trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 97 bài
  1 - 20 / 97 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Văn họcLý luận phê bình văn học
25.2.2005
Trần Thanh Đạm
Bài phát biểu quan trọng và cần thiết
 
Trong Hội thảo khoa học Lý luận văn học trước yêu cầu đổi mới và phát triển tại Viện Văn học (Hà Nội) ngày 25.11.2004, ông Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tư tưởng và Văn hoá Trung ương, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Phê bình Văn học Nghệ thuật Trung ương, đã đọc bài phát biểu Vươn tới những thành tựu lý luận mang tính khoa học và nhân văn, (đăng lại trên eVăn ngày 02.12.2004 và Văn Nghệ ngày 04.12.2004). Bài viết vừa đăng trên tạp chí Văn (Hội Nhà văn TP. HCM) tháng 1-2. 2005 sau đây của ông Trần Thanh Đạm đang gây dư luận, có lẽ vì trong sinh hoạt tinh thần tại Việt Nam hiếm khi những quan điểm của người lãnh đạo cao nhất trong lĩnh vực Tư tưởng-Văn hoá lại bị một nhà nghiên cứu đưa ra phê bình công khai như trong trường hợp này, dù những phê bình ấy đã được diễn đạt giảm âm và khéo léo. Đó có phải là một biểu hiện của sự dân chủ hoá sinh hoạt văn nghệ tại Việt Nam? Xin giới thiệu cùng độc giả.
talawas
Bước vào thế kỷ XXI, vượt qua nhiều khó khăn, trở ngại, sự nghiệp đổi mới của nước ta, dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tiếp tục có những tiến bộ mới, những thành tựu mới. Tình hình đó cũng thúc đẩy sự phát triển của văn hóa, văn học nghệ thuật của chúng ta theo chiều hướng tốt đẹp, lành mạnh hơn, đẩy lùi những mặt yếu kém, tiêu cực từng nảy sinh trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế - xã hội. Các nhà văn, nhà thơ của chúng ta đang không ngừng phấn đấu để có những tác phẩm tốt hơn, hay hơn, đáp ứng lòng mong đợi của người đọc, của nhân dân, xứng đáng với dân tộc, với thời đại, với lịch sử. Sự đổi mới văn học đòi hỏi sự đổi mới tương ứng của lĩnh vực lý luận văn học. Cùng với giới sáng tác, phê bình, giới lý luận cũng đang băn khoăn, trăn trở, cố gắng với tất cả nhiệt tình và trách nhiệm của mình. Lý luận văn học thể hiện ý thức và tư tưởng của văn học. Lý luận văn học Việt Nam là hệ ý thức, là hệ tư tưởng của văn học Việt Nam trong thời đại ngày nay. Sự đổi mới và phát triển của văn học Việt Nam ta trong giai đoạn lịch sử hiện tại không thể thiếu một sự đổi mới và phát triển của hệ thống lý luận của nó, thậm chí hệ thống lý luận này phải “đi trước một bước”, phải thực hiện sứ mệnh mà ta thường gọi là “lý luận tiên phong”.

Sau Hội nghị về Lý luận, Phê bình của Hội Nhà văn tháng 10 năm 2003 tại Tam Đảo, tiếp đến là sự thành lập Hội đồng Lý luận Phê bình Văn học Nghệ thuật Trung ương, các cuộc Hội thảo về phê bình rồi về lý luận do Viện Văn học chủ trì tại Hà Nội là những cố gắng theo hướng nói trên. Tại cuộc Hội thảo tháng 11-2004 vừa qua tại Hà Nội, đồng chí Nguyễn Khoa Điềm đã có bài phát biểu định hướng cho lĩnh vực quan trọng này. Do ở xa không trực tiếp tham dự Hội thảo và trực tiếp lắng nghe phát biểu của đồng chí, song tôi đã đọc toàn văn bài phát biểu trên mạng rồi trên Văn nghệ số 49 (ngày 4/12/2004). Tôi viết bài này xem như một sự hưởng ứng đối với bài phát biểu của đồng chí Nguyễn Khoa Điềm.

Có lẽ một điều có thể xem là “đổi mới” trong bài phát biểu nói trên là diễn giả không chỉ nói lên các ý kiến của mình với tư cách là nhà lãnh đạo mà còn với tư cách là một nhà thơ, bản thân là một người nghệ sĩ, ngoài các tư tưởng có tính cách chỉ đạo, còn có những ý tưởng riêng có tính cách cá nhân của một người trong cuộc. Chính điều này làm cho bài phát biểu bớt đi tính áp đặt mà tăng thêm tính gợi mở, khuyến khích sự suy nghĩ và thảo luận. Trong lý luận của chúng ta hiện nay, có lẽ nên bớt đi tính quyền uy không cần thiết mà tăng thêm tính thuyết phục qua trao đổi tự do, dân chủ. Và cũng chính vì vậy trong bài này, tôi viết những ý kiến đồng tình và cả những điều mà tôi nghĩ nên thảo luận thêm.

Ở cương vị một người có điều kiện nhìn xa trông rộng hơn người khác, diễn giả đã có những nhận định theo tôi là xác đáng, cần thiết trong tình hình lĩnh vực lý luận văn học còn bề bộn ngổn ngang hiện nay. Bên cạnh quan điểm của những người kiên trì những nguyên lý cũ được gán cho là “bảo thủ”, lại cũng có những người đổi mới một cách “cấp tiến” muốn hướng ngoại để phủ nhận, phê phán tất cả, diễn giả đã nhắc nhở: “Nói đến lý luận văn học phải bắt đầu từ thực tiễn văn học… không bắt đầu từ mảnh đất thực tiễn văn học thì lý luận chỉ là một mớ kiến thức nhập nội…”

Diễn giả cũng có những nhận định lạc quan một cách đúng đắn đối với “thực tiễn văn học” ấy. Đây là thực tiễn văn học Việt Nam, trước hết là tình hình sáng tác của văn học hiện đại và đương đại: “Bây giờ ta đã có đủ điều kiện để nói về một nền văn chương như là một mảnh đất màu mỡ, là nơi khơi nguồn cho một nền lý luận văn học. Chúng ta rất tự hào vì đất nước ta chưa phải là một đất nước giàu có nhưng chúng ta đã sớm có một nền văn chương tiếng Việt giàu có, phong phú và ngày càng hoàn chỉnh…”. Diễn giả đã khẳng định một sự thật lịch sử hiển nhiên, bác bỏ những mưu toan phủ nhận hay hạ thấp nền văn học dân tộc của chúng ta do tâm lý tự ti, tự hạ, thiếu niềm tin, tự trọng vào sức sáng tạo và tính độc đáo của văn học dân tộc, nhất là nền văn học yêu nước và cách mạng, chủ lưu và cao trào của văn học hiện đại và đương đại của chúng ta. “Trên thế giới không hiếm những quốc gia giàu có về tài nguyên (và có lẽ cả trình độ kinh tế và thu nhập quốc dân so với chúng ta – T.T. Đ) nhưng không thể sản sinh ra được một nền văn chương như vậy”. Quả thật như đồng chí nói, có thời chúng ta đã tự hào có một nền văn học tiên phong trong hàng ngũ các dân tộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc, trong phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Há rằng ngày nay chân lý đó không còn nữa và niềm tự hào đó đã lụi tàn đi?

Sự nhắc nhở này của đồng chí trong những ngày chúng ta đang kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, 60 năm Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng và chuẩn bị các ngày lễ lớn trong năm 2005 thật là kịp thời trên mặt trận tư tưởng văn hóa và văn học nghệ thuật.

Không những khẳng định văn học Việt Nam hiện đại, đồng chí còn khẳng định văn học Việt Nam truyền thống: “Tính đến nay chúng ta đã có một nền văn chương độc lập, tự chủ 10 thế kỷ (Nếu tính văn học dân gian và từ các di tích văn chương thành văn cổ đại, thì lịch sử văn học dân tộc ta còn lâu dài hơn). “Đó là nền văn chương đạt tới giá trị Chân – Thiện – Mĩ”. Quả là một lời đánh giá rất cao, khẳng định niềm tin vào văn học dân tộc, một bài học đích đáng cho những ai chỉ biết sùng bái, hâm mộ văn học nước ngoài mà miệt thị, coi thường văn học dân tộc là văn học mẹ đẻ của mình, mà mình đã sinh ra và lớn lên ở đấy.

Nhất quán với quan điểm của mình, xem thực tiễn văn học là khởi nguồn của lý luận văn học, diễn giả cũng khẳng định mạnh mẽ nền lý luận văn học dân tộc: “Gắn với nền văn chương đó là một nền lý luận văn học ưu việt, mang đến cho các nghệ sĩ sáng tạo và nhân dân ta một quan niệm văn chương đúng đắn… Chúng ta phải tin tưởng vào hệ thống lí luận văn học của chúng ta và không nên định kiến rằng lí luận là khô cứng, là thiên kiến.

Dù còn có thể phân vân ở chỗ này hay chỗ kia, song không thể nào không tán thưởng, đồng tình với những lời khẳng định tích cực, mạnh mẽ đó của người đứng đầu mặt trận tư tưởng văn hóa cũng như văn học nghệ thuật. Ở đây cũng như ở các lĩnh vực khác, cần bảo vệ các thành tựu và các giá trị tích cực của dân tộc và cách mạng để ra sức đổi mới chúng, không bảo vệ các thành tựu đó thì nói đổi mới là đổi mới cái gì? Không thể như một vài người hô hào: làm lại từ đầu, xây lại từ móng. Nghĩa là lật đổ tất cả để làm lại tất cả. Chúng ta chắc ai cũng thấy được cái gì đằng sau những lời hô hào “đổi mới” như vậy. Như có người nói: đó là sự “đổi mới” với trái tim lạnh và cái đầu nóng. Phải trái lại mới đúng. Phải là sự đổi mới của tình yêu và trách nhiệm, với trái tim yêu thương và cái đầu sáng suốt.

“Rõ ràng về mặt lý luận, chúng ta đã có những tiến bộ rất quan trọng, lâu nay chúng ta chưa chú trọng tổng kết, hội thảo (đúng ra có hội thảo mà chưa tổng kết cho nên thường có những phê phán và khẳng định phiến diện, chủ quan, thậm chí tùy tiện)”. “Mỗi kỳ hội thảo mà nói đến điều gì tốt đẹp thì cho rằng chúng ta đang giáo điều”. Thật là một lời nhận xét sắc sảo, xác đáng. “Cần phải phân tích một cách khách quan và thẳng thắn để thấy rõ chúng ta đã làm được gì và chưa làm được gì”. Tức là phải có quan điểm toàn diện, lịch sử, biện chứng. “Chúng ta đặt vấn đề làm sao vừa giữ vững và phát huy những thành tựu đã đạt được, vừa tiếp thu những tinh hoa của lý luận văn học thế giới. Đổi mới không phải là bỏ đi tất cả” (tất nhiên, đó là chủ nghĩa hư vô!). “Phải biết giữ lại những giá trị tốt đẹp, bổ sung và hoàn thiện hệ thống lý luận văn học trong điều kiện lịch sử mới và thực tiễn nghệ thuật mới”. Những chỉ dẫn đó, tôi nghĩ vừa là phương hướng vừa là phương pháp đổi mới lý luận của chúng ta, trong lý luận văn học cũng như trong các lĩnh vực khác.

Tôi xin phép trích dẫn hơi nhiều các luận điểm quan trọng trong bài nói của đồng chí Nguyễn Khoa Điềm vì sợ rằng một số người đọc nó có thể bỏ qua, chỉ chú trọng các chỗ phù hợp với “gu” đổi mới đặc biệt của mình mà thôi. Do cách nói có phía này, phía kia của diễn giả cho nên có khả năng nó được tiếp nhận theo kiểu phiến diện như vậy. Phải nói rằng các ý kiến tôi dẫn trên đây là dứt khoát, không có tính nước đôi gì cả. Nó là quan điểm chủ đạo của bài phát biểu này. Dĩ nhiên cũng có những chỗ diễn giả để ngỏ cách đặt vấn đề của mình cho sự trao đổi, thảo luận. Tôi lấy ví dụ như khi diễn giả lý giải những mặt yếu của lý luận văn học chúng ta, ông nói: “Đúng là lý luận văn học của chúng ta còn nhiều bất cập và thiếu hụt. Do hệ thống lý luận văn học này được sản sinh trong môi trường của các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, nên nó phải tập trung cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội mà phần nào bỏ quên hoặc tránh đi những đặc trưng văn học, những vấn đề rộng lớn của văn chương và của con người. Giống như khi chúng ta từ một ngôi làng bước ra thế giới mới thấy bao nhiêu vấn đề khác lạ hơn, đa dạng, phong phú hơn…”

Tôi cho rằng sự lý giải này có lẽ căn cứ vào chính nhận thức và kinh nghiệm, cả điều mà ông gọi là “học vấn” của bản thân mình từ đó suy ra cho cả nền lý luận văn học, cả đội ngũ các nhà lý luận, thậm chí cả các nhà văn và độc giả. Tôi nghĩ vấn đề phức tạp hơn và cần lý giải một cách kỹ càng chu đáo hơn, có quan điểm lịch sử đầy đủ hơn. Đúng là lý luận văn học của chúng ta trước đây chịu ảnh hưởng của các thành tựu lý luận văn học từ các nước xã hội chủ nghĩa anh em (trước hết là Liên Xô). Phải nói rằng đó là lý luận văn học của chủ nghĩa Mác – Lênin, của chủ nghĩa xã hội trải qua gần 100 năm đấu tranh và xây dựng với nhiều thành tựu quan trọng và dĩ nhiên với những vấn đề tồn tại. Song nói rằng lý luận văn học của ta sản sinh ra trong môi trường đó thì chỉ đúng có một phần. Nền lý luận văn học cũng như toàn bộ nền văn học của chúng ta chủ yếu sản sinh từ thực tiễn văn học của chúng ta. Điều này chính diễn giả đã nêu lên trước đó thành một nguyên lý, mà thực tế lịch sử đúng như vậy. Nó được sản sinh ra từ đường lối lý luận và thực tiễn của cách mạng dân tộc, dân chủ và xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam từ 1930 và sớm hơn, từ đầu thế kỷ 20, thể hiện trong các văn kiện của Đảng: Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Tố Hữu, qua các đại hội văn nghệ và đại hội nhà văn, các tác phẩm lý luận phê bình của các nhà văn, nhà thơ lớn của chúng ta trong thế kỷ 20 như: Hải Triều, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Đặng Thai Mai, Hoài Thanh… và các nhà lý luận ưu tú khác của chúng ta. Không phải “do nó phải tập trung cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội mà bỏ quên hoặc tránh đi những đặc trưng của văn học, những vấn đề rộng lớn của văn chương và của con người”. Có lẽ khó quan niệm một chủ nghĩa xã hội gì mà văn học tập trung cho thắng lợi của nó thì lại bỏ quên hoặc né tránh các vấn đề rộng lớn của văn chương và của con người?

Một thứ chủ nghĩa xã hội như vậy còn xứng đáng được gọi là chủ nghĩa xã hội được hay không? Quả là ở nước ta, trong điều kiện một nước thuộc địa nửa phong kiến phải tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ để tiến lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt trải qua hai cuộc kháng chiến thì phần nào có điều mà diễn giả nói, song chỉ phần nào thôi. Thực tế là ở nước ta làm gì đã tập trung được cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội? Chúng ta mới bước vào giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lại còn phải tập trung cho sự giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, “tất cả để đánh thắng đế quốc xâm lược” cho nên không thể phát triển và xây dựng một nền văn học như trong hoàn cảnh hòa bình, nhiều vấn đề của văn chương, của cuộc sống, của con người được đặt ra và giải quyết trong bối cảnh đó. Thế nhưng nói rằng chúng ta bỏ quên hay né tránh các vấn đề đó thì cũng không đúng. “Nay ở trong thơ nên có thép, nhà thơ cũng phải biết xung phong”, “Văn học nghệ thuật là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận đó”. Há đó không phải là những vấn đề rộng lớn của văn học, của cuộc sống và con người, không phải là những vấn đề trọng đại và của thực tiễn văn học và lý luận văn học hay sao? Nếu bỏ quên và né tránh thì làm sao có các thành tựu (sáng tác cũng như lý luận) của văn học Việt Nam đã góp phần vào đại thắng lợi của dân tộc trong thế kỷ 20? Tôi cho rằng lý giải các yếu kém thiếu hụt của lý luận văn học chúng ta như diễn giả đã làm là có phần hời hợt, sơ lược, chủ quan, không trên cơ sở một nhận thức lịch sử thật chu đáo, thận trọng. Đúng như nhiều ý kiến tại cuộc Hội thảo cũng như chính diễn giả đã nêu ra, trong lĩnh vực lý luận văn học cũng như các lĩnh vực lý luận khác, cần xây dựng cái mới trên cơ sở tổng kết, phân tích chu đáo các mặt làm được và chưa làm được, để đổi mới một cách đúng đắn, không nên phê phán tùy tiện, để đề xuất tùy tiện các phương hướng và giải pháp, không thể trên cơ sở phủ nhận công nhiên hay xuyên tạc các thành tựu quá khứ mà có thể xây dựng được những cái gì tốt đẹp cho tương lai. Tôi nghĩ bài học này có tính chất quốc tế mà chúng ta không thể không chú ý. Sự nghiệp đổi mới của chúng ta sở dĩ có thành tựu là vì đã biết bảo vệ thành tựu của quá khứ để đổi mới và phát triển chúng trong hoàn cảnh và điều kiện lịch sử mới, không thể bắt chước ai tìm cách thay đổi màu sắc “chủ nghĩa xã hội trước đây” mà có thể đạt được thành công. Kết cục của diễn biến hòa bình trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa là bạo loạn lật đổ trên lĩnh vực chính trị xã hội. Những người cầm cờ, cầm lái không thể mơ hồ trong nhận thức của mình về điểm này. Lịch sử thế giới hiện đại hai thập niên qua đủ để rút ra các bài học cần thiết.

Cũng trên cơ sở phân tích tổng kết đúng đắn kinh nghiệm lịch sử và thực trạng hiện nay của lý luận văn học, chúng ta mới giải quyết đúng đắn những vấn đề cơ bản cũng như cụ thể của lý luận văn học đang đặt ra trước chúng ta. Đối với các vấn đề này, chính thống mà nói chúng ta phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, làm kim chỉ nam cho lý luận văn học. Chúng ta có thể chấp nhận và tiếp thu rộng rãi các quan điểm lý luận văn học phi Macxit nếu nó có hạt nhân hợp lý có thể giúp vào việc làm giàu, mở rộng và phát triển lý luận của chúng ta, bởi vì lý luận Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh luôn luôn “nhịp bước cùng thời đại, cùng cách mạng, cùng khoa học, không phải là một mớ giáo điều”. Nó cũng sẵn sàng đối thoại, tranh luận một cách trung thực, thẳng thắn, xây dựng với các quan điểm phi Macxit, cùng nhau tìm tòi chân lý, cùng nhau tiến tới một nền lý luận khoa học, một nền văn học nhân văn. Song sự phát triển đó không phải là sự triệt tiêu, phá bỏ chính bản thân mình để thay thế bằng một hệ tư tưởng khác, một thế giới quan và một phương pháp luận khác. Ví như không thể đem chủ nghĩa duy tâm siêu hình thay cho chủ nghĩa duy vật biện chứng, đem chủ nghĩa hiện đại hay hậu hiện đại thay cho chủ nghĩa hiện thực tiên tiến và sáng tạo, đậm đà bản sắc Việt Nam [1] .

Tôi có thể lấy ví dụ từ các vấn đề do diễn giả gợi ra trong bài nói của mình. Ví như vấn đề quan hệ giữa nội dung và hình thức, trong vấn đề này, tôi cho rằng chúng ta cần phải có thái độ công bằng, thật thà. Diễn giả nói rằng: “Lâu nay trong quan hệ này, chúng ta chỉ chú trọng những mặt nội dung mà xem nhẹ yếu tố hình thức, như vậy là chúng ta mới thấy mặt xã hội của văn chương mà chưa thấy yếu tính của văn học là ngôn ngữ nghệ thuật”. Có lẽ diễn giả đã “vơ đũa cả nắm” khi dùng đại từ “chúng ta” ở đây, nếu nói “một số người chúng ta” thì còn nghe được. Đó là những kẻ cơ hội, giáo điều, thậm chí ngu dốt trong văn học nghệ thuật, chỉ chú trọng nội dung mà xem nhẹ hình thức, chỉ thấy một xã hội của văn chương mà chưa thấy văn chương là nghệ thuật ngôn từ. (Cái mệnh đề “yếu tính của văn chương là ngôn ngữ nghệ thuật” còn mơ hồ, chưa chính xác).

Diễn giả có thể dẫn chứng một vài luận điểm của “lý luận chúng ta” về sự lệch lạc nói trên được chăng? Cái thuật ngữ “xã hội học dung tục” chính là của các nhà lý luận văn học Macxit dùng để phê phán sự lệch lạc nói trên. Nửa thế kỷ qua, lý luận văn học của chúng ta không ngừng đấu tranh chống chủ nghĩa sơ lược, chủ nghĩa giáo điều, đồng thời chống chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa duy mĩ, đấu tranh cho sự thống nhất giữa nội dung và hình thức, tư tưởng và nghệ thuật trong sáng tác cũng như trong phê bình, giáo dục. Quả là đối với vấn đề này, lý luận của ta cần đi sâu hơn nữa để làm sáng tỏ: trong văn học, trong tác phẩm văn học, Nội dung là gì? Hình thức là gì? Sự thống nhất của hai mặt này là thế nào? Thực hiện nó như thế nào? Tiếp cận nó như thế nào? Tôi nhớ: đồng chí Phạm Văn Đồng từng yêu cầu văn nghệ phải phấn đấu để có giá trị cao 100% về nội dung tư tưởng và 100% về hình thức nghệ thuật. Mỗi cái đều 100% chứ không phải nửa này, nửa kia, hay coi trọng cái này, coi nhẹ cái kia. Ngay trong nhà trường, các nhà giáo dạy văn luôn ghi nhớ nguyên tắc về sự thống nhất này, ghi nhớ phải qua hình thức mà khám phá nội dung để làm cho giảng dạy văn học đúng với đặc trưng nghệ thuật của văn học. Dĩ nhiên thực hiện điều đó là cực khó song trong nhận thức lý luận không ai lệch lạc một cách đơn giản về điều này. Có lẽ do chưa nhận thức rõ về mặt lý luận cũng như thực tiễn trong truyền thống của chúng ta nên diễn giả đã tiếp cận các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp một cách siêu hình, tách rời máy móc nội dung và hình thức. Ông nói rằng: “Tôi rất mừng khi nhận thấy những dấu hiệu đổi mới về ngôn ngữ nghệ thuật ở sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Có người đã nói anh Thiệp đã viết những điều trước nay chưa ai viết. Tôi thấy điều ấy không quan trọng lắm. Về mặt nội dung, có những điều anh Thiệp sai, nhưng về mặt đổi mới ngôn ngữ nghệ thuật thì anh Thiệp lại là người có nhiều đóng góp. Đổi mới ngôn ngữ nghệ thuật là một vấn đề vô cùng quan trọng và cần thiết, không đơn giản là nội dung quyết định hình thức như lâu nay ta thường nói. Ở vào thời điểm mang tính chuyển đổi thì nhiều lúc hình thức lại mang tính cách mạng của nó”. Không cần phải là nhà lý luận uyên thâm gì cũng có thể thấy nhận định của tác giả về Nguyễn Huy Thiệp là không chính xác, là tách rời nội dung với hình thức, tách rời ngôn ngữ nghệ thuật với tư tưởng nghệ thuật. Tôi cho rằng cả những người thích Nguyễn Huy Thiệp lẫn những người không thích đều thấy rõ cái điều gây scandale của nhà văn này trước hết là ở nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của anh phục vụ cho nội dung tư tưởng đó. Sự “đổi mới” của Nguyễn Huy Thiệp là trên cả hai phương diện chứ không thể nói: nội dung sai, không quan trọng mà lại có đóng góp về ngôn ngữ nghệ thuật. Tôi không hiểu cái nghịch lý này thể hiện ở chỗ nào? Mọi “sáng tạo” về hình thức của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là để thể hiện những “sáng tạo” về phản ánh cuộc sống hiện thực và lịch sử theo quan điểm tư tưởng của tác giả. Há rằng “phi anh hùng hóa” một ông tướng về hưu, “phi thần tượng hóa” một anh hùng dân tộc. v.v… chỉ là đổi mới và đóng góp cho ngôn ngữ nghệ thuật hay sao. Ở Nguyễn Huy Thiệp, mặt sáng cũng như mặt tối, mặt đóng góp cũng như mặt phá hoại đều trên cả hai phương diện: nội dung và hình thức, tư tưởng và nghệ thuật, không thể phê phán cái này mà khẳng định cái kia. Cái mà diễn giả gọi là “tư duy biện chứng” không hề thấy ở đây. Không nói đến chuyện trong khi một số nhà văn, nhà phê bình lên án những ngôn luận xằng bậy của anh Thiệp đối với các văn hữu của mình trong Hội nhà văn Việt Nam thông qua các bài như: Trò chuyện với hoa thủy tiên, Mổ nhà văn, Tuổi 20 yêu dấu v.v… thậm chí xúc phạm đến cuộc kháng chiến của dân tộc, thì đồng chí Nguyễn Khoa Điềm hình như có ý muốn che chắn cho Nguyễn Huy Thiệp để tỏ ra mình “không can thiệp thô bạo vào các cuộc tranh luận học thuật” (!). Chỉ riêng về mặt lý luận văn học, về quan hệ nội dung và hình thức vận dụng vào, hay xuất phát từ thực tiễn sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp dù chỉ mang danh là “gợi ý” thôi cũng đã có điều chưa thỏa đáng. Tôi cho rằng ở đây Nguyễn Khoa Điềm phát biểu những ý kiến có tính chất cá nhân và chắc rằng có ý định “nêu vấn đề” để thảo luận và mình là “người nghệ sĩ có tư chất và thẩm quyền của mình”.

Cũng có thể tiếp cận với vấn đề tiếp theo mà diễn giả nêu ra cũng theo cách thức như trên. Ví dụ: vấn đề quan hệ giữa chủ quan của nghệ sĩ và thực tại khách quan. Diễn giả cho rằng: “lâu nay ta chưa xử lý tốt vấn đề này, nghĩa là chưa coi trọng chủ thể sáng tạo mà lý luận văn học hiện nay đặc biệt coi trọng. Người nghệ sĩ có tư chất và thẩm quyền của họ, không nên buộc họ lệ thuộc quá nhiều vào thực tại”. Dĩ nhiên quan niệm như vậy thì cũng đúng với tiền đề là “lâu nay ta chưa xử lý tốt”. Tôi cho rằng vấn đề cũng nên cân đối và biện chứng, tùy hoàn cảnh cụ thể để xử lý. Văn học là nhận thức, biểu hiện và sáng tạo chủ quan của nhà nghệ sĩ đối với hiện thực khách quan của con người, xã hội, thiên nhiên và lịch sử nhằm tiến tới chân, thiện, mĩ. Mọi nghệ sĩ có thể tự do lựa chọn ưu tiên của mình đối với mặt này hay mặt kia, hoặc cân đối cả hai mặt miễn là sáng tác thực tốt, thực hay. Các nhà lý luận phê bình thì không nên thiên lệch, bắt họ lệ thuộc quá nhiều vào thực tại cũng như lệ thuộc quá nhiều vào nội tâm. Người nghệ sĩ có tư chất và thẩm quyền của mình, tức là có quyền tự do sáng tác. Song người đọc và công chúng (trong đó có nhà phê bình, nhà lý luận) cũng có tư chất và thẩm quyền của mình, tức là quyền tự do phê bình. Người nghệ sĩ xuyên tạc sự thật, quảng bá cái ác, phô diễn cái xấu thì người đọc và công chúng có quyền phủ nhận, phê phán họ, thậm chí trừng phạt họ (bằng sự xa lạnh, thờ ơ hay khinh miệt chẳng hạn). Người nghệ sĩ không phải lệ thuộc quá nhiều vào thực tại, song tôi nghĩ, người nghệ sĩ chân chính nào cũng quan tâm đến con người và cuộc sống, có trách nhiệm đối với thực tại chứ không chỉ biết có tư chất và thẩm quyền của mình. Tôi trộm nghĩ lý luận văn học của chúng ta tôn trọng cao độ tài năng, cá tính, phong cách riêng của mọi nghệ sĩ, song không tán thành chủ nghĩa cá nhân cực đoan, chủ nghĩa khách quan hay chủ nghĩa chủ quan đều không đúng, đều phiến diện, tức là sai lầm.

Đặt vấn đề như trên cũng là đặt vấn đề giữa sáng tác và tiếp nhận. Tiếp nhận cũng như sáng tác là một vấn đề xã hội, tâm lý, nhân văn có quy luật của nó. Chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa cực đoan trong sáng tác cũng như trong tiếp nhận đều sai lầm. Đúng là ở đây cần phải có sự nghiên cứu cẩn thận, chu đáo, tránh sự tiếp nhận một cách tùy tiện, chủ quan, có khi xuyên tạc đối với văn học, hoặc để làm bình phong che chắn, bào chữa cho sự lưu hành các tác phẩm dở, xấu, giả, tránh né các sự phê phán lành mạnh, tỉnh táo của công chúng, của dư luận, xem đó là “không đúng với lý thuyết tiếp nhận”. Về vấn đề này, theo tôi, nên đặt vấn đề lý thuyết tiếp nhận như là mặt bên kia của lý luận sáng tác; sáng tác và tiếp nhận văn học nghệ thuật đều là những quá trình tâm lý – xã hội – thẩm mĩ và trung tâm là tác phẩm – thành quả của sáng tác và đối tượng của tiếp nhận. Cũng như hình thức không thể tách rời khỏi nội dung, tiếp nhận không thể tách rời khỏi sáng tác. Biệt lập cái này với cái kia để nghiên cứu thì cũng có thể được, song phải đề phòng sự phiến diện, sự cực đoan. Theo tôi đó là nhược điểm của lý thuyết tiếp nhận được lưu hành ở phương Tây. Nếu nó gắn với chủ nghĩa hậu hiện đại, hậu cấu trúc (lý thuyết giải cấu - déconstruction) thì không tránh khỏi sai lầm mà nhiều nhà lý luận văn học của phương Tây cũng phê phán.

Vấn đề quan hệ giữa văn nghệ và chính trị cũng cần được lý giải một cách biện chứng và lịch sử, được xem xét một cách cụ thể. Diễn giả không sai khi nói rằng: “Cần tránh khuynh hướng cực đoan khi xem xét văn học chỉ như một sáng tạo nghệ thuật thuần túy và văn học chỉ như một vũ khí chính trị”. Thế có nghĩa là có nhiều trường hợp có những tác phẩm vừa là công trình nghệ thuật kỳ tài vừa là một vũ khí chính trị sắc bén. Ngược lại cũng thế. Như chúng ta đều biết, nhiều khi vô chính trị, phi chính trị (hoặc giả vờ, hoặc cố ý) cũng là một thái độ chính trị. “Văn hóa nghệ thuật không ở ngoài mà ở trong kinh tế và chính trị” (Hồ Chí Minh). Thiết tưởng về nguyên lý vấn đề này không có gì phải đặt đi đặt lại mãi. Cứ nhìn vào nước ta và rộng ra trên thế giới, đây là một sự thật hiển nhiên, chỉ những người nhắm mắt hoặc mờ mắt mới không trông thấy sự thật hiển nhiên đó. Có thể nói cuối thế kỷ XX sang đầu thế kỷ XXI, ở nước ta cũng như trên thế giới chưa bao giờ văn học và chính trị rời xa nhau nửa bước, chỉ những kẻ tự lừa dối mình hoặc lừa dối người khác mới không trông thấy hoặc giả vờ không trông thấy. Khẩu hiệu của Hội Nhà văn Việt Nam và của báo Văn Nghệ là: “Vì Tổ quốc, vì Chủ nghĩa xã hội” là một cam kết chính trị trung thực, thẳng thắn và đẹp đẽ. Theo tôi, đó là ngọn cờ chính trị và chính nghĩa của văn học Việt Nam hiện đại, của các nhà văn và các nhà lý luận, phê bình văn học có ý thức, có lương tâm của đất nước Việt Nam trong thời đại đầy biến động ngày nay.

Thực tiễn đã và đang cho thấy: lĩnh vực lý luận văn học nghệ thuật là một trận địa đấu tranh tư tưởng và chính trị rất phức tạp và tinh vi. Tôi nghĩ, đối với dân tộc ta, đất nước ta, các thế lực thù địch chưa từ bỏ âm mưu phá hoại và lật đổ, mang cuồng vọng thủ tiêu các thành quả của cách mạng Việt Nam được trả giá bằng bao nhiêu xương máu, mồ hôi, nước mắt của hi sinh, phấn đấu. Con đường tái xâm lược, tái can thiệp vũ trang chúng biết không phải dễ dàng đối với một dân tộc đã làm nên Điện Biên Phủ trên đất, Điện Biên Phủ trên không, làm nên chiến thắng 30 -4 vĩ đại. Con đường hi vọng là “diễn biến hòa bình” phản cách mạng, tiến tới bạo loạn, lật đổ chính quyền nhân dân, xâm phạm chủ quyền dân tộc của chúng ta, tiến hành những cuộc cách mạng nhung” nham hiểm và độc ác. Mưu mô này khởi đầu từ trận địa văn hóa, tư tưởng, trong đó có văn học nghệ thuật, truyền bá và thẩm thấu các quan niệm sai trái về nghệ thuật, nhân danh cái đẹp mơ hồ, trừu tượng để ngụy trang sự lừa dối, cái ác, cái xấu, nhằm làm hủ bại đạo đức, tư tưởng của chúng ta và con cái chúng ta. Đây là một “làn sóng đen” có thanh thế quốc tế rất lớn, tập hợp và làm sống lại mọi thứ rác rưởi của chủ nghĩa chống cộng đủ mọi màu sắc tích lũy được trong suốt thế kỷ XX, từng bị đẩy lùi nhiều lần nay thừa cơ ngóc đầu dậy với tất cả giọng điệu hung hăng, ngang ngược, trắng trợn có tính cách phục thù. Thắng lợi buổi đầu của sự nghiệp đổi mới của chúng ta khi bước sang thế kỷ XXI chưa xóa bỏ được 4 nguy cơ đã được cảnh báo: tụt hậu, chệch hướng, suy thoái và diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ. Nguy cơ cuối cùng là cao điểm và tổng hợp của cả 4 nguy cơ. Văn học nghệ thuật bao giờ cũng là phong vũ biểu của tư tưởng chính trị. 30 năm hậu chiến, 20 năm đổi mới không làm phai mờ mà càng làm hiển lộ quy luật đó của sự phát triển văn học nghệ thuật cũng như lĩnh vực lý luận của nó trên thế giới và ở nước ta. Ý kiến này có thể gây “sốc” ở một số người song nó là thẳng thắn và thành thực.

Bài phát biểu của đồng chí Nguyễn Khoa Điềm, trong giới hạn và mức độ của nó, là một đóng góp quan trọng và cần thiết cho tiến trình đổi mới lý luận văn học và đổi mới văn học nghệ thuật của ta nói chung. Nó đã đặt ra được những cơ sở của sự đổi mới đúng hướng cho lý luận văn học, chấn chỉnh những quá khích, cực đoan, sai lầm, nêu những vấn đề cần tiếp tục tìm tòi, nghiên cứu, thảo luận. Tư duy, nhận thức của một người dù ở cương vị lãnh đạo đi nữa cũng có hạn. Cần có trí tuệ sáng suốt, tri thức phong phú của tập thể các nhà lý luận văn học thiết tha với sự nghiệp đổi mới chân chính của đất nước ta, để phù trì cho một cuộc phục hưng dân tộc về mọi mặt mà tất cả mọi thế hệ người Việt Nam đều trông mong sau một thế kỷ đầy đau thương và phấn đấu.

12-2004




[1]Tôi không sử dụng thuật ngữ Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, xem đây là một đặc sản Nga, song tôi không phủ nhận nó bằng cách xuyên tạc nó mà bằng quan niệm đây là một phạm trù, một hệ thống mềm và mở luôn luôn phát triển và đổi mới cùng lịch sử văn học. Hãy trở về với định nghĩa rộng rãi, sâu sắc và cao đẹp của người sáng lập nó – đại văn hào Maxim Gorki: “Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa khẳng định cuộc sống như là hành động, như là sáng tạo mà mục đích là phát triển không ngừng những năng lực cá nhân quý giá nhất của con người, vì thắng lợi của con người trước các lực lượng của thiên nhiên, vì sức khỏe và tuổi thọ của họ, vì hạnh phúc lớn lao của họ trên trái đất mà họ muốn vun xới toàn bộ theo sự phát triển không ngừng những nhu cầu của mình, trái đất như là một ngôi nhà tuyệt đẹp của cả nhân loại liên hiệp với nhau thành một đại gia đình”. (M.Gorki, Văn học Xô Viết, Báo cáo tại Đại hội Nhà văn Xô Viết lần I, 17 – 8- 1934; toàn tập, tập 27, tr.330 – tiếng Nga). Đây là một đoạn văn rất hay, rất tiếc các bản dịch tiếng Việt đều chưa truyền đạt hết được vẻ đẹp và chất thơ của nó trong tiếng Nga.
Nguồn: Văn, tạp chí sáng tác nghiên cứu lý luận phê bình văn học nghệ thuật của Há»™i Nhà văn TP. HCM, số 21 (Bá»™ má»›i tháng 1 – 2.2005)