trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
Văn học
  1 - 20 / 482 bài
  1 - 20 / 482 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Văn họcLý luận phê bình văn học
18.1.2005
Mikhail Mikhailovich Bakhtin
Sáng tác của François Rabelais và nền văn hoá dân gian Trung cổ và Phục hưng
4 kỳ
Phạm Vĩnh Cư lược thuật và giới thiệu
 1   2   3   4 
 
Chương một: Rabelais trong lịch sử của tiếng cười

Lịch sử bốn thế kỷ thưởng thức, kiến giải và đánh giá Rabelais gắn bó mật thiết với lịch sử của tiếng cười, những chức năng của nó và cách kiến giải nó trong bốn thế kỷ nay.

Trong lịch sử của tiếng cười, thời đại của Rabelais, Cervantes và Shakespeare là một điểm ngoặt quan trọng. Không ở đâu ranh giới chia cắt thế kỷ XVII và các thế kỷ sau với thời đại Phục hưng lại mang tính chất nguyên tắc rõ rệt như ở thái độ đối với tiếng cười.

Thái độ của thời đại Phục hưng đối với tiếng cười có thể được sơ bộ diễn đạt như sau: tiếng cười có ý nghĩa thế giới quan sâu sắc, đó là một trong những hình thức rất cơ bản của chân lý về thế giới như một tổng thể, về lịch sử và về con người; đó là một giác độ nhìn nhận thế giới đặc biệt, cho phép thấy thế giới một cách khác, nhưng cũng sâu sắc không kém (nếu không hơn) cách nhìn trang nghiêm; chính vì thế cho nên tiếng cười cũng hoàn toàn có thể được dung nạp trong nền văn học “chính ngôn”, nền văn học đặt những vấn đề trọng đại, như thái độ trang nghiêm; có những mặt rất quan trọng của thế giới chỉ có thể thâu tóm được bằng tiếng cười.

Thái độ của thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII đối với tiếng cười có thể diễn đạt như sau: tiếng cười không thể là một hình thức nhận thức mang tính thế giới quan được; đối tượng của nó chỉ có thể là những hiện tượng tiêu cực riêng lẻ, hoặc riêng lẻ - điển hình của đời sống xã hội; tất cả những gì cơ bản và quan trọng đều không thể gây cười được; lịch sử và những nhân vật lịch sử (vua chúa, tướng soái, anh hùng) không thể nực cười, lĩnh vực của tiếng cười nhỏ hẹp và đặc thù (những thói hư tật xấu cá nhân và xã hội); không thể dùng ngôn ngữ tiếng cười để nói lên chân lý hệ trọng về thế giới và con người, ở đây, thái độ đúng đắn duy nhất là thái độ trang nghiêm; vì thế cho nên trong văn học, chỉ nên sử dụng tiếng cười ở các thế loại “hạ đẳng” miêu tả cuộc sống của cá nhân hay các giới xã hội hạ lưu; tiếng cười hoặc là một hình thức giải trí nhẹ nhàng, hoặc là một cách thức trừng phạt hữu ích dành cho những kẻ hư hỏng và hèn hạ.

Cần nhấn mạnh thêm một lần nữa: đặc trưng nhất cho thái độ của thời đại Phục hưng là sự thừa nhận tác dụng tích cực, sáng tạo, “cải tử hoàn sinh” của tiếng cười. Chính điểm này làm cho thái độ ấy khác hẳn với các lý thuyết và triết lý tiếng cười thời sau (từ mỹ học cổ điển chủ nghĩa cho tới thuyết của H. Bergson). Tất cả những lý thuyết và triết lý ấy đều chủ yếu khẳng định và làm nổi bật những chức năng phủ định của tiếng cười.

Nếu về phương diện lý luận, các văn sĩ và tư tưởng gia Phục hưng, theo truyền thống của thời đó, thường hay cầu viện tới uy tín của người xưa (Hyppocrate, Aristote, Lucian) để biện hộ cho những ưu đãi đặc biệt mà họ dành cho tiếng cười, thì trong thực tiễn sáng tác, họ lại trực tiếp kế thừa và phát triển lên một trình độ cao nhất truyền thống văn hóa trào tiếu dân gian Trung cổ.

Như đã nói ở trên, trong những thế kỷ Trung cổ, toàn bộ nền văn hóa trào tiếu dân gian vô cùng phong phú tồn tại và phát triển ở ngoài phạm vi của hệ tư tưởng chính thống và văn hóa chính thống. Nền văn hóa Trung cổ chính thống về bản chất là một nền văn hóa trang nghiêm một cách đơn điệu, trang nghiêm một cách giáo điều. Bản thân nội dung của hệ tư tưởng tôn giáo Trung cổ với vai trò chủ đạo của những phạm trù như tội lỗi và trừng phạt (của Chúa), đau khổ và kính sợ chúa (như con đường chuộc tội duy nhất), và bản thân tính chất của chế độ phong kiến được hệ tư tưởng ấy bảo trợ với những hình thức áp bức và đe dọa cực kỳ tàn bạo đã làm cho tiếng cười không có thể lọt vào bất cứ một lĩnh vực sinh hoạt chính thức nào của xã hội và con người. Nhưng cũng chính vì thế mà giáo hội và nhà nước phong kiến phải cho hợp pháp hóa tiếng cười ở ngoài những lĩnh vực ấy, tức là ở chốn chợ búa - quảng trường, trong các dịp hội hè và trong các sáng tác văn học mang tính giải trí - hội hè ấy.

Trong tiếng cười dân gian ấy, những yếu tố của một hệ ý thức mới, tiên tiến dần dần được nảy mầm. Nhưng bị thu hẹp trong phạm vi những hình thức văn hóa trào tiếu, bị phân tán dưới dạng các hoạt động hội hè, nghỉ ngơi và tiệc tùng cách biệt nhau như những “hòn đảo thời gian”, hoặc hòa tan trong cái bể ngôn ngữ hội thoại, những mầm mống mới ấy không thể nảy nở khắp nơi và thụ hoa kết quả. Muốn được thế, chúng phải xâm nhập được vào lĩnh vực sinh hoạt tư tưởng của xã hội. Quá trình ấy đã bắt đầu diễn ra từ thời kỳ cuối Trung cổ, và đến thời Phục hưng thì được hoàn thành.

Vào thời kỳ Phục hưng, lần duy nhất trong lịch sử, tiếng cười dân gian ở thể dạng cấp tiến nhất, bao quát thế giới nhất và đồng thời vui tươi nhất từ lòng sâu của văn hóa dân gian, cùng với ngôn ngữ dân gian, đã vươn lên chiếm lĩnh địa hạt tư tưởng - văn hóa thượng đỉnh của thời đại để góp phần quan trọng vào việc làm nên những kiệt tác văn học như “ Decamerone” của Boccaccio, “Don Quijote” của Cervantes, “Gargantua và Pantagruel” của Rabelais, bi kịch và hài kịch của Shakepeare và các tác phẩm khác. Ranh giới giữa văn học chính thống và văn học dân gian trong thời kỳ này tất yếu bị xóa bỏ, một phần vì trước kia ranh giới đó trùng hợp với ranh giới phân chia tiếng La tinh với các tiếng cười dân gian, mà từ thời Phục hưng trở đi thì không những văn học, mà cả một số lĩnh vực tư tưởng khác, cũng được sáng tác bằng các tiếng dân gian. Một loạt các nhân tố khác có liên quan đến quá trình tan rã của chế độ phong kiến - thần quyền Trung cổ cũng góp phần tạo điều kiện cho sự thẩm thấu và hòa lẫn các yếu tố chính thống và dân gian trong thời kỳ này.

Xâm nhập vào văn học Phục hưng, tiếng cười dân gian không những đã làm phong phú nền văn học ấy, và bản thân nó cũng được văn học Phục hưng làm cho phong phú thêm. Nó được kết hợp với hệ tư tưởng tiến bộ nhất của thời đại, với tri thức nhân văn, với nghệ thuật văn chương cao cường. Đạt tới mức phát triển tột đỉnh như vậy, tiếng cười Trung cổ không thể không thay đổi về bản chất. Tính toàn dân, cấp tiến, tự do, tỉnh táo và duy vật của nó từ dạng tồn tại hầu như tự phát đã chuyển sang trạng thái hoàn toàn tự giác và có xu hướng tư tưởng rõ rệt. Nói một cách khác, tiếng cười Trung cổ ở giai đoạn phát triển Phục hưng của nó đã trở thành biểu hiện của một ý thức lịch sử mới, đầy tinh thần tự do và phê phán.

Chính vì thế cho nên tiếng cười của Rabelais - tiếng cười đậm mầu sắc dân gian, nhưng đồng thời chứa đựng một nội dung rất uyên thâm - đã được công chúng đương thời (trong đó có các giới quần chúng nhân dân) hết sức tán thưởng. Ngay tập đầu của bộ tiểu thuyết của ông đã làm tên tuổi ông lừng lẫy khắp nước Pháp. Tất cả các nhà văn Pháp thế kỷ XVI thuộc thế hệ con em của Rabelais đều hấp thụ ảnh hưởng rất mãnh liệt của hệ thống hình tượng và bút pháp của ông. Nhưng đồng thời cũng ngay từ cuối thế kỷ XVI, công luận đã bắt đầu thay đổi ý kiến về Rabelais. Người ta bắt đầu coi ông (cũng như sau này coi Cervantes) chỉ như một nhà văn “lý thú” (plaisant), vui nhộn. Một số nhà văn nửa đầu thế kỷ XVII vẫn tiếp tục chịu ảnh hưởng của Rabelais, nhưng những hình tượng trào tiếu Rabelais từ nay bị sử dụng để phục vụ những mục đích châm biếm hoặc giáo huấn hẹp hoi. Đặc biệt yếu tố vật chất - xác thịt mất hẳn tính tích cực, tính hội hè không tưởng xưa kia và trở thành phương tiện miêu tả cuộc sống cá nhân vị kỷ thấp hèn.

Từ nửa cuối thế kỷ XVII, với sự ưu thắng tuyệt đối của mỹ học cổ điển chủ nghĩa, Rabelais trở thành nhà văn học cô đơn và kỳ dị, một nhà văn mà, theo như lời bình phẩm rất điển hình của La Bruyère (“Tính cách, hay là phong hóa của thời đại ngày nay”, 1688), người ta chỉ có thể coi như “một sự hòa lẫn quái đản luân lý tinh tế và cao siêu với những thói hư tật xấu bẩn thỉu”. Theo quan niệm của La Bruyère, “luân lý tinh tế” của Rabelais chính là tinh thần nhân văn, là những nhân vật, là những nhận xét về cuộc sống và con người mang tính khái quát và điển hình hóa mà người đọc có thể tìm thấy trong cuốn tiểu thuyết của ông. Còn “thói hư tật xấu bẩn thỉu” là các hình tượng cuộc sống vật chất - xác thịt, là cách ăn nói sỗ sàng kiểu chợ búa - quảng trường, là các hình thức pha trò bình dân - nói tóm lại là truyền thống văn hóa dân gian trong sáng tác của Rabelais. Truyền thống ấy đã bị coi là không thể dung hòa với nền văn chương “cao quý, tao nhã”. Từ đó mà nảy sinh ra ý đồ “thanh lọc”, “tu chỉnh” Rabelais. Ý đồ này lần đầu tiên được Voltaire nói lên và trong thế kỷ XVIII đã nhiều lần được các nhà xuất bản thực hiện. Năm 1732, Voltaire viết cuốn “Thánh đường của khiếu thẩm mỹ (“Temple du gout”), trong đó ông miêu tả một “thư viện của Thượng đế”. Tại thư viện này, hầu hết mọi cuốn sách của các nhà văn cổ đã bị các nữ thần nghệ thuật chỉnh lý và rút ngắn lại. Voltaire cũng dành cho tác phẩm của Rabelais một chỗ không lấy gì làm trân trọng lắm trong cái thư viện ấy, nhưng nó đã bị rút ngắn chỉ còn lại một phần tám. Sự “chỉnh lý”và cắt xén các sáng tác thời xưa như vậy rất tiêu biểu cho các nhà tư tưởng thế kỷ Ánh sáng, với thế giới quan cấp tiến, nhưng duy lý hẹp hòi phi biện chứng và phi lịch sử của họ. Tiếng cười dân gian nhị chức năng, hình tượng thế giới luôn luôn hình thành trong mâu thuẫn, luôn luôn chưa hoàn bị mà Rabelais khắc họa trong tác phẩm của ông không thể phù hợp với tinh thần của một thời đại, khi mà, theo nhận xét của Engels, ”lý trí phán đoán trở thành thước đo duy nhất của thực tại”.

Không được hiểu và không được đánh giá đúng ở thế kỷ XVII - XVIII, Rabelais từ đầu thế kỷ XIX, với sự ra đời của trào lưu nghệ thuật lãng mạn chủ nghĩa, được đưa lên một địa vị trân trọng chưa từng thấy. Các văn sĩ lãng mạn Pháp như Chataubriand và Hugo tôn sùng Rabelais như một trong năm sáu “thiên tài thân mẫu” (génies-mères) đã sinh đẻ và nuôi dưỡng tất cả các nhà văn lớn của châu Âu. Sự phát hiện ra Rabelais cũng như Shakespeare và Cervantes và đánh giá đúng giá trị lịch sử của họ là một cống hiến to lớn của các nhà văn lãng mạn. Nhưng những nhận định cụ thể về Rabelais của giới nghệ sĩ lãng mạn thì có nhiều điều sai lệch. Họ (đặc biệt là Victor Hugo) hiểu rõ tính phổ quát và chiều sâu thế giới quan của “tiếng cười Rabelais”, nhưng lại lý giải nó xuất phát từ đặc tính của tiếng cười chủ quan lãng mạn chủ nghĩa, mà không thâu tóm được nhân sinh quan thực thụ của Rabelais.

Từ nửa thế kỷ XIX, thân thế và văn nghiệp của Rabelais trở thành đối tượng để nghiên cứu khoa học có tính chất hệ thống. Năm 1903, ở Pháp được thành lập “Hội nghiên cứu Rabelais” (“La société des Études Rabelaisiennes”). Các học giả là hội viên của hội này do Abel Lefranc cầm đầu, đã cho in nhiều công trình khảo cứu có giá trị về Rabelais và thời đại của ông. Nhưng cái hệ trọng nhất, cơ bản nhất ở Rabelais - tức là tiếng cười của ông - lại ít được quan tâm đến. Các học giả thuộc trường phái Abel Lefranc chỉ coi tiếng cười như một hiện tượng thứ yếu, không dính dáng tới nội dung tư tưởng của tiểu thuyết “Gargantua và Pantagruel”. Theo họ thì đó chỉ hoặc là một cách tranh thủ độc giả bình dân, hoặc là một phương tiện ngụy trang tư tưởng để tự vệ. Thực ra, khoa học về Rabelais ở phương Tây cho đến nay vẫn chỉ nghiên cứu sáng tác của ông trong khuôn khổ hệ tư tưởng chính thống và văn hóa chính thống, mà không biết đến nền văn hóa trào tiếu dân gian và không thấy mối quan hệ khăng khít giữa thế giới của Rabelais và thế giới của nền văn hóa đó.


Chương hai: Ngôn ngữ chợ búa - quảng trường trong tiểu thuyết của Rabelais

Trước khi đi vào phân tích các hình tượng của Rabelais, ta hãy dừng lại một lát ở một đặc điểm văn phong thường gây khó chịu cho người đọc. Đó là tính khiếm nhã đặc thù của Rabelais. Như đã nói ở trên, Rabelais khiếm nhã một cách có hệ thống: Trong khắp cuốn tiểu thuyết trường thiên của ông, ta thấy nhan nhản những từ ngữ và thành ngữ thô tục mà trong các xã hội văn minh người ta không dùng không những trong văn chương, mà ngay cả trong sinh hoạt hàng ngày. Hãy tạm gọi chúng là ngôn ngữ chợ búa - quảng trường. Cái ngôn ngữ chợ búa - quảng trường ấy, ngay cả những người hâm mộ hoặc chuyên nghiên cứu Rabelais cũng cho là không phù hợp với chủ đề tư tưởng nghiêm túc và thâm thúy của tiểu thuyết “Gargantua và Pantagruel”, và vì thế mà nên được châm chước bỏ qua như một di sản không thể tránh khỏi của thế kỷ XVI “ngây thơ và thô bạo”.

Cách nhìn nhận vấn đề như vậy chẳng qua chỉ là một hình thức hiện đại hóa Rabelais, một sự hiện đại hóa dễ hiểu trong điều kiện, khi mà cùng với sự suy thoái của kiểu hình tượng nghịch dị hiện thực chủ nghĩa, cái khiếm nhã, cái tục đã mất đi ý nghĩa thế giới quan lớn và tính nhị chức năng cổ của nó và trở thành cái tục và cái dâm theo cách hiểu thông thường ngày nay, trở thành những hình tượng có tác dụng nhục mạ đơn thuần.

Hãy lấy một ví dụ đơn giản: ngôn ngữ dân tộc nào mà chẳng có những câu chửi thô tục như “ỉa vào” hoặc “ăn cứt”. Trong cuốn tiểu thuyết của Rabelais, cả tác giả lẫn các nhân vật đều rất hay dùng hai thành ngữ thô tục ấy, cùng với vô số thành ngữ và từ ngữ thô tục khác (nhiều khi Rabelais còn tự cấu tạo thêm nhiều từ tục mới). Con người ngày nay hầu như1 chỉ còn nghe thấy ở những lời mắng chửi như vậy một ý nghĩa thóa mạ thô bỉ. Nhưng trong quá khứ, trong hệ thống nền văn hóa dân gian trào tiếu từ thượng cổ cho tới thời Phục hưng, những hình tượng phóng uế và các chất phóng uế (phân, nước tiểu) đều mang tính nhị chức năng rõ rệt. Nói “ỉa vào” bao giờ cũng có nghĩa là chê bai, là rẻ rúng, là hạ thấp giá trị. Nhưng ngày xưa, chê bai, hạ thấp không phải là phủ định, bài bác hoàn toàn, mà là lôi hút xuống cái hạ tầng thân xác, nơi mà thân thể thụ thai và sinh nở ra thân thể mới, là hạ huyệt và tái sinh đổi mới cho cái bị chê, bị hạ thấp.

Có thể đưa ra nhiều ví dụ trong sáng tác dân gian và sáng tác của Rabelais chứng tỏ rằng môtíp phóng uế (phân, nước tiểu) trong hệ thống hình tượng của chủ nghĩa hiện thực nghịch dị là một môtíp vừa “tục” vừa “thanh”. Phân và nước tiểu là thể chất trung gian giữa thân xác con người và đất, giữa thân xác sống và thân xác chết, tức là thân xác đã trở thành chất bón cho đất. Phân cũng như xác người đã chết, làm cho đất thêm mầu mỡ, thêm phồn thực. Trong chủ nghĩa hiện thực kỳ dị, phân và nước tiểu là cái thể chất “hoan hỉ”, thể chất vừa thô bạo lại vừa hiền hòa, thể chất kết hợp cái chết với sự sinh sôi nảy nở cuộc sống mới dưới hình thức không đáng sợ nhất, quen thuộc nhất và khôi hài nhất.

Vì thế, cho nên trong các hình tượng phóng uế của Rabelais không thể có cái gì là thô bỉ, và vô sỉ cả. Ngay cả trong những trường hợp mà chúng được vận dụng với mục đích bài bác, đả phá những hiện tượng cụ thể riêng lẻ, chúng vẫn đồng thời phục vụ một mục tiêu khác, phổ biếng hơn và cốt yếu hơn. Cái mục tiêu ấy là hạ huyệt thế giới cũ và đồng thời đỡ đẻ cho thế giới mới. Bài bác cái cũ bằng hình tượng đái ỉa vào nó là một cử chỉ trào tiếu nhị chức năng chẳng khác gì động tác ném đất xuống nắp quan tài vừa mới hạ huyệt (ngày nay cũng rất phổ biến trong các tang lễ), hoặc gieo hạt giống xuống luống cày. Đối với nhà tư tưởng nhân văn chủ nghĩa như Rabelais, cái cần phải bài bác bằng tiếng cười để giúp cho cái mới nảy sinh và ưu thắng là toàn bộ thế giới Trung cổ “gôtích” với những thế lực và chân lý thống trị của nó, với những giá trị tinh thần giả dối và xa lạ với cuộc sống con người, với luân lý khổ hạnh và các hình thức răn đe áp bức bạo ngược. Cần phải hạ yết toàn bộ cái thế giới ấy, vật chất hóa và nhục thể hóa nó, biến nó thành một cái gì rẻ như bùn, như phân, tựa hồ như cậu hoàng tử Gargantua biến tất cả mọi vật xung quanh mình thành phương tiện chùi đít (quyển I, chương 13). Bằng cử chỉ sỗ sàng, nhưng nực cười ấy, nhân vật tí hon của Rabelais dường như xóa bỏ mọi quan hệ giả dối giữa các sự vật để kiến lập những quan hệ mới, phá tan trật tự thế giới cũ để trật tự thế giới mới được hình thành. Bị biến thành cái để chùi đít (tức là bị lôi hút xuống lòng đất), lòng cơ thể, vạn vật qua đó mà tái sinh và đổi mới, trở nên tốt đẹp hơn, phong phú hơn, gần gũi và hiền hòa với con người hơn.

Cái tục, cái khiếm nhã vì vậy tuyệt đối không dị đồng, không mâu thuẫn với tinh thần nhân văn của tiểu thuyết “Gargantua và Pantagruel”. Ngược lại, chúng là một bộ phận rất hữu cơ của hệ thống hình tượng và phong cách nghệ thuật của Rabelais. Cùng với những hình thức ăn nói bình dân khác mà trên kia đã được gọi là ngôn ngữ chợ búa - quảng trường: các lối thóa mạ, nguyền rủa, thề thốt, các cách rao hàng, chào hàng cổ truyền v.v. mà Rabelais vận dụng rất dồi dào và tài tình, chúng góp phần quan trọng tạo nên phong cách ngôn luận hết sức vui tươi, hết sức mạnh dạn, hết sức tự do và cởi mở. Phong cách ấy cần thiết cho Rabelais để xua tan “bóng tối Trung cổ”, để nói lên sự thật lạc quan về thế giới và con người.


Chương ba: Các hình thức và hình tượng hội hè dân gian trong tiểu thuyết của Rabelais

Hơn bất cứ một tác phẩm nào khác của văn học thế giới, cuốn sách vĩ đại của Rabelais chứa chan yếu tố hội hè. Tính hội hè, tính “đình đám”, tính “liên hoan thế giới” thấm sâu vào toàn bộ thế giới nghệ thuật của Rabelais, tạo cho nó một bản sắc khác hẳn với nền văn chương mang tính thường nhật, tính bình phàm của các thế kỷ sau này, nhất là thế kỷ XIX. Sức cảm hóa kỳ diệu của Rabelais là ở đây, nhưng nguồn gốc của nhiều sự hiểu lầm Rabelais cũng ở đây. Tinh thần lạc quan yêu đời, nhận thức rõ rệt về sự biến đổi liên tục của vạn vật, sự suy vong không thể tránh khỏi của cái cũ và tất thắng muôn thuở của cái mới, lý tưởng sung mãn toàn dân, tự do, bình đẳng, bác ái - tất cả những gì là cốt lõi của thế giới quan hội hè dân gian ngàn đời được Rabelais kế thừa và phát triển lên một trình độ cao nhất, trong bốn thế kỷ qua dưới hình thức này hoặc hình thức khác cũng không ngừng tiếp sức sống cho văn học châu Âu. Nhưng đồng thời trong điều kiện bản thân nền văn hóa hội hè dân gian bị suy thoái và không còn tác dụng trực tiếp tới sáng tác văn học dân gian nữa, nhiều hình tượng của Rabelais trở nên khó hiểu, khó cảm thụ. Người ta bắt đầu kiến giải chúng từ những hình tượng nhiều ý nghĩa thành những hình tượng đơn nghĩa, thuyên chuyển chúng từ bình diện hội hè sang bình diện sinh hoạt hàng ngày.

Hãy lấy một vài ví dụ, xưa nay không ít những ý kiến chê Rabelais chẳng những “dâm tục”, “vô xỉ”, mà còn “tàn ác”, “khát máu” nữa. Người ta ghê sợ thấy ông miêu tả với một vẻ khoái chí rõ rệt những cảnh giao chiến máu chảy đầu rơi, những trò chơi, trò nghịch ác tính thường gây ra án mạng của các nhân vật “láo lếu” như Panurge và thày dòng Jean và những nhân vật khác mà tác giả rõ ràng yêu mến. Ai mà chả biết sự tích “đàn cừu của Panurge” (quyển IV, chương 6 - 8). Ở quyển I, mở đầu cuộc chiến tranh với vua Pycrochole, thầy dòng Jean một mình giết chết 13.622 người vào phá phách vườn nho của tu viện. Bản thân Pantagruel, hiện thân của lý tưởng quân chủ hiển minh, đã đích thân dùng mưu thiêu sống một lúc 660 kỵ sĩ của Anarche (quyển II, chương 25), thiêu xong liền cho mở tiệc ăn mừng. Trong cuốn tiểu thuyết của Rabelais còn nhiều cảnh đánh đập, chém giết lẫn nhau khác nữa. Độc giả ngày nay và ngay cả nhiều nhà nghiên cứu Rabelais thường hiểu chúng một cách quá ngay thật, quá nghiêm túc và vì thế mà thấy khó hiểu, thấy ghê sợ trước thái độ đắc ý của tác giả. Người ta không thấy tính cách điệu và tính tượng trưng sâu rộng của mọi hình tượng đánh đập, chém giết trong tiểu thuyết của Rabelais. Hấp thụ một cách sâu sắc ảnh hưởng của nền văn hóa trào tiếu dân gian, Rabelais đã vay mượn tính cách điệu và tượng trưng ấy ở các hình tượng diễn trò trong các hội hè dân gian, đặc biệt là hội giả trang (carnaval). Trong hệ thống các hình tượng hội hè dân gian ấy, tất cả những hoạt động như mắng chửi, đánh đập, xấu xé, thiêu đốt đều có nội dung thế giới quan sâu rộng và đều nhằm hai mục tiêu, hai tác dụng. Người ta thóa mạ, đánh đập, xâu xé, thiêu đốt hết thẩy những gì cũ, già cỗi, lỗi thời, hoặc gây sợ, gây khiếp (ông vua hề, hình nộm mùa đông cũ, năm cũ, hình tượng tuổi già, hình nộm địa ngục v.v.) đề cho vạn vật hồi sinh và hồi xuân, cho cái mới chiến thắng. Trong nền văn hóa hội hè dân gian, mọi hình tượng đều kết hợp dưới một thể thống nhất các yếu tố đối lập, đều song thân, đều sinh đẻ lúc hấp hối, vì vậy đánh giết, xâu xé cái thân già nghĩa là đồng thời cũng cắt rốn cho cái thân trẻ, thân non. Tất cả những hình tượng đánh đập, chém giết trong tiểu thuyết của Rabelais đều mang tính chất như thế, đều được tác giả miêu tả như những trò diễn hội hè, trò diễn vui nhộn, nhưng đều có ý nghĩa. Tất cả những hành động đánh chửi, giết chóc trong tiểu thuyết của Rabelais đều không mang ý nghĩa sinh hoạt hàng ngày và không nhằm mục tiêu thanh trừ cá nhân thuần túy. Sau một nhân vật bi mắng chửi, bi đánh đập, bi chém giết là cả thế giới cũ với quyền lực và chân lý thống trị của nó. Cái quyền lực và chân lý thống trị ấy bao giờ cũng muốn duy trì vĩnh viễn địa vị thống trị của mình, và vì thế bao giờ cũng tuyệt đối hóa mình, bao giờ cũng mượn tên của “vĩnh cửu” để ngôn luận và hành động, bao giờ cũng đạo mạo, nghiêm nghị, bao giờ cũng ghét, sợ tiếng cười, tiếng chê. Chính vì thế cho nên Rabelais dùng tiếng cười hội hè toàn dân, cùng các hình tượng trào tiếu dân gian để hủy diệt chúng một cách không dung thứ cho những nhân tố mới của thế giới hình thành và lớn mạnh, cho chân lý mới về thế giới và con người ưu thắng. Tất cả các hình tượng của Rabelais, cũng như các hình tượng hội hè dân gian đều hướng về tương lai, đều “thao diễn” trước sự chiến thắng quá khứ bởi một tương lai không tưởng, một “thế kỷ hoàng kim” của sung mãn toàn dân, tự do, bình đẳng, bác ái.

Tinh thần không tưởng sâu sắc ấy trong thời đại Phục hưng được kết hợp chặt chẽ với một sự giác ngộ lịch sử mãnh liệt. Vào thời kỳ này, lần đầu tiên trong lịch sử, cùng với ý thức về sự già cỗi của trật tự thế giới hiện hữu, các bộ óc tiên tiến của thời đại cũng đồng thời nhìn thấy rõ khả năng và sự cần thiết xây dựng một trật tự thế giới hoàn toàn khác, đổi mới một cách cơ bản cuộc sống của muôn người. Muốn thực hiện mục tiêu đó, phải làm một cuộc cách mạng tư tưởng, cách mạng trí tuệ. Nhưng dựa vào đâu, tìm hậu thuẫn ở đâu để tiến hành một cuộc cách mạng như vậy? Căn cứ vào những biểu hiện bề ngoài, đa số các học giả phương Tây xưa nay vẫn nhấn mạnh quá mức vai trò và ảnh hưởng của văn hóa Hy Lạp - La Mã cổ điển. Nhưng thực ra, bản thân cái di sản văn hóa ấy đã bao thế kỷ bị lĩnh hội qua lăng kính của thế giới quan Trung cổ. Ngay để khám phá ra tinh thần nhân văn của nó, con người trước tiên đã phải giải phóng ý thức mình khỏi vòng cương tỏa nghìn năm của tư duy “gôtích”, phải chiếm lĩnh được vị trí đứng bên ngoài hệ tư tưởng chính thống và nền văn hóa chính thống.

Chỉ có nền văn hóa dân gian đương thời mới có thể làm hậu thuẫn thực sự vững chắc cho cuộc đấu tranh chống hệ tư tưởng chính thống và nền văn hóa chính thống Trung cổ ấy. Tất cả các nhà văn và nhà tư tưởng lớn thời Phục hưng đều hấp thụ ảnh hưởng trực tiếp và mãnh liệt của văn hóa trào tiếu dân gian và trước tiên là văn hóa hội hè. Trong tất cả các tác phẩm vĩ đại của văn học Phục hưng, ta đều cảm thấy rõ bầu không khí tự do đặc thù của hội giả trang, của đường phố ,quảng trường trong những ngày hội hè dân gian. Nhân sinh quan hội hè chi phối phương pháp sáng tác, phương pháp xây dựng hình tượng của hầu hết các tác giả Phục hưng, từ Boccaccio tới Shakespeare và Cervantes. Nhân sinh quan ấy giải phóng họ khỏi sức ức chế của hệ tư tưởng chính thống, cho phép họ nhìn nhận thế giới bằng con mắt hoàn toàn mới, không sợ hãi, không kinh tín, tuyệt đối tỉnh táo nhưng không bi quan tiêu cực, mà lạc quan tích cực vì thấy rõ yếu tố vật chất dồi dào của thế giới, quá trình hình thành và đổi thay của vạn vật, sự tất thắng muôn thuở của cái mới, tính bất tử của nhân dân, nhân loại. Những hình tượng hội hè dân gian trong tay các nghệ sĩ bậc thầy thời Phục hưng đã trở thành một công cụ thâu tóm hiện thực vô cùng hữu hiệu, đã tạo nên cốt lõi cho một chủ nghĩa hiện thức cỡ lớn, chủ nghĩa hiện thực không phải của “rác rưởi cuộc đời”, không phải của cuộc sống tĩnh tại, tản mạn và vô nghĩa, mà của cuộc sống trong vận động, trong sự vật lộn liên tục của các mâu thuẫn nội tại, trong tiến trình phức tạp, nhưng có phương hướng và ý nghĩa rõ rệt.

Thời kỳ Phục hưng có thể được gọi là thời kỳ “hội hè hóa” (carnavalisation) toàn bộ ý thức và tư duy con người, thời đại giải phóng con người khỏi uy lực của giáo điều, khỏi những nỗi khiếp đảm truyền kiếp, khỏi chất nghiêm nghị mù quáng và cứng nhắc để đặt cơ sở cho một thế giới quan mới, dọn đường cho một chất nghiêm nghị mới, tự do và tỉnh táo. Cuốn tiểu thuyết của Rabelais là một trong những biểu hiện rực rỡ nhất của quá trình “hội hè hóa” ý thức con người.

© 2005 talawas