đâu, tôi nói: “Thôi cất đi. Muốn đưa đi đâu thì đưa”. Thế là họ đưa ra một cái xe com-măng-ca, hai người đi xe đạp, hai người đi mô tô, bốn người đi bộ, một người lái xe nữa, như thế thì không có cách nào chạy được đâu. Họ đã bố trí để nó đuổi được mình mà. Vì thế bọn Anh nói đúng, nếu họ có chở xe mình ra, nhẩy xuống cũng không thoát. Thế là tôi bị đưa thẳng vào Hoả Lò.

Bùi Văn Phú: Công an có biết ông vào sứ quán Anh làm gì không?

Nguyễn Chí Thiện: Vào Hoả Lò họ bắt đầu hỏi cung ngay. Họ hỏi cung thì phải chối chứ. “Anh vào làm gì?” “Tôi vào xin đi ngoại quốc.” Lúc bấy giờ có cao trào cao uỷ tị nạn ở đó, người Việt có thể xin đi cơ mà. “Vào xin đi sao lâu thế, gần 40 phút cơ.” “Không, tôi đói quá, vào trong thấy có bày món ăn ngon, tôi xơi cho thoả mãn. Bao nhiêu năm mới được ăn miếng bơ, miếng xúc xích.” Mình nói phét vậy thôi, chứ chỉ có tí rượu thôi. “Tôi nói chuyện lung tung xin đi, họ bảo họ không can thiệp được, thế là phải đi ra thôi, chứ tôi chẳng mang cái gì vào. Coi người tôi ăn mặc chỉ thế này thì mang cái gì được.” Họ thấy tôi nói cũng có lí, vặn cung bốn năm tiếng đồng hồ, hỏi đi hỏi lại, tôi cũng không khai gì hết.

Ngày nào họ cũng gọi đi khảo cung, mình cứ một mực chối là không mang cái gì vào cả. Họ dụ dỗ đủ đường, nào là nếu anh trót mang tài liệu gì vào thì chúng tôi sẽ lấy lại, chúng tôi sẽ tha thứ cho anh, Đảng sẽ khoan hồng. Nhưng mình nào có lạ gì với lối khoan hồng của họ nữa. Tôi nhất định chối là không mang gì cả, vì nếu tôi có mang vào thì trong vòng một đôi tháng ngoại quốc sẽ công bố ngay, lúc đó các ông sẽ trừng trị. Thời gian sẽ trả lời các ông thôi. Rồi họ hỏi cung tuần một lần, rồi tháng một lần, nhưng không cho gia đình tiếp tế, quần áo không có, cứ một bộ quần áo cũ mặc mùa đông sắp đến, rét mà vẫn không có quần áo ấm.

Bùi Văn Phú: Sau khi bản thảo tập thơ được đưa vào sứ quán Anh, đến khi nào ông mới biết được số phận của nó ra sao?

Nguyễn Chí Thiện: Sau nhiều lần hỏi cung, họ cứ hỏi thì tôi cứ chối. Tôi trả lời là đến bây giờ mà cũng chưa thấy ngoại quốc phổ biến cái gì, thì họ tin tôi, nhưng trong lòng rất sốt ruột. Lần nào lên hỏi cung mình cũng chỉ mong lần này họ cho mình biết, vì nếu bên ngoài in thì thế nào trong này họ cũng biết.

Một hôm, lúc đó tôi đã bi quan lắm rồi, vào tháng 10 năm 1980, họ cũng gọi cung như mọi lần, nhưng lần này họ đưa vào phòng lớn, không phải phòng hỏi cung. Những nhân viên vẫn hỏi cung cũ biến mất, giờ có mấy ông ở bộ sang, mặc quần áo dạ mùa đông, đi giầy bóng, tuổi hơn 50. Tôi đoán có chuyện gì rồi, mừng thầm vì có thể có kết quả. Quả nhiên đúng. Họ mời trà, hút thuốc lá đâu đấy rồi họ mới giở quyển sách ra, họ không giơ bìa ra mà chỉ cho coi bức thư viết bằng tiếng Pháp bên trong. Họ hỏi, có phải chữ của anh không? Tôi nói đúng. Mình mừng hơn bố sống lại chứ không phải là không. Vì đợi mãi mà.

Bùi Văn Phú: Có phải đó là cuốn Tiếng vọng từ đáy vực?

Nguyễn Chí Thiện: Tôi không biết. Vì họ đâu có cho mình coi bìa sách. Họ mở ra, gấp cong bìa lại, chỉ cho mình thấy trang có in lá thư chữ viết tay của mình thì mình đâu có nhìn được tên sách.

Bùi Văn Phú: Ông có nhận đó là tập thơ của mình?

Nguyễn Chí Thiện: Có. Rồi họ bắt mình viết lại chứ. Họ hỏi tôi có nhớ những bài thơ của mình không? Tôi nói tôi nhớ chứ. Họ bắt tôi đọc mấy bài cho nghe. Tôi đọc hai bài thơ về Mao: “Bác Mao cân nặng tạ hai / Thịt ùn lên mặt, mặt hai ba cằm…”. Họ thích lắm, cười. Đến khi mình tương cái bài “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, đọc được mấy câu thì họ bắt ngưng ngay.

Rồi họ yêu cầu tôi viết lại. Tôi nói tôi sẵn sàng cộng tác với các ông vì bây giờ tôi chẳng còn gì để giấu cả, tôi có thể viết lại được. Họ muốn tôi làm thế vì họ nghĩ tập thơ có thể của nhiều người để họ tìm bắt thêm những thủ phạm khác nữa. Nếu thơ của mình thì mình nhớ, của người khác gửi thì mình không thể nhớ. Họ nói anh viết lại đi. Đâu có dễ như thế được. Lúc bấy giờ người tôi ốm, đói rét trong tù không có quần áo, mười lăm tháng nay đánh răng, rửa mặt không có khăn, chị tôi ở gần đây mà nó không cho tiếp tế. Người tôi yếu lắm, bao giờ tôi khoẻ tôi mới viết được. Họ giục tôi viết thư cho bà chị. Tôi viết thư xin bà chị đã nghèo, tôi không dám xin nhiều, chỉ những thứ cần thiết như quần áo, chăn màn, bàn chải đánh răng, thuốc đánh răng, mấy quả chanh, một hai kí mì rang cho nó no.

Ngày hôm sau có ngay. Một túi tiếp tế to, đủ cả những thứ tôi xin. Hai hôm sau họ gọi lên, bảo thế bây giờ viết đi nhưng tôi chưa chịu. Tôi nói với họ, ông xem tiếp tế có một chút mì rang, đường đen thì làm sao tôi khoẻ ngay lên được, các ông phải đợi nửa tháng để tôi lại sức rồi tôi sẽ cộng tác nhiệt tình với các ông. Họ đâu có đợi. Việc của họ mà. Thôi mai lên đây, chúng tôi bồi dưỡng cho anh. Cán bộ mà bồi dưỡng thì tôi có gắng viết. Lên viết, họ cho bánh mì dăm-bông, bánh mì pa-tê, bánh chưng, hộp sữa, cân đường, bánh bích qui, ăn uống thoải mái. Tôi lại đòi ngay một bao thuốc Sông Cầu. Sông Cầu là đầu câu chuyện mà. Rồi 10 gam thuốc lào, một gói chè Hồng Đào là chè loại nhất. Tính tiền ra thì một ngày bằng 3, 4 ngày lương của họ đấy.

Bùi Văn Phú: Rồi ông viết lại hết những bài thơ của mình?

Nguyễn Chí Thiện: Nhưng đâu có viết nhanh làm gì. Thơ mình nhớ có gì khó đâu. Có một nhân viên công an ngồi cạnh. Tay thiếu uý công an coi mình, thấy mình cứ ngồi hút thuốc, uống chè, anh ta giục sao anh không viết đi. Tôi ngồi suy nghĩ, kéo dài hơn hai tháng viết lại được non nửa. Hơn hai tháng đó tôi lên 6 kí lô, cơm trại không ăn, cho anh em, vừa được ăn bồi dưỡng vừa phấn khởi vì thơ mình đã được in rồi.

Trong giai đoạn đó mình mới biết được nhiều công an bất mãn vì họ cũng nghèo. Một mình làm sao uống hết một gói trà, hút hết một bao thuốc lá, vì thế thuốc lá với chè tầu mình không dùng mấy. Tay nào cũng đến chào hỏi để hút thuốc, ghé vội lại uống cốc nước trà. Nhưng cũng có những người không đến như thế, họ vờ vĩnh uống nước rồi ghé vào tai: “Mẹ! Anh chơi hay quá”, có người khác lại nói: “Mẹ! Anh đánh đòn đích đáng”, thế rồi chuồn.

Dịp Tết thì họ nghỉ. Sau Tết mình xin viết tiếp họ không cho vì bằng đó bài đã viết họ biết là thơ của mình rồi. Thế là trở về ăn cơm trại.

Sau đó họ điều mình ra sống với lưu manh vì họ muốn lưu manh trị mình mà. Lưu manh không trị nổi, họ lại cho mình vào xà lim. Thế là ở sáu năm trong Hoả Lò, lăn lộn các nơi rồi cuối cùng họ chuyển đi B14 năm 1985, có ông Võ Đại Tôn, Hoàng Minh Chính tù trong đó.

Bùi Văn Phú: Sinh viên Việt Nam tại Đại học Berkeley thời đó đã có cái duyên với thơ của ông. Tối ngày 1.5.1981 sinh viên có tổ chức một đêm đọc thơ chủ đề “Đêm nghe tiếng vọng từ đáy vực” và hát những bài “Ngục ca” do Phạm Duy phổ nhạc. Hồi tưởng lại, thời điểm đó ông đang ở đâu và làm gì?

Nguyễn Chí Thiện: Chuyện này tôi rất dễ nhớ vì những ngày đó tôi vẫn còn nằm ở xà lim 1 trong Hoả Lò. Xà lim 1 có 14 cái xà lim, với hai xà lim để làm kỉ niệm Hoàng Văn Thụ và Trần Đăng Ninh, còn một cái của ông Phan Bội Châu là buồng số 14. Lúc đó tôi đang bị giam trong buồng số 14. Từ ngày tôi vào tù năm 1979 cho đến hết năm 1981, năm 1982 tôi mới đổi xà lim. Lúc đó tôi vui vì biết được tin tức thơ mình đã được in ra rồi thì thế nào cũng có tiếng vang. Điều này tôi đã tiên đoán trong bài thơ “Cây” với bốn câu kết:


Ta vững tin đất trời kia chẳng phụ
Công đất vun bồi nuôi dưỡng thân ta
Trong đêm cùng vùng nhiệt đới bao la
Trái lửa của ta sẽ bùng lên vạn ánh.

Bùi Văn Phú: Thế sao lại có chuyện Nguyễn Chí Thiện thật giả ở nước ngoài?

Nguyễn Chí Thiện: Hồi trong nước tôi có nghe tin tờ Vạn Thắng của ông Lê Tư Vinh nói là Nguyễn Chí Thiện giả. Khi anh Nguyễn Hữu Hiệu về thì các ông từ Phùng Cung, Phùng Quán đến Nguyễn Hữu Đang đều gạt phắt qua cái chuyện đó, họ nói đó chỉ là những chuyện điên rồ, chẳng đáng bàn làm gì vì họ là những người đã cùng ở tù với tôi, họ biết. Họ nói mấy thằng viết báo lẩm cẩm đó không nên bàn đến nữa. Thế là không bàn nữa vì trong nước chúng tôi không để ý đến.

Ra đến ngoài này thì tôi thấy ầm lên chuyện Lý Đông A. Tôi có gọi điện cho ông Trần Ngọc Ninh. Tôi gọi đầu tiên cho ông ấy và tôi nói thế này: “Bác nhầm rồi, cái ảnh mà tôi chụp là với bà chị tôi, bà chị thứ hai của tôi hơn tôi 14 tuổi. Không phải vợ tôi đâu”, vì ông Ninh có đề là ông bà Nguyễn Chí Thiện, ông ấy xin lỗi và mong tôi bỏ qua cho. Tôi nói tôi không để ý, việc nghiên cứu nhầm là thường, nhưng bác là người có uy tín học vị như thế thì sao trước khi viết bác không hỏi bên Anh một tí, ông ấy nói thôi chuyện đã qua rồi, mong anh hiểu, tôi biết là mình đã sai, mong anh đừng công bố vì tôi không ưa cái bọn Lê Tư Vinh. Tôi nói cái này là quyền của bác, tôi muốn nói chuyện với bác để rõ vấn đề thôi, còn trong nghiên cứu nhiều khi có những cái nhầm, cũng như người ta bảo Chinh phụ ngâm là của Đoàn Thị Điểm, là của Phan Huy Ích, đó là nghi án văn học, có thể sai có thể đúng. Nhưng chuyện này bên Anh nhiều người biết, từ ông giáo sư Honey còn sống, những người trong Bộ Ngoại giao Anh vẫn còn cả đấy, sao bác không hỏi. Thế rồi ông ấy thôi. Tôi cũng bỏ qua. Chính ông Ninh từ hồi đó đến giờ có nói gì nữa đâu. Sau này mấy lần ăn cơm với nhau có cả ông Nguyễn Bảo Trị, Lâm Lễ Trinh rất là vui vẻ.

Bùi Văn Phú: Chuyện thật giả có phải do công an cộng sản đưa ra?

Nguyễn Chí Thiện: Theo tôi chẳng phải cộng sản gì đâu. Ông Lê Tư Vinh muốn đề cao vai trò của nhóm Duy Dân, đưa Lý Đông A lên. Họ cho đó là khẩu lệnh của Lý Đông A. Họ bịa ra đấy chứ họ biết là Lý Đông A chết lâu rồi, từ năm 1947 đã mất tích. Khi tôi mới sang có đoàn nhà báo ở Virginia đến thăm, họ có nói với tôi rằng họ vừa gặp ông Lê Tư Vinh và ông Vinh nói: “Cái tên Nguyễn Chí Thiện nó láo xược, nó dám khinh thường cả Phật tổ”, căn cứ vào bốn câu thơ của tôi: “Mười mấy năm sống giữa lao tù / giữa buồng tim chế độ / tôi đã hiểu tận cùng của bể khổ / mà trước kia Phật tổ hiểu lơ mơ”. Tôi nói với những ông nhà báo đến thăm là nếu họ chửi thì chửi Lý Đông A, vì đây là thơ Lý Đông A chứ sao lại chửi tôi, anh em nhà báo cũng phải phì cười lên. Mời ông ấy tranh luận, họ không dám tranh luận với tôi. Hôm họp báo ở Nam Cali, ông Lê Tư Vinh ngồi ngay đấy mà không dám thò một câu nào cả, chỉ nói sau lưng thôi.

Theo tôi thì chuyện này chỉ một số anh em trong Duy Dân thôi, một số nhỏ, chứ nhiều người không tin chuyện ba láp đó đâu. Họ muốn đề cao vấn đề đó lên, thế rồi một số người nhẹ dạ tin là thật, rồi hạch hỏi những câu rất là ngớ ngẩn, thí dụ như tại sao bây giờ tôi không làm thơ nữa. Thì con người ta có lúc tài cũng phải hết chứ, phải cạn kiệt đi chứ, ai mà làm mãi được. Nếu làm mãi được thì bà Margaret Mitchell không chỉ có một quyển Gone with the Wind, Nguyễn Du không chỉ có một Truyện Kiều, Đặng Trần Côn không chỉ có một Chinh phụ ngâm hay Nguyễn Gia Thiều không chỉ có một Cung oán ngâm khúc và Thế Lữ không chỉ có mấy vần thơ.

Theo tôi hiểu thì sau này cộng sản mới lợi dụng, chứ chủ ý đó đầu tiên không phải của cộng sản, sau này cộng sản chỉ xúi vào, gây hoang mang mà thôi. Cái chính là họ muốn lợi dụng tập thơ này, nói là của Lý Đông A để đề cao ông ấy lên, đề cao cái đảng Duy Dân lên. Nhưng họ đọc thơ của tôi họ phải biết chứ, Lý Đông A hiểu cộng sản, đánh nhau với cộng sản, đâu có ngu như tôi. Năm 1954 tôi còn “Ngỡ cờ sao rực rỡ / tô thắm màu xứ sở yêu thương” cơ mà, chứ “Có ngờ đâu giáo giở đã lên đường”. Tôi ngu ngơ, mù mờ, trong thơ của tôi có nhiều bài viết rõ cái ngu của mình: “Lầm lỡ, lầm nói, lầm lúc, lầm người / Riêng cái lầm to uổng phí cuộc đời / Là đã ngốc nghe và tin cộng sản”. Ông Lý Đông A đâu có nghe và tin cộng sản. Thế thành ra có biết bao nhiêu câu thơ, nhiều lầm lỡ, chứng tỏ không phải thơ Lý Đông A, nhưng họ lờ những cái này đi, họ cứ lấy lí luận là Tiếng vọng từ đáy vực, tên này do ông Nguyễn Hữu Hiệu đặt chứ có phải là tôi đặt đâu, theo họ đáy vực là Duy Dân đấy.

Thành ra lí luận đó càng ngày càng yếu nên bây giờ họ lại nói ông Nguyễn Chí Thiện thật chết rồi, đây là Nguyễn Chí Thiện giả. Thế thì bao nhiêu bạn bè, biệt kích, bị tù với tôi, Vũ Thư Hiên cũng bị tù với tôi, ông anh ruột của tôi không biết à.

(còn 1 kì)

© 2007 talawas



[1]Đây là bản dịch tiếng Anh của tập truyện Hoả Lò do Tổ hợp Xuất bản miền Đông Hoa Kỳ in lần đầu tiên năm 2001, tái bản năm 2007. Bản dịch có sự đóng góp của Nguyễn Ngọc Bích, Trần Văn Điền, Vann Saroyan Phan và Nguyễn Kiếm Phong.
[2]Le bateau ivre (1871)
[3]Tập thơ đầu tiên của Nguyễn Chí Thiện được xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1980 nhan đề Tiếng vọng từ đáy vực do cơ sở Thời Tập in, lúc đó chỉ ghi tên tác giả là “Khuyết danh” hay “Ngục sĩ”. Năm 1981 có bản in nhan đề Bản chúc thư của một người Việt Nam do cơ sở Văn Nghệ Tiền Phong phát hành. Nhan đề Hoa Địa Ngục được dùng đầu tiên năm 1984 khi Yale Center for International & Area Studies in bản tiếng Anh Flowers from Hell do Huỳnh Sanh Thông dịch.