trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 177 bài
  1 - 20 / 177 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tủ sách talawas
2.7.2008
Aleksandr I. Solzhenitsyn
Bất ngờ tại nhà ga Krechetovka
Lê Vũ dịch
 1   2   3 
 
Thật ra, cuốn sách dầy, hơi nhỏ khổ, đóng bìa mầu xanh, nó là Cuốn 1 bộ Tư bản luận của Karl Marx, giấy hơi vàng và đã mục, ấn bản trong những năm 1930.

Suốt thời gian năm năm ở đại học, chàng đã chăm chú đọc cuốn sách thiêng liêng này, và nhiều lần chàng đã đem nó ra khỏi thư viện đại học. Chàng muốn ghi chú và tóm tắt cuốn sách lại, chàng giữ cuốn sách ấy hết hạn mượn, là một năm. Nhưng chẳng bao giờ chàng có thì giờ rảnh, chàng phải dự các cuộc họp, những công tác của Đảng, và dĩ nhiên là có cả những cuộc khảo nghiệm, các cuộc thi chàng phải chuẩn bị, sửa soạn để thi. Trang đầu tiên của bản tóm tắt của chàng còn chưa xong, thì chàng đã tới hạn phải trả cuốn sách lại cho thư viện, rồi đến khoá thi tháng Sáu. Ngay cả lúc các sinh viên học về kinh tế học thì việc đọc cuốn Tư bản luận hiển nhiên là thuận tiện nhất, đúng lúc nhất, thì giáo sư cũng lại khuyên các sinh viên là đừng có đọc cuốn đó – "Các anh các chị sẽ bị sa lầy, sẽ bị chết đuối trong bộ sách đó!" – giáo sư khuyên các sinh viên tốt hơn hết là nên dành thời giờ để mà đọc các sách giáo khoa, và nên ôn tập lại các điều ghi chú được trong lúc ông giảng dạy. Và thật ra, các sinh viên cũng chỉ có thể làm việc được như vậy là cùng rồi.

Nhưng bây giờ là mùa thu năm 1941, trong cái xó xa xôi ở bên lề cuộc đại họạ này, Vassily Zotov đã có thời giờ rảnh để mà đọc cuốn Tư bản luận. Chàng đọc cuốn sách trong những giờ ngoài giờ làm việc ở văn phòng, khi chàng không có công tác đặc biệt nào do Đảng giao phó cho. Trọ trong gia đình nhà Avdeyevs, chàng ngồi trong phòng khách của gia đình này giữa những cây hoa lương thảo và dứa rừng, bên một chiếc bàn con khập khiễng và một ngọn đèn dầu (máy điện không đủ sức cung cấp điện cho cả làng). Tay chàng mân mê trang giấy sần sùi, mắt chàng đọc đoạn văn, mỗi đoạn chàng đọc ba lần – lần thứ nhất để có được một ý nghĩa về toàn thể đoạn văn, lần thứ hai là để hiểu rõ vấn đề hơn nữa, và lần cuối cùng là để ghi chú và nhớ kỹ vào trong đầu thật thứ tự, mạch lạc. Khi các bản thông cáo về chiến tranh càng có phần đen tối, bi đát, thì chàng lại càng mài miệt cặm cụi hơn nữa vào cuốn sách dầy khổ nhỏ bìa xanh ấy, và chàng cảm thấy lúc ấy óc chàng đón nhận được thật đầy đủ văn sách, cất kỹ những ý tưởng vào trong đầu, mai này chàng có thể sẽ trở thành một tay vô địch, không thể thua được trong trận đấu ý thức hệ, dù rằng đầy vẫn mới chỉ là cuốn đầu tiên trong bộ sách Tư bản luận.

Nhưng hầu như chàng không được hưởng đủ những buổi chiều yên tịnh ấy, và chàng mới chỉ ghi được có một trang giấy thì Antonina Ivanovna đến khiến chàng không thể đọc sách và ghi chú tiếp được nữa.

Antonia Ivanovna là một người ở trọ trong gia đình nhà Avdeyevs giống y như chàng. Bà ta là người ở Liski tới đây, và là chủ quán cà phê ở nhà ga Krechetovka này. Bà ta là một người đàn bà có đầu óc đanh đá lắm, vì thế nếu công kích bà ta điều gì thì quả là một điều nguy hiểm. Tại quán cà phê, sau này Zotov mới khám phá ra, khách hàng phải trả một rúp (tại chỗ cái cửa sổ con con) mới mua được một bát miến lơ thơ vài sợi thả trong thứ nước lèo trong trong như mắt ma chẳng có tí mỡ tí thịt nào. Bây giờ, nếu người khách hàng cầu kỳ không xì xụp húp được bát nước trong ấy thì phải bỏ ra một đồng rúp khác nữa gọi là tiền đặt cọc lúc ấy mới được bà chủ quán trao cho một chiếc thìa bằng gỗ sứt mẻ. Chiều nào cũng vậy, Antonina ra lệnh cho bà chủ nhà trọ đun một ấm nước, rồi nướng ổ bánh mì quét một ít bơ thật. Bà ta tuổi mới hai mươi lăm, nhưng những lúc bà ra lệnh thì vẻ mặt uy quyền lắm; nước da bà ta trắng, mịn màng, rõ ra là được săn sóc cẩn thận lắm. Bà ta lúc nào cũng săn đón chào hỏi ông trung uý một cách thật thân mật, và chàng thường đáp lại lời chào hỏi săn đón một cách thờ ơ vô tình, suốt trong một thời gian khá lâu chàng vẫn cứ tưởng bà ta là họ hàng gì với bà chủ trọ. Ngồi trong cái phòng khách chung bé nhỏ, Zotov gập người cặm cụi đọc cuốn sách, chàng chẳng để ý gì tới bà ta, chàng cũng không nghe thấy tiếng chân bà đi lại chỗ chàng, lúc ấy bà ta mới từ quán cà phê trở về nhà trọ. Bà ta sẽ đi về phòng riêng ở đầu dẫy nhà, rồi đi ngang phòng khách để tới chỗ bà chủ trọ, rồi quay trở lại phòng riêng, rồi lại tới phòng bà chủ trọ lần nữa. Sau đấy, thế nào bà ta cũng lại đúng như thói quen là dừng chân bên cạnh chàng và hỏi:

"Đồng chí Trung uý, ông đọc gì thế?"

Chàng sẽ gập cuốn sách lại, rồi trả lời vài câu lửng lơ.

Có lần bà ta hỏi chàng:

"Này Trung uý, đêm ngủ em không khoá cửa phòng, Trung uý có cho là nguy hiểm không nhỉ?"

Zotov hỏi lại:

"Sợ gì mà sợ? Sao, tôi ở đây mà. Tôi có súng mà".

Rồi vài ngày sau đó, lúc chàng đang ngồi đọc sách bỗng thấy bà ta ngừng xông xáo đi lại, rồi đóng đô ở ngay trong phòng khách. Chàng quay đầu lại nhìn. Chàng trố mắt tưởng đến lọt tròng ra ngoài: bà ta dọn giường ngủ ngay trên chiếc tràng kỷ trong phòng khách, rồi bả thản nhiên leo lên nằm trên chiếc gối, hai vai trắng nuốt hiện ra lồ lộ. chàng gương mắt sững sờ mà nhìn ba ta, chàng không biết phải làm sao bây giờ.

Bà ta giọng chế nhạo, hỏi:

"Em nằm đây không phiền gì Trung uý chứ?"

Zotov đứng dậy, chàng không thể nào giữ cho đầu óc suy nghĩ trong đường ngay lẽ phải được. Chàng bước tới, nhưng nhìn cái thân hình tròn trịa đầy vẻ mời chào thống khoái trong cuộc vụng trộm ái ân ấy thay vì thúc giục lôi cuốn chàng, thì hoá ra nó lại xua đuổi chàng, đẩy chàng tránh ra xa.

Chàng cũng không nói được lời nào với bà ta, cổ họng chàng tự nhiên như bị sự ghê tởm nó chẹn nghẹt lại. Chàng quay đi, gập cuốn Tư bản luận lại, chàng tìm lại được đủ bình tĩnh, cất cuốn sách vào trong ba lô, rồi bước nhanh tới chỗ cái đinh treo chiếc áo khoác và chiếc mũ, chàng nhấc giây lưng có khẩu súng nặng trĩu xuống khỏi chiếc giây lưng lại chỗ cũ; rồi chàng ra khỏi nhà.

Ra đến ngoài, chàng cảm thấy mình đắm giữa một vùng tối đen dầy đặc, ánh sáng đèn không lọt qua những khung cửa sổ che kín, ánh sáng cũng không từ trên bầu trời u ám rọi xuống. Gió thu lạnh ngắt cuốn theo mưa giăng giăng và thì thầm khắp chung quanh chàng. Chàng bước đi dẵm bừa cả vào những vũng nước, những ổ gà, lội bừa cà vào bùn, chàng đi về hướng nhà ga mà không biết là mình tay còn cầm chiếc giây lưng có súng nằm trong bao da. Chàng cảm thấy giận dữ, tức bực, và kinh tởm quá, chàng bấn loạn, đi giữa bóng đêm lộng gió và trời tối thẫm chàng muốn bật khóc thành tiếng.

Cuối cùng, thì chàng thấy không thể nào sống ở nhà trọ Avdeyes được nữa. Đúng, bà Antonina đã không cần biết đến chàng, và bắt đầu đưa về nhà vài anh chàng mặt phị, một người thường dân nhưng lại mang giầy ống cao đến tận đầu gối, khoác một chiếc áo kiểu nhà binh thật là đúng với thời trang hồi đó. Zotov cố đọc cuốn Tư bản luận, nhưng Antonina có lẽ có dụng ý nên để cửa phòng mở hé khiến chàng mới đầu có thể nghe được tiếng cười của bà ta và người đàn ông, sau thì là tiếng rên rỉ và hổn hển thở gấp của bà ta.

Từ đấy chàng trở về căn nhà với cung cách của một ông già tai điếc, ngôi nhà nơi chàng ở chỉ có một chiếc thùng cũ dùng làm giường nằm, và một mảnh vải thô dùng làm màn che, chàng đi ngủ.

Nhưng bây giờ thì dường như thiên hạ xầm xì về chàng và Antonia suốt cả Krechetovka. Xầm xì bậy bạ này có lẽ rồi sẽ lọt đến tai Paulina mất. Thật là kinh tởm…

Những ý nghĩ ấy ám ảnh chàng, làm cho chàng không làm việc được. Chàng cầm cây bút, cố bắt đầu óc tập trung hết cả vào những chỉ thị dẫn kèm của chàng, và lại ghi chép những con số các toa tầu và hàng hoá trong các cột chữ, chàng lập các bản tài liệu mới để sẽ sắp xếp thành các chuyến tầu tại ga Krechetovka. Công việc này chàng có thể hoàn tất đầy đủ được, nếu chàng chẳng gặp vài khó khăn vì số hàng lớn từ Kamyshin tới, với chuyến tầu này thì chàng không biết phải cắt ra làm sao và dàn xếp thành chuyến tầu mới như thế nào. Chỉ có ông đại uý là có thể giải quyết được việc này. Zotov nhắc ống nói máy điện thoại, đợi chờ. Chàng quay thêm lần nữa, vẫn im lìm, chàng quay thêm lần nữa. Ông đại uý không trả lời. Ông Đại uý lúc này không có mặt tại văn phòng. Có lẽ ông ta về nhà để ngủ một giấc sau bữa cơm trưa. Chắc chắn ông đại uý sẽ trở lại và nghe các báo cáo qua điện thoại, và chắc chắn là thế nào ông cũng trở lại bàn giấy trước khi Zotov và các nhân viên khác hết giờ làm việc.

Trong căn phòng khác, Valia nhiều lần gọi giây nói cho sở gởi hàng quân sự. Mụ Aunt Frosya vào phòng rồi lại đi ra. Rồi có tiếng đôi giầy nặng nề giậm xuống mặt sàn, có tiếng gõ cửa, kèm theo tiếng người hỏi vọng vào:

"Tôi vào được không?"

Và, không đợi để được mời vào, hai người đẩy cửa bước vào phòng Zotov. Người thứ nhất, vóc dáng cao lớn như lính phóng lựu, cử chỉ nhanh nhẹn, mềm mại, mặt anh ta đỏ ửng vì giá lạnh, anh ta bước vào giữa phòng, giậm chân chào rồi xưng danh:

"Trung sĩ Gaidukov, trưởng đoàn hộ tống tầu Chín Mươi Lăm Năm Không Năm; chuyến tầu có ba mươi tám toa xong xuôi cả, sẵn xàng để lên đường!"

Trung sĩ mặc chiếc áo khoác mùa đông, loại áo khoác rộng hạng sang dành cho các sĩ quan có đường xẻ ở vạt sau: chiếc giây lưng to bản của y có khoá hình như ngôi sao, đôi giầy bằng da tốt đánh bóng lộn.

Còn người thứ hai, đứng chỉ cao hơn vai Trung sĩ Gaidukov có một chút. Người này vẫn đứng ở chỗ cửa ra vào, làm như thể đi vào thêm chút nữa tất mệt nhọc lắm. Anh ta đứng ngây mặt, bộ mặt anh ta tưởng như tạc bằng gỗ, u tối. Rồi như miễn cưỡng, anh ta nâng bàn tay, chụm năm ngón, giơ lên chào, và thay vì xưng rõ tên cấp bực, nói cho to lên, lưu loát với cái giọng như là ca hát mới phải, thì anh ta thản nhiên nói:

"Trung sĩ Hạng hai Dygin, trưởng đoàn hộ tống tầu Bẩy Mươi Mốt Sáu Hai Tám. Bốn toa mười sáu tấn".

Một vạt áo nhà binh của anh ta bị rách một cách thảm hại, giắt trong chiếc thắt lưng vải thô, vạt áo ấy dường như bị một chiếc máy nào đấy cuốn vào rồi nghiền rách không thể vá víu lại được nữa; đôi giầy của anh ta quăn lên ở chỗ mắt cá chân, đôi giầy há mồm trông y như hai chiếc đàn phong cầm bị rách.

Trung sĩ Dygin có hàng lông mày thật đậm, quai hàm bạnh - đúng y như Chkalov (một vị anh hùng trong cuộc Nội chiến Nga), không phải là Chkalov chết trẻ, nhưng là một Chkalov đã từng lăn lộn, từng sống nhiều và trưởng thành.

Trung uý Zotov vừa nói vừa đứng dậy:

"Tốt lắm, tốt lắm!"

Đối với Zotov, thì chẳng có việc gì khiến chàng phải đứng lên để gặp một ông trung sĩ vào phòng chàng có việc cả. Nhưng trong lúc này đây chàng lại rất mừng được gặp bất cứ ai, và chàng mong được làm việc thật hữu hiệu với bất cứ người nào có khả năng đảm đương công việc. Từ khi sĩ quan phụ tá chuyển vận không có các nhân viên thuộc quyền trực tiếp nữa, thì những người này đây là những người duy nhất để Zotov có thể thi thố được tài khéo và mối quan tâm của một vị sĩ quan, dù rằng những người ấy chỉ ghé lại nhà ga trong năm ba phút hay vài đôi ngày.

Chàng bảo:

"Tôi biết, tôi biết, tôi vừa nhận được các chỉ thị về các chuyến tầu của hai anh".

Chàng nhặt bản chị thị từ mặt bàn giấy lên xem xét. Chàng ngước mắt thân thiện nhìn hai trung sĩ:

"Đây rồi, Chín Mươi Lăm Năm Không Năm và Bẩy Mươi Mốt Sáu Hai Tám đây rồi".

Áo khoác và mũ của hai trung sĩ này chỉ hơi ẩm một chút chàng thấy trên áo họ lấm tấm những giọt nước nhỏ, Chàng hỏi:

"Sao các anh làm thế nào được khô ráo như vậy? Trời tạnh mưa rồi à?"

Chàng trung sĩ cao lớn đẹp trai Gaidukov mỉm cười đáp:

"Thưa trung uý, trời có lúc mưa, lúc tạnh đấy ạ!"

Chàng trung sĩ tuy không còn đứng nghiêm chào kính nữa, nhưng thân hình anh ta vẫn vươn thẳng, nghiêm chỉnh. Anh nói:

"Thưa trung uý, gió bắc đã bắt đầu báo hiệu sắp thổi tới rồi đấy ạ!"

Người trung sĩ tuổi chỉ trên dưới mười chín là cùng, nhưng những ngày lăn lộn ở mặt trận, dưới hỏa lực đạn thù, nét mặt trẻ trung của người trung sĩ đã sạm mầu sớm trưởng thành trước tuổi, chẳng khác nào như vết sạm nắng phong sương.

Chính những vết phong trần vì chiến trận nơi tiền tuyến ấy đã làm cho Zotov đứng lên, rời bàn giấy để đến gặp hai chàng trai này, dù rằng với tư cách sĩ quan như chàng thật ra chẳng có gì để nói nhiều với họ cả. Vả chăng luật lệ cấm không được nói cho họ biết về thứ hàng hoá gì chở đi, bởi vì trong nhiều trường hợp các toa tầu được niêm phong kín, và chính các trung sĩ hộ tống cũng chẳng có ý nghĩ gì về việc đi hộ tống cho thứ gì.

Nhưng viên sĩ quan phụ tá chuyển vận tại một trạm lại có thể là một người rất có ích cho họ, vì thế hai cặp mắt nhìn dò xét chàng một cách thật chăm chú hai cặp mắt, thì một cặp đầy ánh vui vẻ, lanh lợi, một cặp thì ưu tư buồn bã.

Gaidukov đang tìm cách cố dò xem anh chàng sĩ quan này có phải khó chịu trong quân đội hay không, hay chàng sĩ quan liệu rồi đây có nhất định đòi khám xét chuyến tầu hay hàng hoá do mình hộ tống đi hay không.

Trung sĩ không có gì phải lo về hàng hoá trên chuyến tầu anh ta hộ tống, với các hàng hoá ấy không phải chỉ là một người đi canh gác mà thôi mà hiện giờ anh còn ham thích việc đi hộ tống này nữa, Anh đi hộ tống cho một chuyến tầu chở nhiều trăm ngựa, số ngựa này do ngài Binh Lương gửi đi, ngài Binh Lương vì không tin cậy vào việc cung cấp đầy đủ cỏ khô cho đám ngựa trong suốt cuộc hành trình, nên đã cung cấp cho thật nhiều rơm ép để đem theo cho đàn ngựa có cái ăn. Gaidukov lớn lên ở làng quê, từ bé chàng đã rất thích ngựa, vì thế bây giờ chàng xem ngựa như là bạn của mình chứ không phải là vì chàng có nhiệm vụ phải trông nom bầy ngựa và giúp đỡ cho mấy người lính được cử trông nom ngựa và cho ngựa ăn. Cứ mỗi lần chàng đẩy cánh cửa lùa, leo vào một toa tầu chở súc vật bằng một chiếc thang giây, thì cả mười sáu con ngựa trong toa - nào là ngựa hồng, ngựa nâu, ngựa đốm xám, đủ mọi thứ ngựa đều cùng một lúc quay những cái mõm dài dài của chúng lại phía chàng, có con lại hếch mõm lên lưng con khác, đàn ngựa nhìn chàng bằng cặp mắt buồn bã không chớp, tai chúng vẫy vẫy liên hồi làm như thể chúng muốn được chàng cho ăn thêm ít rơm khô nữa - đàn ngựa như đợi chàng bảo cho biết chúng nó đang bị đưa đi đâu mà lại phải bị giam cả lại trong cái thùng đầy tiếng động ầm ĩ, lắc lư này. Và Gaidukov đi giữa bầy ngựa, len lỏi giữa những bộ mông nóng hổi, chàng thọc bàn tay vào bờm ngựa, và những lúc không có lính ở đây chàng lại còn vuốt ve mặt ngựa và lẩm bẩm nói chuyện với chúng nữa. Ở mặt trận, ngựa có phần vất vả khổ cực hơn người nhiều lắm. Vả chăng, chúng làm sao để gánh vác cho hết các công việc cho được?

Gaidukov sợ ông trung uý có thể đi xem xét chuyến tầu chàng đi hộ tống. Mặc dù đám lính trong toán hộ tống của Gaidukov đều là lính mới tuyển, chàng vẫn có cái trách nhiệm của một công tác chiến đấu, chàng từng bị thương tại mặt trận Duieper hồi tháng Bảy, phải nằm mất hai tháng ở bệnh viện và làm việc tại phòng tiếp tế và dự trữ của bệnh viện, bây giờ thì chàng lại được cử ra mặt trận. Bởi vậy chàng rất hiểu các quy luật quân đội của mình, và hiểu rõ về vấn đề vi phạm kỷ luật và bỏ bê không trông nom đầy đủ đàn ngựa. Chàng và đoàn hộ tống gồm hai mươi binh sĩ của chàng rất tình cờ mà lãnh nhiệm vụ đi hố tống này, và ngay sau khi bọn chàng trao bầy ngựa cho nơi nhận xong là lập tức liên lạc liền với một sư đoàn tác chiến với tư cách là bổ sung quân số. Có thể trong vài ngày, các bộ quân phục mới của bọn chàng đã phủ đầy những đất thó đất sét ở các hầm hố rồi… Phải, nếu ở đâu cũng gặp được hầm hố, là một điều may mắn lớn cho bọn chàng, hồi tháng Bảy, chàng chỉ có được một vài đụn cát nhỏ để làm nơi trú ẩn tránh nhìn của bọn Đức cho nên mới bị thương khốn khổ như vậy. Và cũng vì vậy, chàng muốn được hưởng nốt những ngày cuối cùng đầy êm ả, ấm cúng đầy hoan lạc này. Trong toa tầu rộng rãi, có hai chiếc lò sưởi bằng sắt phải luôn luôn bỏ thêm than vào, than phải lấy từ các chuyến tầu khác, và phải dùng móc mà móc hay gắp. Chuyến tầu của chàng không bao giờ ngừng lại ở đâu một thời gian lâu, nhưng mỗi ngày phải ba lần tiếp tế nước uống cho ngựa, và lấy phần ăn chiếu theo các chứng minh thư lộ trình của toán hộ tống. Bây giờ, kể từ khi tầu đi lại nhanh như vậy, có nhiều người lại chỉ lo làm sao kịp lên tầu. Và, mặc dầu theo quy luật thì thường dân cấm không được lên toa hộ tống, thì Gaidukov và quân nhân phó trưởng toán của anh vẫn cảm thấy rằng không thể nhìn một cách thờ ơ trước cảnh những người chen lấn nhau lên xuống giữa những chuyến tầu dưới một bầu trời lộng gió được. Gaidukov không để cho bất cứ ai xin lên toa của chàng cũng được, nhưng với chàng một vài người có thể từ chối được thì cứ từ chối. Chỉ cần đổi một ca rượu Vodka cất lấy tại nhà, là một ông thanh tra khéo léo đã có thể lên tầu được rồi ; chỉ một miếng mỡ thôi, là một ông già tóc đỏ hoe đã được lên tầu rồi chứ không phải bị lặn lội trong gió lạnh nữa. Cũng có lúc bọn chàng để cho người ta lên tầu mà không đòi hỏi gì cả, nhưng thường thường thì đàn bà con gái bao giờ cũng được lính hộ tống hết lời mời chào lên tầu, lính hộ tống lăng xăng giúp đỡ cho các người đẹp hoài mà chẳng bao giờ thấy mệt. Bây giờ, trong toa tầu ấm cúng, ông già tóc đỏ lẩm bẩm kể lại vài câu chuyện về thời Đệ nhất Thế chiến, hồi đó ông ta được huy chương như thế nào, trong khi ấy thì một trong những cô gái - cô gái này không chịu để cho ai đụng chạm đến người cơ ngồi sát cánh ngay ông già - cô gái này cũng lách lại gần bên lò sưởi co ro như một con chim con. Vì hơi nóng, các cô gái khác đã bỏ áo khoác ngoài từ lâu rồi, các cô cũng cởi cả áo len. Có một cô, chỉ mặc một chiếc áo cụt tay màu đỏ, giặt quần áo của trẻ con, và lúc vắt chỗ quần áo giặt ấy cho ráo nước, vắt làm sao cho càng được ráo nước càng hay, thì mảnh áo lót ẩm ướt ở người giúp tay cho chị ta lại làm cho chàng thấy sôi nổi trong lòng. Hai cô gái khác thì đang nấu ăn cho cả bọn, hai cô lấy mỡ nấu nướng biến chế các khẩu phần quân đội thành những món ăn hoàn toàn khác hẳn. Còn một cô gái nữa ngồi ở góc toa, cô ta đang khâu lại một chỗ rách trên cái áo hay cái quần gì đó.

Và khi tầu ra khỏi ga, họ bắt đầu ăn, họ ngồi bên cánh lò sưởi một lát, hát một vài câu theo nhịp bánh xe lăn nhanh làm cho cả con tầu lắc lư, và rồi chẳng cần phải để ý xem ai là người phải trực canh, ai là người được rảnh (cả bọn ai cũng mệt mỏi như nhau), họ rời nhau mỗi người leo lên phần giường ngủ của mình làm bằng gỗ thô không bào nhẵn mà ngủ. Và đám phụ nữ hôm nay, cũng như đám phụ nữ ngày hôm qua, những thiếu phụ vừa mới tiễn chồng ra chiến trận và trong đám các cô gái nữa, tất cả không phải là có thể cưỡng được với sự cám dỗ của cuộc tình, nên trong những góc nơi ánh đèn không chiếu tỏ, nhiều bà nhiều cô nằm gọn trong lòng người tình của họ.

Người lính khốn khổ hôm nay lên đường ra mặt trận, tình ý buồn nản ra sao? Ai biết được, có thể giờ đây người lính ấy đang sống những ngày cuối cùng của cuộc đời mình.

Ấy cũng chính vì thế, mà trung sĩ Gaidukov mong muốn được trung uý cho phép chuyến tầu lên đường thật sớm, mong ước này của Gaidukov là mong ước lớn lao nhất trong lúc này. Và chàng cũng muốn các bà các cô không cùng một đường đi của chàng, chàng biết các bà các cô sẽ xuống ở đâu, và chàng cũng hiểu mình sẽ xuống chỗ nào, chàng biết mình sẽ phải tới khu vực chiến trường nào và lần này có phải chiến đấu hay không, chàng cũng mong ước được đi qua nhà chàng.

Trung uý vừa đọc các chỉ thị dẫn kèm của toán hộ tống, vừa bảo:

"Tôi hiểu. Các chuyến tầu của các anh không đến cùng một chỗ à?"

"Bao nhiêu lâu thì hai chuyến tầu gặp nhau?"

"Thưa vài chặng ngừng ngược trở lại".

Cặp kính mắt trung uý đăm đăm nhìn các giòng chữ, môi ông trề ra, ông hỏi:

"Tôi lấy làm lạ là tại sao người ta lại cử anh đi đường này?"

Trung uý ngửng đầu, ông nhìn Trung Sĩ Dygin, anh chàng có khuôn mặt hao hao giống ông già Chkalov, hỏi tiếp:

"Trước anh không ở Penza à?"

Giọng Trung sĩ Dygin khàn khàn:

"Thưa vâng".

"Thế thì tại sao người ta lại cho anh đi vòng vo quanh cả một vòng đến tận Ryazhsk như thế này? Người ta làm việc lạ lùng thật!"

Trung sĩ Gaidukov hỏi:

"Thưa Trung uý, khi hai chúng tôi rời nơi này, hai chúng tôi có cùng đường đi với nhau không ạ?"

Trong lúc đi đến phòng sĩ quan chuyển vận của nhà ga, chàng đã tìm ra được Trung sĩ Dygin từ đâu tới, nhờ đấy chàng hi vọng khám phá ra được nơi trung sĩ này sẽ phải đến.

"Phải, từ đây đến Gryazi các anh đi cùng đường với nhau".

"Thưa, sau đấy thì sao ạ?"

"Sau đấy hả, là một bí mật quân sự!

Zotov nói với cái giọng người Volga nhừa nhựa đầy vui vẻ, chàng nheo nheo mắt, phóng tia mắt qua mục kính nhìn chàng trung sĩ vóc dáng cao lớn.

Trung sĩ Gaidukov hơi cúi người xuống phía ông Trung uý, và cố gắng tán tỉnh để may ra biết thêm được chút tin tức nào nữa không:

"Thưa Trung uý, hai đứa chúng em không được may mắn đi ngang gần Kastornaya hay sao hở Trung uý?"

"Rồi các anh sẽ được biết mà!"

Giọng Zotov làm ra vẻ nghiêm nghị. Nhưng cặp môi chàng lại hơi mỉm cười, và vì thế Trung sĩ Gaidukov hiểu là lộ trình của hai người có đi qua Kastornaya.

"Thưa Trung uý, chúng em đi ngay tối hôm nay à, Trung uý?"

Bỗng Dygin nói như bắn gắt:

"Tôi không thể đi được".

"Sao, anh nói là anh không đi được hả? Anh bị ốm hả, hay có điều gì?"

"Cả chuyến tầu không thể đi được".

"Tôi không hiểu gì cả. Tại sao anh lại bảo thế? Tại sao?"

"Bởi vì chúng tôi không phải là những con chó!"

Dygin thốt giọng gằn xuống, hai tròng mắt anh đảo quanh dưới mi mắt có vẻ giận dữ.

Zotov bật đứng thẳng lên, cặp mày chàng cau lại:

"Chuyện gì lạ vậy! Trung sĩ nên thận trọng lời nói!"

Lúc ấy Zotov mới nhận thấy trên cổ áo Dygin chỉ có một dấu hiệu Trung sĩ hạng hai hình tam giác mầu xanh, còn cổ áo bên kia thì không có, chỗ cổ áo không có lon trung sĩ ấy chỉ có một cái lỗ thủng. Hai giải mũ lòng thòng thứ mũ bắt đầu dùng từ thời cách mạng, dài xuống đến tận ngực trông tựa như hai cái tai cụp xệ xuống.

Ánh mắt Dygin nhìn thật dữ dội, giọng y khàn khàn thứ giọng khàn của một người cuống họng đau:
"
Bởi vì chúng tôi suốt từ mười một ngày nay, chưa được ăn một thứ gì cả!"

"Hả!"

Zotov giật giọng, mục kính tuột xuống một bên vành tai. Chàng vội đưa tay giữ mục kính, đeo lại ngay ngắn, rồi tiếp:

"Làm sao lại như vậy được?"

"Đúng như vậy. Đúng thế… Giản dị lắm".

"Anh có lộ trình thư với thẻ khẩu phần không?"

"Ăn mớ giấy ấy chẳng được ích gì".

"Nhưng rồi làm thế nào mà sống được chứ?"

"Chúng tôi đã xoay sở đủ cả rồi".

Làm thế nào mà sống được chứ? Cái câu hỏi con nít, ngu si ấy thật ra từ cửa miệng anh chàng "bốn mắt" vóc vạc nhỏ thó này làm cho Dygin mất hẳn cơn giận dữ, và y nhủ thầm trong bụng là đừng có trông mong gì được giúp đỡ ở cái trạm nhà ga Krechetovka này trong thời gian còn lưu lại ở đây. Làm thế nào mà sống được chứ! Không phải chỉ vì có đói không, mà sự giận dữ nó làm cho quai hàm trung sĩ Dygin bạnh ra, y hầm hầm nhìn ông sĩ quan phụ tá chuyển vận có nước da vàng vọt, trắng bệch, ông sĩ quan vùi cuộc đời trong căn phòng sạch sẽ ấm cúng này. Cách đây bẩy ngày, bọn họ đã ăn trộm hai bao củ cải đường trong đống các bao, và suốt một tuần lễ bọn họ đã luộc số củ cải ấy mà ăn hết cả rồi. Cuối cùng, đêm hôm kia, lúc chuyến tầu của họ đợi ở ga Alexander Nevsky, trung sĩ Dygin đưa mắt buồn bã nhìn đám lính của anh, đám người mệt mỏi, tất cả đều là lính trừ bị và nhiều người còn lớn tuổi hơn cả anh, mặc dù bây giờ anh cũng chẳng còn trẻ trung gì nữa. Trung sĩ Dygin suy nghĩ, và đứng dậy. Gió lùa trong các bánh xe toa tầu, và rên rỉ qua những kẽ hở. Dygin phải đi tìm vài thứ gì để cho đám lính ăn tạm qua cơn đói, dù rằng chỉ kiếm được một chút thôi cũng được. Và y lần bước vào trong bóng đêm. Chừng một tiếng rưỡi đồng hồ sau y trở về quăng ba ổ bánh mì lên giường. Người lính ngồi sát ngay cạnh chàng ngạc nhiên, y không tin mắt y nhìn đúng sự thực.

Người lính kêu lên:

"Cái gì, lại có cả bánh tráng nữa cơ à!"

Dygin đưa mắt nhìn mấy ổ bánh, giọng thản nhiên:

"Cả bánh tráng nữa hả? Tao không để ý đấy!"

Và chẳng bao giờ Dygin lại có thể nói ra cho sĩ quan cấp trên của mình biết được là bọn chàng làm cách nào xoay sở để sống được. Trong những ngày ấy, bốn người trong bọn họ đã đi qua nơi quê hương bản quán của mình, cả bọn tưởng như mình đang đi giữa một bãi sa mạc hoang vắng. Hàng hoá bọn họ đang hộ tống đây, là gồm có hai mươi ngàn chiếc xẻng bôi đầy mỡ nhà máy, số xẻng này để đưa đến cho công binh sử dụng. Và ngay từ lúc mới khởi hành, Dygin đã biết là cả bọn phải đưa số xẻng ấy đi từ Gorky tới tận Tbilisi. Tất cả các thứ hàng hoá khác ưu tiên đều bị bác bỏ, để lấy chỗ chất số hàng hoá lạnh cứng trong lớp mỡ bò. Chuyến tầu đã đi được hơn hai tuần lễ, thế mà vẫn chưa được một nửa đường. Anh chàng sĩ quan gửi hàng vóc người bé nhỏ bần tiện này cần phải nhớ kỹ trong đầu như vậy, và phải nhớ là còn bốn toa tầu chưa mắc vào nốt, sau đấy thì để mặc cho cả đoàn tầu lâm cảnh khốn cùng tại một trạm giao liên hoang vắng xa ngút ngàn nào đấy. Bọn họ được lĩnh khẩu phần cho ba ngày đường tại trạm Gorky, tới trạm Saransk thì được lĩnh thêm khẩu phần cho một ngày nữa. Sau đấy, khi đến bất cứ nhà ga nào, ở bất cứ nơi nào và bất cứ lúc nào cũng vậy, bọn họ đều thấy các kho lương thực quân đội bao giờ cũng đóng kín cửa. Mặc dù vậy họ cũng phải đứng cho vững, vẫn phải sống, bọn họ đã chịu đựng cái đói một cách thật kiên nhẫn năm ngày nữa, như thế giả thử chỉ có lời hứa là khẩu phần trọn mười lăm ngày sẽ được cấp phát cho họ đã làm cho họ sống được rồi. Nhưng bụng họ cồn cào, kêu đòi có bánh, và tâm hồn họ rên xiết bởi vì họ hiểu rằng quy chế nhà binh không bao giờ cấp phát số khẩu phần đã quá ngày chưa phát ra. Những gì đã xảy ra, là đi kiếm thực phẩm, đi tìm cái ăn.
Trung uý Zotov muốn tìm hiểu. Chàng hỏi:

"Thế tại sao các thẻ khẩu phần của các anh lại không được người ta cấp phát thực phẩm nhỉ?"

"Tại sao hả, thế ở Trung uý có muốn cấp phát cho họ không?"

Trước khi đoàn tầu dừng hẳn lại tại ga Krechetovka, Dygin đã nhẩy xuống khỏi toa hộ tống, gặp một người lính ở sân ga, Dygin đã hỏi và được biết là tại ga này có một kho quân lương. Rồi Dygin lại được người lính cho biết tiếp là kho quân lương ấy bao giờ cũng đóng cửa khi trời tối, vì thế không có cách gì để đến quấy rầy nhân viên coi kho quân lương ấy được cả. Chính Dygin lúc ấy cũng thấy cửa nhà kho khoá kỹ.

Trung sĩ Gaidukov quên mất cả cử chỉ thận trọng anh đang cố giữ trong lúc đứng trước viên sĩ quan, anh vươn cánh tay dài thậm thượt ra mò mò vai trung sĩ Dygin mà rằng:

"Tại sao bồ không cho mình biết như vậy nhỉ? Bọn tôi giúp bồ được ngay mà!"

Dygin chẳng phản ứng lại việc Gaidukov mò mò vai mình, gã cũng chẳng thèm quay đầu lại nữa. Ánh mắt gã vẫn dữ dội, uất hận, đăm đăm nhìn vào mặt trung uý Zotov. Gã tự khinh mình là vô dụng, cả gã lẫn những người nhiều tuổi hơn gã trong chuyến đi chưa bao giờ ngỏ lời xin thường dân hay các quân nhân khác giúp đỡ, bởi vì ai cũng hiểu rằng trong thời buổi này không ai làm gì có của dư mà cho người khác được. Cũng chẳng có ai ngỏ lời yêu cầu bọn họ hãy đẩy cao tinh thần trong cái toa chở súc vật trống trải dùng làm toa tầu hộ tống ấy, toa tầu vẫn chưa nối vào đoàn tầu và vẫn ở trong tình trạng đợi chờ. Trong lúc đợi chờ như thế, bọn họ không còn công việc gì hơn là hút thuốc. Rồi, vì sườn toa tầu đầy những chỗ nứt vỡ, họ lấy vải dầy bít kín ba trong bốn cửa sổ toa tầu lại vì thế dù ngay giữa ban ngày bên trong toa cũng tối om. Và vì thất vọng đủ mọi bề, họ cũng chẳng buồn chăm chú lắm về việc đốt lò sưởi cho ấm, rồi tại những chặng nghỉ dài thật dài họ ôm gối ngồi quanh chiếc lò tắt lửa có khi trọn cả ngày trời, rồi họ luộc củ cải bằng các bình đựng nước uống, và dùng dao găm để xiên củ cải mà ăn, cả bọn lặng lẽ chẳng ai nói với ai nửa lời.

Trung sĩ Gaidukov về lịch sự đứng thẳng lên hỏi:

"Thưa đồng chí Trung uý, em ra ngoài được không ạ?"

"Được, Trung sĩ cứ việc".

Gaidukov bước ra. Chắc anh ta đi giải quyết vấn đề chia sẻ một ít thức ăn và thuốc lá cho bọn người này. Bọn họ chẳng bao giờ than thở với mụ già đó để mong được chút gì mà ăn, như vậy thì lúc này tốt hơn cả là mụ già ấy đem một ít thức ăn đến cho họ! Và họ lại phải dò xét lần nữa cái túi ba lô của ông thanh tra.

"Họ vẫn còn có thể nghe được cái tiếng động đúng phát ra từ cái ba lô ấy".

Trung uý cố tìm cách giải quyết vấn đề, ông bảo:

"Tôi hiểu, tôi hiểu. Bây giờ quá sáu giờ rồi, kho quân lương đóng cửa mất rồi".

"Vào giờ này thì các kho đều đóng cửa cả. Các kho chỉ mở cửa từ mười giờ sáng đến năm giờ chiều thôi. Ở Penza tôi đứng xếp hàng cả buổi, đến khi được gọi tên thì xe lửa chạy. Đến khi tới Marshanck thì đã nửa đêm rồi, tới Ryazkask cũng đêm nốt".

Zotov bắt đầu bối rối lắm, chàng bảo:

"Được, đợi đấy, đợi đấy, tôi không thể để mặc việc này được. Để tôi thử xem…"

Chàng nhấc ống điện thoại, quay chuông thật dài. Không có ai trả lời. Chàng quay chuông liền ba hồi nữa. Vẫn không có ai trả lời.

"Hà, khốn nạn thật!"

Chàng quay chuông thêm ba lần nữa.

"Guskov đấy hả?"

"Thưa đồng chí Trung uý, vâng!"

"Tại sao không có ai trực điện thoại cả?"

"Có, nó vừa chạy đâu đấy. Nó chạy đi kiếm mấy bình Yaour đấy Trung uý! Trung uý có ăn không, em đem sang mấy bình?"

"Vớ vẩn, tôi không muốn gì cả".

Chàng không nói rõ ra, vì còn có Dygin đang đứng ngay bên cạnh. Chàng không bao giờ cho phép Guskov đem thứ gì đến cho chàng cả. Vì đây là nguyên tắc làm việc, nguyên tắc chỉ huy. Và để giữ cho các giao thiệp được đứng đắn, chàng không thể đòi hỏi các cấp dưới của chàng phải săn sóc đến các công việc của chàng một cách quá kỹ lưỡng như vậy. Zotov đã có lần báo cáo lên ông đại uý về sự vô kỷ luật của Guskov.

Chàng bảo:

"Này Guskov, có việc như sau: có một chuyến tầu tới đây. Đoàn hộ tống của chuyến tầu này gồm bốn người, từ mười một ngày nay họ không được lĩnh tí khẩu phần nào cả".

Có tiếng Guskov huýt sáo trong ống nói:

"Mấy anh chàng ấy thế thì không khá được!"

"Đúng, không khá được. Ta phải dàn xếp vụ này mới được. Này tôi muốn anh đi kiếm Chichischev và Samorukov, bảo họ mở kho cấp lương thực khẩu phần theo đúng với thẻ khẩu phần của mấy người hộ tống này nhé".

"Em không biết tìm hai thằng ấy bây giờ ở đâu được đây? Đồng chí Trung uý, kiếm được chúng không phải là dễ đâu?"

"Ở đâu hả? Tôi cho là cứ tìm ở chỗ làm việc là thấy".

"Bây giờ đang mưa mà trung uý, lội bùn lúc này không tốt, trời lại tối nữa…"

"Chichishev không ở xa đây là mấy".

"Thế còn Samorukov thì sao ạ? Nó ở mãi bên kia bến. Đồng chí Trung uý, chắc chẳng bao giờ nó chịu đến đâu".

"Nhưng Chichishev thì sẽ đến".

Chichishev là một thơ ký dân sự, bị trưng dụng vào quân đội và đeo lon hạ sĩ trong sở tiếp liệu. Nhưng ở đây chẳng ai cho ông ta là một người nhà binh cả, vì thế mọi người vẫn đối xử với ông ta như một thầy thơ ký đã tiêm nhiễm sâu xa cái lề lối làm việc thương mại của ông rồi. Nói chuyện công việc với ông ta mà không có cả bàn tính để ngay bên cạnh thì cũng không được. Cái cung cách làm việc của ông ta còn đến như thế này: chẳng hạn khi ông ta hỏi về giờ giấc:

"Bây giờ là mấy giờ?"

"…"

"Năm giờ hả?"

Và để nhớ là năm giờ, ông ta gẩy năm hạt bàn tính sang một bên. Có khi, đang trong cơn mơ màng suy nghĩ, thì ông ta lại còn lên giọng triết lý như sau:

"Nếu người đàn ông sống độc thân" - ông ta gạt một hạt bàn tính - "cuộc đời ắt sẽ khó khăn vất vả. Rồi người đàn ông ấy" - gạt hột bàn tính thứ hai - "phải cưới vợ".

Khi ông ta ngồi ở bên trong khung cửa sổ ngăn cách với đám lính đang gào thét, la ó ở bên ngoài cố chen lấn nhau để đưa thẻ khẩu phần vào trước, đám lính cố lách cánh tay luồn thẻ khẩu phần vào trong cửa sổ chỉ hé mở vừa đủ cho lọt cánh tay, thì lúc ấy ông ta có thái độ hết sức cứng rắn, ông xô đẩy, gạt tay đám lính ra, rồi đóng xập cánh cửa lại để không cho lính đưa thẻ vào nữa. Nhưng mỗi khi ông ta ra khỏi cái nơi trú ẩn ấy của ông ta để gặp gỡ thẳng với đám lính, hoặc giả có bọn lính nào xoay xở tìm cách lọt được vào phòng làm việc của ông ta, thì lập tức ông ta liền kéo xẹp ngay hai cánh mũ phủ xuống hai vai hẹp của ông mà cất giọng thật êm ái: "Các bạn…" - rồi ông ta đóng dấu lên thẻ khẩu phần cho họ ngay. Đứng trước các cấp trên, ông ta lại khúm núm hèn hạ, lúc nào cũng ra vẻ lo lắng sợ sệt, chưa bao giờ ông ta lại từ chối một điều gì với bất cứ ai có mang cấp bậc cao trên cổ áo. Kho quân lương không thuộc quyền hành khiển của sĩ quan chuyển vận nhưng Zotov tin rằng Chichishev sẽ không từ chối lời yêu cầu của mình.

Gushov lại nhắc lại:

"Nhưng Samorukov sẽ không đến đâu".

Samorukov chỉ là một hạ sĩ, nhưng y lại coi khinh các trung uý ghê lắm, coi các cấp trung uý chẳng ra gì. Y có vóc người thật to lớn, khoẻ mạnh, dáng điệu của một con chó sói lúc nào cũng no đủ, y đúng là một nhân vật coi kho, một cái máy tính sống của kho quân lương, nhưng y lại cư xử như cung cách một tay anh chị, giang hồ.

Với bộ điệu thật trịnh trọng, y bước tới chỗ nhà kho, xem xét các khoá các chốt cửa, cuối cùng thì mở khoá, nâng cánh cửa sổ lên rồi móc cái móc giữ cho cánh cửa sổ mở đứng như vậy, trong khi ấy thì cái bản mặt phị mỡ, quai hàm bạnh, hãm tài khó lòng thân thiện được của y lại tỏ ra vẻ ta đây lúc nào cũng sẵn sàng phục vụ cho hết thấy mọi người nào đến cầu cạnh. Ấy vậy mà đến khi đám lính hối hả vội vã chỉ đợi mau mau ra tầu cho kịp chuyến, bọn lính vã mồ hôi chen chúc nhau xô đẩy nhau cố làm sao chen đến gần khung cửa sổ hé mở ấy gần thêm chút nữa, thì Samorukov vẫn có thể bình thản, ung dung vén hai tay áo lên để lộ hai cánh tay nung núc mỡ của y rồi vênh mặt lại dấu đóng của Chichishev trên các thẻ khẩu phần rách nát, quăn queo, sau đấy y khoan thai cân số thực phẩm (bao giờ y cũng cân thiếu) chẳng bao giờ y băn khoăn trong đầu tự hỏi xem người lính đi lĩnh khẩu phần ăn ấy liệu có kịp về chỗ tầu đậu đúng giờ hay không. Y ở trọ ở một nơi khá xa nhà ga do đó những lúc ngoài giờ làm việc y không bị ai quấy rầy làm phiền gì cả, và y lại còn cẩn thận chọn bà chủ trọ nào có một cái vườn rau và một con bò.

Nghĩ đến Samorukov Zotov lại thấy giận sôi sục ở trong lòng. Chàng căm ghét những kẻ như y, đúng y như chàng căm thù bọn phát xít, và khó lòng quan niệm được rằng những con người ấy chỉ là một mối đe doạ nhỏ bé. Chàng không làm sao hiểu nổi tại sao đồng chí Staline lại không ra lệnh cho những thứ Samorukov ở trên thế gian này phải bị tội bắn bỏ ở ngay trước kho quân lương của chúng, trước mặt đoàn hành quyết xếp hàng nghiêm chỉnh.

Zotov nghĩ: "Không, thẳng Samorukov sẽ không đến thật", nghĩ như vậy thì chàng lại thấy giận điên lên, đồng thời lại thấy hổ thẹn vì mình sợ y. Nếu để bọn bốn người lính hộ tống bị bỏ đói này ra đi tay không với ba hay năm ngày nữa, thì nhất định chẳng bao giờ Zotov lại dám chọc tức tên Samorukov cả. Ấy vậy mà bọn bốn người này đã bị đói từ mười một ngày nay…

Chàng nói vào ống nói:

"Guskov, anh nghe không, đừng sai lính đi gọi y nghe không, anh phải đích thân đi kiếm y mới được. Anh đừng nói cho y biết về việc bốn người lính hộ tống bị bỏ đói nhé, nhưng anh nói rằng Đại uý gọi y có việc khẩn cấp, qua tôi, anh hiểu chưa? Sau đấy thì anh đưa y đến thẳng tôi. Tôi sẽ giải quyết với y".

Guskov không trả lời.

"Sao anh không trả lời? Anh hiểu lời tôi bảo anh làm không? Nghe lệnh rồi thi hành ngay".

"Nhưng Trung uý đã bàn lại việc với Đại uý chưa?"

"Việc ấy là việc của anh đấy à? Tôi là người chịu trách nhiệm về việc này, không phải anh! Ngay lúc này Đại uý chưa được biết".

"Đại uý sẽ không bao giờ ra lệnh cho y làm như vậy đâu Trung uý ơi. Không có luật lệ nào có thể bắt buộc thẳng Samorukov phải mở cửa kho giữa ban đêm để phát ra vài cân bánh, mấy con cá mòi đâu!
Sự thật đúng là như vậy".

Zotov cố chút nữa:

"Con mấy người này thì sao?"

"Thì cứ để cho họ đợi đến mười giờ sáng mai. Đợi thêm một đêm nữa có gì là ghê gớm đâu, còn bây giờ thì Trung uý cứ bảo họ nắm ép rệp vào với nhau lấy lưng làm chăn cho ấm!"

"Nhưng xe lửa sắp chạy rồi. Chuyến xe này gấp lắm, không cho đi không được. Chuyến tầu trễ lâu rồi, vả lại lúc này đang có nhiều người mong đợi chuyến tầu".

"Nhưng nếu chuyến tầu sắp chạy, thì Samorukov có đi cũng chẳng đến kịp được. Đi bộ lội bùn, xách đèn từ đây đến chỗ nó ở, rồi lại đón nó đi bộ lội bùn về đây, ít ra cũng phải mất một tiếng rưỡi, hai tiếng đồng hồ".

Đúng, Guskov lại nói đúng thêm một điều nữa.

Trung sĩ Dygin quai hàm nghiến chặt vào nhau, hai giải mũ che tai cũ kỹ lòng thòng xuống ngực, y quay gương mặt phong trần về phía ống nói cố hiểu xem người ở đầu dây nói bên kia nói gì. Dygin vừa lắc đầu thất vọng, vừa nói:

"Lại thêm một ngày nữa, việc không xong – bọn chúng tôi lại mất khẩu phần".

Zotov thở dài lấy tay bịt ống nói lại để Guskov ở đầu giây đằng kia không nghe được, chàng bảo:

"Bạn thấy, tôi làm gì được? Thôi cứ coi như là hôm nay không có gì. Tới trạm Gryazi thì sao nào? Chuyến tầu này là chuyến tốc hành đến trạm ấy thì cũng vừa buổi sáng rồi".

Dygin có vẻ sắp đành nhẫn nhục, nhưng bỗng nhiên y chợt thấy ở viên Trung uý này có điểm yếu. Y bảo:

"Tôi không đi. Trung uý có thể bắt giam tôi được, nhưng tôi không đi đâu cả".

Vừa lúc ấy có tiếng gõ cửa. Một người ăn mặc dân sự mặt phì nộn rõ ra là thừa cơm thừa gạo, ông ta đầu đội một chiếc áo choàng mầu xám muối tiêu, ông ta khom mình thật lễ độ để xin phép được vào phòng, ông ta lẩm bẩm thế nào mà đến nỗi Zotov cũng chẳng nghe thấy ông ta nói gì. Zotov vội nói:

"Vào đi, vào đi!"

Rồi chàng nhấc bàn tay che ống nói ra nói tiếp:

"Thôi được, Guskov, tôi sẽ nói lại việc này sau".

Chàng mắc ống nói vào máy.

Ông thường dân ở bên ngoài cửa không nghe thấy Trung uý nói gì, lại hỏi:

"Thưa, tôi vào được không ạ?"

Zotov quá đỗi ngạc nhiên về giọng nói của người lạ, giọng nói của ông ta trầm, quyền uy, giọng nói có sức mạnh dường như chủ nhân nó muốn che giấu không cho lộ ra cái sức mạnh kỳ diệu ấy. Người đàn ông ấy mặc chiếc áo choàng mầu rỉ sắt đậm, áo kiểu thường dân, nhưng ông ta lại mặc quần nhà binh, chân đi giầy lính có quấn xà cạp. Tay ông ta lại cắp thêm một cái sắc nhà binh bẩn thỉu, tay kia ông nhấc mũ xuống, hướng về Zotov lẫn Dygin ông ta nói: "Chào ông".

Zotov đáp:

"Chào ông!"

Người đàn ông hỏi: 

"Xin quý ông vui lòng cho tôi hay: ai là sĩ quan chuyển vận ở đây ạ?"

Ông ta hỏi thật lễ độ nhưng lại không có vẻ gì là khúm núm cả, phong độ ông ta thật đường hoàng hoà hợp dù rằng áo quần ông ta lẫn lộn táp nham đủ thứ.

"Chính tôi là phụ tá sĩ quan chuyển vận đang trong phiên trực!"

"Nếu vậy ông chính là người tôi đang muốn gặp rồi!"

Khách lạ đưa mắt nhìn quanh tìm chỗ treo mũ, chiếc mũ dường như bị bẩn vì than bụi, khách lạ thấy không có chỗ nào mắc chiếc mũ được. Nên ông ta liền kẹp chiếc mũ vào nách, bàn tay kia ông ta lần cởi khuy áo khoác. Chiếc áo lật ngược ra, áo không có cổ - cổ áo đã bị cắt bỏ - cổ ông ta quấn một chiếc khăn len. Đến lúc ấy Zotov mới thấy rõ người lạ mặc bộ quần áo nhà binh vừa bạc cũ, vừa bẩn thỉu, bộ quần áo của Hồng Quân mặc về mùa hạ. Khách lạ bắt đầu giơ tay cởi khuy túi áo ngực.

Zotov giơ tay cản khách lạ:

"Khoan, khoan!..."

Chàng quay sang Dygin, bộ mặt Dygin u ám, y đứng bất động hai mắt nhìn trung uý đăm đăm. Chàng bảo:

"Tôi phải nói để anh hay là tôi sẽ làm tất cả những gì tôi có thể làm được. Tôi sẽ không cho mắc các toa tầu của anh vào chuyến tầu và tôi sẽ để anh đi vào hồi mười giờ sáng mai".

Dygin nói:

"Cảm ơn trung uý".

Hai mắt Dygin ngầu đỏ. Zotov tiếp:

"Không có vấn đề cảm ơn gì cả, thật ra tôi chưa thực sự dàn xếp vụ này. Các anh sẽ đi chuyến tầu khác thật sớm. Cho đến lúc này tôi vẫn chưa biết dàn xếp để các anh vào chuyến nào".

"Dù sao chăng nữa thì chúng tôi cũng phải đi mất hai tuần lễ, vì vậy thì sớm hay muộn thêm một ngày nào có khác gì. Về thứ hàng chúng tôi đi hộ tống…"

Zotov giơ vội ngón tay lên lắc lắc:

"Ấy đừng! Đừng! Vấn đề không phải là anh hay tôi là người quyết định về tính chất khẩn cấp của các hàng ấy là thế nào…"

Chàng liếc mắt về phía người lạ, rồi thay giọng nhưng vẫn nghe rõ cái giọng người Volga của chàng:

"Nếu anh đã biết anh đi hộ tống cho thứ gì rồi, thì anh hãy nghĩ rằng: có bao nhiêu người sẽ dùng số xẻng ấy để đào hố cá nhân? Trọn hai sư đoàn đấy! Xuống được hố cá nhân, có nghĩa là mạng sống của họ được bảo đảm đấy! Vì thế hai vạn chiếc xẻng có nghĩa là hai vạn mạng sống của các binh sĩ hồng quân đã được cứu sống đấy! Phải không?

Zotov lại liếc mắt nhìn người lạ, ông ta hiểu ý nên đã đi ra xa về phía bên kia căn phòng, hai tay ông ta giơ lên bưng lấy tai làm như thể bưng tai cho đỡ lạnh, mà cũng có lẽ là để bịt tai khỏi nghe phải những lời nói chuyện của Zotov.

Zotov điểm nụ cười, hỏi to lên:

"Sao, ông bạn lạnh hả?"

Người lạ quay lại, mỉm cười.

"Thật là lạ, chỉ mới có một giờ đây thôi mà thời tiết bỗng xuống thấp lạnh đến thế này, gió cũng thổi mạnh, cùng lúc trời lại đỗ mưa nữa!"

Phải, gió đang gào thét quất vào góc toà nhà, và khung kính vỡ ở cửa sổ phía bên tay phải phát ra những tiếng lạch cạch ở đằng sau miếng giấy che ánh sáng. Nước trong ống máng bị vỡ lại chẩy xiết ào ào.

Nụ cười của người lạ râu lởm chởm nét mặt khác thường này lại rất đầm ấm rất dịu dàng. Tóc ông ta không cạo hết, tóc kín đầu nhưng tóc ngắn, mềm, lẫn màu xám.

Ông ta trông chẳng ra nhà binh, cũng chẳng ra thường dân.

Ông ta móc trong túi áo ngực ra một mảnh giấy, rồi nói:

"Thưa, đây là giấy của tôi…"

Zotov đỡ lấy tờ giấy chưa vội xem, chàng nói:

"Khoan, khoan. Lát nữa đã. Mời ông ngồi xuống đây, ghế đây!"

Sau khi nhìn người lạ ăn vận kỳ cục lần nữa, chàng đi về chỗ bàn giấy tìm bản ghi các con số, rồi ra hiệu cho Trung sĩ Dygin và đón cả hai sang phòng bên cạnh, phòng của Valia.

Nàng Valia đang bận nói chuyện qua điện thoại, còn mụ Aunt Frosya đang co ro bên cạnh lò sưởi để cho khô quần áo. Zotov đi lại chỗ Valia, nắm cổ tay nàng – tay Valia đang cầm ống nghe.

"Cô Valia…"

Cô gái quay lại, ánh mắt vụt vui sướng hình như cô cảm thấy ấm áp qua bàn tay Zotov nắm cổ tay cô. Nhưng cô tiếp tục nói vào ống nói:

"Chuyến tầu Một Không Không Hai vừa mới tới đây xong. Chúng tôi không có gì gửi đi cả. Petrovich cho chuyến tầu sang đường Tambov nhé!"

"Cô Valia, mau mau bảo bà Aunt Frosya thay danh sách các toa đi nhé – hay tốt hơn cả thì bảo bà ấy để riêng bốn toa của ông này lại cho nhân viên hỏa xa nhé… Ông Trung sĩ đây sẽ đến gặp bà ấy sau – rồi để mấy toa ấy riêng ra cho đến sáng mai nhé".

Mụ Aunt Frosya vẫn ngồi co ro bên cạnh lò sưởi, mụ quay cái bản mặt phèn phẹt lại phía Trung uý rồi trề môi.

Valia đáp:

"Được rồi, Vassily!"

Cô mỉm cười tay vẫn cầm ống nói – có lẽ cô đợi Trung uý buông cổ tay cô ra. Cô tiếp:

"Em sẽ báo bà ấy ngay!"

"Còn bốn toa tầu ấy thì cô dàn xếp sao cho lên đường vào chuyến đầu tiên sáng mai nhé. Cô cố gắng nhé, Valia!"

"Chắc mà, Vassily!"

Cô cười thật tươi, thật rạng rỡ, Zotov quay sang Dygin:

"Rồi, việc vậy đó".

Mụ Aunt Frosya thở dài sườn sượt như bễ lò rèn, rên rỉ rồi đứng dậy. Dygin lặng lẽ giơ tay lên thái dương, chào y cứ giữ mãi cánh tay như vậy. Ở con người y chẳng có gì là nhà binh cả, kể từ cái mũ với hai giải che tai lòng thòng xuống đến ngực trở đi.

"Có phải anh mới nhập ngũ đây không? Trước anh là công nhân nhà máy phải không?"

"Thưa phải".

Ánh mắt nhìn của Dygin tràn đầy sự kính phục, y đăm đăm nhìn trung uý.

Zotov giơ tay chỉ lên bên cổ áo Dygin không có lon cấp bực, rồi bảo:

"Anh nên đeo lon lên cả bên này nữa mới được".

"Tôi chỉ có một chiếc. Chiếc bên này mất rồi".

"Còn cái mũ nữa, ít ra cũng phải buộc hai giải che tai lại chứ, hay là lật nó lên chứ đừng để lòng thòng như vậy. Hiểu không".

Mụ Aunt Frosya vừa khoác xong chiếc áo tơi mưa, mụ tưởng Trung uý bảo mụ, mụ liền cất giọng cằn nhằn có vẻ tức giận:

"Lật mũ lên là thế nào? Ngoài kia mưa lạnh thấy mẹ! Thôi đi ông, nào ta đi!"

"Rồi. Chúc anh may mắn, Trung sĩ! Ngày mai sĩ quan khác sẽ trực ở đây, anh hãy cố xin ông ấy cho đi sớm, đừng trễ nhé".

Zotov trở lại phòng riêng, chàng khép kính cánh cửa. Mới chỉ bốn tháng trở về trước, chàng chưa hề có một ý nghĩ nào về mức độ mau lẹ của chiếc khoá dây lưng nhà binh mỗi lúc cởi ra hay đóng lại, và chàng thấy cái lối chào của nhà binh là có vẻ kỳ cục buồn cười, lại thêm phần không thích hợp.

Khi chàng trở vào phòng, người khách lạ vẫn cứ ngồi im chẳng tỏ vẻ gì là ông ta định đứng dậy, nhưng ông lại có cử chỉ như thể muốn nói rằng: nếu cần thì ông ta sẽ đứng dậy. Chiếc ba lô của ông khách bây giờ để trên sàn, chiếc áo khoác dân sự mầu xám muối tiêu của ông ta để trên chiếc ba lô ấy.

Zotov ngồi xuống ghế ở bàn giấy, chàng nói vội:

"Ông cứ ngồi, cứ ngồi… Nào, xem nào…"

Chàng bắt đầu mở tờ giấy của người khách.

Khách lạ mỉm cười, một nụ cười nhận tội và nói:

"Tôi bị chuyến tầu bỏ rơi đấy ạ".

Zotov đọc tờ giấy, đây là tờ lộ trình thư do sĩ quan vận chuyển ở Ryazhsk ký. Rồi chàng nhìn người lạ, bắt đầu các câu hỏi thường lệ:

"Tên chót của ông là gì?"

"Iveritinov".

"Họ và tên tổ phụ?"

"Igor Dementievich".

"Ông năm nay cũng phải hơn năm mươi tuổi…"

"Không, tôi mới bốn mươi chín".

"Chuyến tầu ông đi số bao nhiêu?"

"Tôi không được biết".

"Họ không cho ông biết hay sao?"

"Không, họ không cho".

"Vậy thì tại sao lại có con số ghi ở đây? Ông phải biết con số này để cho sĩ quan vận chuyển ở Ryazhsk biết chứ?"

Con số ấy là Hai Mươi Bốn Năm Bốn Một Ba, tức là chuyến tầu Zotov cho đi đêm hôm trước rồi.

"Không, tôi không biết. Ở ga Ryazhsk tôi chỉ nói cho họ biết tôi ở đâu tới thôi, rồi từ đấy ông sĩ quan vận chuyển phải đoán ra chuyến số bao nhiêu chứ".

"Ga trước ông đến là ga nào?"

"Ga Skopin".

"Rồi xẩy sự ra sao?"

Iveritinov mỉm cười cầu tài, cặp môi ông ta thật dầy:

"Vâng, tôi xin thưa thật cả. Lúc ấy tôi đi bán vài thứ mang theo trong người, hi vọng là tìm được chút gì ăn đỡ đói… Đúng lúc ấy thì tầu chạy. Tầu chạy mà chẳng kéo còi gì cả, cũng chẳng có loan báo gì hết. Ngày nay các chuyến xe lửa chạy vội quá…"

"Thế việc này xẩy ra đúng ngày nào?"

"Ngày hôm kia".

"Ông vẫn chưa dàn xếp xong?"

"Vẫn chưa xong. Tôi làm cách nào được bây giờ? Ông xem, tìm cách lên được một toa tầu chở hàng hoá có dễ gì, nào là leo thang, đến lính cũng còn không chịu nổi, lại thêm lính canh xua đuổi, đẩy chúng tôi xuống không cho lên. Cho đến lên các toa chở súc vật họ cũng không cho lên. Có người thì bảo là không có chỗ. Có lần tôi còn thấy một chuyến tầu chở hành khách, lần ấy tôi được thấy hai người lái tầu đứng trên các bực toa tầu thấy bất cứ ai muốn lên tầu là đẩy trở xuống. Còn tầu chở hàng hoá, thì không làm sao hỏi được tầu chạy đường nào, suốt thời gian chuyến tầu đứng đợi ở đấy không có đầu tầu nên tôi không làm sao hỏi được xem chuyến tầu ấy chạy đi đâu; đến khi đoàn tầu có đầu tầu rồi thì tôi lại không làm sao hỏi kịp được nữa. Bây giờ thật không làm sao hỏi kịp được nữa. Bây giờ thật không hiểu tại sao người ta không dùng cái lối ngày xưa để cho hành khách biết rõ ràng chuyến tầu chạy đường nào có phải tốt không, chẳng hạn như chỉ đường MOSCOW-MINERALNYEVODY này. Còn hỏi thì không thể nào được rồi, hỏi thì bị mọi người nghi ngờ là gián điệp, nhất là khi lại ăn mặc lôi thôi như tôi thế này. Nói chung thì ngày nay hỏi han điều gì cũng nguy hiểm cả.

"Trong thời chiến tranh, thì chắc chắn đúng thế".

"Ngay cả trước thời chiến tranh cũng nguy hiểm như vậy đấy!"

"Thật tôi chẳng bao giờ được biết như vậy, tôi nói thật đấy".

Iveritinov nheo nheo mắt:

"Thật chứ, nhất là sau hồi 1937".

Zotov ngạc nhiên:

"Năm 1937 thì có gì lạ? Có gì xảy ra năm ấy? Có phải ông định nói đến trận chiến tranh Tây Ban Nha không?"

"Không, không phải…"

Iveritinov lầm bầm và lại mỉm cười, nụ cười thú tội:

"Không phải là chiến tranh Tây Ban Nha…"

Cái khăn quàng len của ông ta không thắt nút, hai đầu buông thõng dưới áo khoác lòng thòng xuống đến gần thắt lưng.

"Ông không phải là nhà binh, làm sao ông đi được? Áo khoác ngoài nhà binh của ông đâu?"

Iveritinov mỉm cười:

"Có bao giờ tôi được phát áo đâu!"

"Thế ông lấy cái áo nầy ở đâu?"

"Có người tốt bụng cho tôi".

Zotov lẩm bẩm:

"A, phải, tôi phải nói thực là ông tới đây được tương đối nhanh đấy. Ông có nói với tôi là sáng hôm qua ông ở sở vận chuyển tại trạm Ryazhsk, và chiều hôm nay ông ở đây. Tôi muốn biết ông làm thế nào mà tới đây được. Ông tới đây bằng đường nào?"

Iveritinov nhìn thẳng vào Zotov, cặp mắt ông ta lớn, thật thà, êm dịu. Zotov thấy tính tình ông này thật hết sức dễ chịu. Chàng cũng lại thấy thích cái cử chỉ của ông ta trong lúc ông ta vừa nói, vừa giải thích cho rõ công việc, ngón tay ông ta nhẹ nhẹ nhịp nhịp.

Ông ta nói:

"Thật là may mắn phúc đức cho tôi quả chừng đấy ông ạ. Tôi xuống tầu ở ga ấy… Trong hai ngày ấy tôi bắt đầu hiểu được tiếng lóng về hỏa xa, trước tôi thường nghe nói đến "toa phẳng" tôi cứ ngỡ rằng cái toa ấy nó phẳng để tiện dụng vào việc nào đấy, phẳng bẹt như đồ trang sức bẹt chẳng hạn này… Tôi mới leo lên bằng một cái thang, tôi thấy rằng nó là một cái "hố bằng sắt", một cái hốc trống trơn chẳng có gì để ngồi, cũng chẳng có gì để tựa hay bấu víu được. Trong toa ấy có than, đến khi tầu chạy, bụi than cuốn lên mù mịt. Thế là tôi được nếm mùi khốn khổ trong toa tầu ấy, nhất là lúc trời mưa xuống mới thật khổ hơn nữa…"

Zotov phá ra cười:

"Vậy mà ông bảo rằng đấy là phúc đức may mắn đấy hả! Tôi chẳng thấy phúc đức may mắn ở chỗ nào cả! Áo quần ông làm sao giặt sạch được!"

Rồi chàng lại cười, hai bên mép chàng vạch ra hai đường nhăn chạy lên đến tận hai bên cánh mũi.

"May mắn phúc đức là khi tôi ra được khỏi toa tầu ấy, rũ bụi than đi và nhận ra rằng đây là chuyến tầu về Nam. Tôi chạy dọc theo đoàn tầu chẳng thấy toa nào mở cửa, toa nào cũng đóng chặt. Rồi tôi thấy có một người lính từ trong một toa trống leo ra ngoài đi tiểu, rồi lại leo trở vào. Tôi bắt chước anh ta cũng leo như vậy. Thật là lạ lùng nói không thể tin được, toa tầu ấy toàn chăn len thôi!"

"Thế toa ấy không đóng cửa hay sao?"

"Không, không đóng cửa! Các chăn ấy nguyên cột lại mỗi gói năm hay mười cái, nhưng lúc tôi vào thì nhiều gói lung tung cả rồi, vì thế người ta có thể dùng các chăn ấy mà đắp được lắm. Trong toa tôi thấy có nhiều người đang ngủ!"

"Ông cũng im lặng luôn!"

"Thế là tôi chui vào ba bốn cái chăn một lúc, tôi ngủ được một giấc vừa dài, vừa ngon vừa ấm quá chừng suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ liền. Tôi không biết chuyến tầu ấy có ngừng lại đâu không nhất là từ hai ngày trước đấy tôi không được lĩnh khẩu phần của mình rồi. Tôi cứ ngủ li bì, ngủ liên miên, ngủ quên cả chiến tranh đang diễn ra, quên cả mình đang ở đâu và chung quanh mình ra sao… Tôi nằm mơ về gia đình tôi..."

Khuôn mặt râu ria lởm chởm, da nhăn của ông ta rạng rỡ hơi ấm.

Bỗng nhiên Zotov chợt nhớ ra điều gì chàng bật đứng dậy:

"Khoan khoan! Như vậy là ông tới bằng chuyến tầu ấy… Ông đến vào lúc nào nhỉ?"

"Tôi không biết, khoảng hai mươi phút gì đấy thôi… Tới nơi là tôi tới ông ngay mà…"

Zotov rảo bước đến cửa, chàng xô mạnh cánh cửa:

"Valia, Valia, chuyến tầu đi Balasho số bao nhiêu. Một không không cái gì, mấy?"

"Một không không hai".

"Chuyến tàu còn đây không?"

"Đi rồi".

"Cô có chắc không?"

"Có, em quả quyết mà".

Zotov hai tay vò đầu, chàng than thở:

"Hừ, thật khốn khổ. Bọn ta ngồi chết ở đây y như những đứa bị tội phải cầm bút mà biên chép, biên chép đủ thứ, thế mà có một việc thì lại chả thấy – thậm chí cũng không tìm ra được cơm mà ăn nữa! Gọi dây nói đi Michurinsk-Uralsky cho tôi ngay nhá".

Rồi chàng quay lại phòng riêng hỏi Iveritinov.

"Ông có cách gì cố nhớ cho được số toa tầu ấy không?"

Iveritinov mỉm cười đáp:

"Không ạ".

"Toa ấy có hai trục hay bốn trục".

"Lúc ấy tôi sợ tôi không biết gì về các thứ ấy cả".

"Vậy thì ông biết cái gì? Toa ấy rộng hay hẹp? Liệu vào loại toa chở bao nhiêu tấn?"
Nguồn: Aleksandr I. Solzhenitsyn, Bất ngờ tại nhà ga Krechetovka, nguyên bản Nga ngữ, bản Việt ngữ của Lê VÅ© dịch theo bản Anh ngữ The Incident at the Krechetovka Station của Andrew Mc Andrew, bìa Hồ Thành Đức trình bày, Hành Trình xuất bản, giấy phép xuất bản số 1953/PTUDV/KBCNT/KSALP ngày 07-6-1973. In 2000 cuốn tại nhà in Tiến Hoá, số 164 Võ Tánh, Sài Gòn, phát hành ngày 05-8-1973. Giá bán 460 đồng, luôn bao ni lông. Bản Ä‘iện tá»­ do talawas thá»±c hiện.