trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 235 bài
  1 - 20 / 235 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Ngôn ngữ
19.3.2005
Lê Mạnh Chiến
Hai quyển từ điển rất có hại cho tiếng Việt
8 kỳ
 1   2   3   4   5   6   7   8 
 
II. Giảng đúng nghĩa của các từ tố, nhưng giảng sai nghĩa của từ

Nêu đúng nghĩa của các từ tố gốc Hán là một việc không đơn giản. Tuy nhiên, đối với một số từ tố gốc Hán đã quá quen thuộc với người Việt Nam thì nhiều người không biết chữ Hán vẫn có thể giải nghĩa đúng. Dưới đây là một số từ mà soạn giả đã nêu tương đối đúng nghĩa của các từ tố nhưng lại giảng sai nghĩa của từ hoặc không nêu được nghĩa mở rộng mà vốn lại là nghĩa chủ yếu của từ ấy. Soạn giả đã không đính chính được cách hiểu sai trong dân gian mà chỉ dựa theo cách hiểu sai ấy để nêu ra định nghĩa các từ.


1. âm đức 陰德

Theo soạn giả, âm là trái với dương, là nữ, là âm phủ, là ngầm, kín; đức nghĩa là đạo đức; và, âm đức nghĩa là ảnh hưởng đạo đức của tổ tiên đối với con cháu. Chúng tôi rất nghi ngờ định nghĩa này nên đã xem lại các từ điểnTừ nguyênTừ hải thì được biết rằng, âm đức cũng đồng nghĩa với âm công, nghĩa là công đức tốt đẹp nhưng kín đáo, không ai biết, chỉ có thần thánh biết mà thôi. Như vậy, âm đức không phải là ảnh hưởng đạo đức của tổ tiên đối với con cháu, như soạn giả đã định nghĩa.


2. bình sinh 平生

Bình sinh 平生 nghĩa là cả cuộc đời, là suốt đời. Theo soạn giả, bình bình thường, sinhsống, và, từ bình sinh có hai nghĩa: 1) trong cuộc sống hàng ngày; 2) sức sống vốn có. Thực ra, từ tố sinh ở đây có nghĩa là đời sống, là cuộc sống chứ không phải là sống. Khi nêu định nghĩa về từ “bình sinh”, định nghĩa thứ nhất tuy chưa đúng hẳn nhưng còn tạm được, định nghĩa thứ hai thì không đúng, mà chỉ là sự gán ghép chủ quan của soạn giả.


3. bố y 布依

Bốvải, yáo, soạn giả đã giải thích đúng hai từ tố này. Nhưng ông định nghĩa rằng, bố y = áo vải, người mặc áo vải thì chưa được. Ðịnh nghĩa như thế tuy không sai nhưng không đạt, vì chưa nói đến nghĩa mở rộng của từ này, mà nghĩa đó mới là nghĩa chính. Tôi đã có lần hỏi một số sinh viên về nghĩa của nhóm từ “người mặc áo vải” nhưng các em đều không trả lời được. Vậy, phải chỉ rõ thêm rằng, bố y nghĩa là thường dân hoặc như người ta thường gọi đùa là “phó thường dân” vậy.


4. cấm cung 禁宮

Soạn giả cho biết: cấm = không cho làm; giam; chỗ vua ở, và: cung = cung điện. Như vậy, các từ tố đều được giảng đúng nghĩa. Nhưng, có lẽ ông nghĩ rằng, nghĩa cụ thể của từ tố cấm ở đây giam (chứ không phải là nơi vua ở) nên đã đi đến định nghĩa về từ cấm cung: Nói về người thiếu nữ trong gia đình phong kiến luôn luôn phải ở trong phòng the, không được ra ngoài. Nếu quả như vậy thì ta chỉ cần định nghĩa rằng, cấm cung = giam hãm trong cung điện. Nhưng từ này không có nghĩa như thế. Ở đây, cấm nghĩa là chỗ vua ở, (như trong các từ cấm thành, cấm binh, cấm uyển...), cho nên, cấm cung hoặc cung cấm đều có nghĩa là cung điện của vua. Nghĩa của từ cấm cung như soạn giả đã nêu chỉ tồn tại trong khẩu ngữ dân gian. Người soạn từ điển không được phép coi đó là nghĩa đúng và nghĩa chính, mà chỉ có thể nêu thêm có kèm theo ghi chú.


5. củ hợp 糾合

Tuy đã cắt nghĩa các từ tố tương đối đúng, rằng: củ = sửa lại, kết hợp lại, xem xét; và, hợp = hợp lại; nhưng, lạ thay, «củ hợp» thì được định nghĩa là «tụ tập lại để làm điều bất chính» (!). Ðây chính là nghĩa của từ «cẩu hợp» 苟合, trong đó, «cẩu» 苟 nghĩa là qua loa, tạm bợ, như trong từ «cẩu thả» 苟且. Củ hợp nghĩa là tập hợp, là tụ hợp chứ không hề đồng nghĩa với cẩu hợp. Về từ tố hợp, ta nên nói rằng, hợp nghĩa là góp lại thì hay hơn.


6. Ðịa Trung Hải 地中海

Ðịađất, là lục địa; trungở trong, ở giữa; hảibiển. Ðịa Trung Hảibiển ở trong lục địa. Chẳng cần phải học hành gì nhiều thì ai cũng biết như thế. Tuy nhiên, từ này đã trở thành tên riêng để chỉ một biển cụ thể, có diện tích 25 triệu km2, nằm ở phía nam Châu Âu, phía bắc Châu Phi, phía tây Châu Á, thông với Ðại Tây Dương qua eo biển Gibraltar và thông với Biển Ðỏ qua kênh đào Suez. Ðiều đáng ngạc nhiên là, sau khi giải thích rằng, Ðịa Trung Hải là biển ở giữa lục địa, soạn giả đưa ra một câu ví dụ: Biển Caxpiên của Liên xô là một địa trung hải. Như vậy, ông đã không định nghĩa được từ Ðịa Trung Hải, lại còn dùng từ này như một danh từ chung, với nghĩa là cái hồ lớn! Ngoài ra, nói rằng, biển Caxpiên của Liên Xô thì cũng chưa đúng, vì ngay cả khi Liên Xô chưa tan rã thì biển này có một phần thuộc chủ quyền của nước Iran, với diện tích 43 200 km2


7. hậu phi 后妃

Soạn giả giải thích rằng, rằng, hậuvợ vua, phi cũng là vợ vua, và hậu phi cũng là vợ vua rồi đưa ra một câu để minh hoạ: Lịch sử khen bà hậu phi của vua Lý Thánh Tông là người đàn bà giỏi việc nước. Nêu thí dụ như vậy là càng tỏ ra không hiểu từ này, bởi vì hậuvợ chính của vua, phivợ thứ của vua (hoặc vợ chính của thái tử), dưới hậu một bậc. Hậu phi là một danh từ tập hợp, chỉ chung đám vợ lớn vợ bé của vua chứ không chỉ riêng một bà vợ nào cả.


8. hoa liễu 畫柳

Ở đây, hoa nghĩa là bông hoa, liễu nghĩa là cây liễu. Soạn giả đã nêu đúng nghĩa của hai từ tố này. Nhưng, nói rằng, hoa liễu là bệnh lậu hoặc bệnh giang mai thì không đúng. Thực ra, các bệnh kể trên được xếp vào nhóm bệnh hoa liễu, còn từ “hoa liễu” không phải là tên một bệnh, nó được dùng như tính từ để chỉ một nhóm bệnh liên quan đến tệ nạn mại dâm. Hoa liễu là hoa và liễu, vốn dùng để chỉ đàn bà con gái mảnh mai xinh đẹp, về sau lại có nghĩa là chuyện bướm ong trai gái, như trong các thành ngữ “tầm hoa vấn liễu”, hay “liễu ngõ hoa tường”, v.v., và cuối cùng là chỉ gái mại dâm. Các từ điển tiếng Việt từ năm 1954 về trước (cả ở Sài Gòn trước năm 1975) và tất cả các từ điển chữ Hán từ xưa đến nay đều định nghĩa như thế.


9. linh sàng 靈床

Linhthiêng liêng, là liên quan đến người chết; sàngcái giường. Các từ tố này đã được soạn giả giải nghĩa đúng. Nhưng ông đã phạm sai lầm nghiêm trọng khi cho rằng, linh sàng là giường thờ người mới chết chưa đem chôn. Nếu như vậy thì phải chăng ông cũng nghĩ rằng, ở hai câu trong Truyện Kiều:

Sang nhà cha, tới trung đường,
Linh sàng bài vị thờ nàng ở trên. 

Nguyễn Du đã không hiểu từ “linh sàng »? Thật ra, chỉ có soạn giả không hiểu, chứ Nguyễn Du thì hiểu từ này quá chính xác. Từ «linh sàng» có hai nghĩa: 1) giường đặt thi thể người chết khi đám tang; 2) cái bàn nhỏ đặt trước bàn thờ, làm “chỗ nghỉ” cho linh hồn người chết khi chưa hết tang. Trong câu thơ trên đây, “linh sàng” mang nghĩa thứ hai.


10. linh xa 靈車

Các từ tố “linh” và “xa” (linh là liên quan đến người chết, xa là cái xe) đều được soạn giả hiểu đúng. Song, phải chăng, linh xa là « kiệu dùng để rước linh hồn người chết trong đám ma theo phong tục cũ », như ông đã dạy? Hoàn toàn không phải như vậy. Linh xa là chiếc xe chở quan tài hoặc chở hộp đựng hài cốt của người chết để đưa đi chôn.


11. long nhãn 龍眼

Rất nhiều người hiểu lầm rằng, long nhãn nghĩa là cùi nhãn phơi khô. Soạn giả quyển từ điển này cũng hiểu lầm như thế. Thực ra, trong tiếng Hán, long nhãn 龍眼, mà âm phổ thông Trung Quốc là longyan (long 龍 là rồng, nhãn 眼 là mắt) là quả nhãn hoặc cây nhãn. Từ này đã được du nhập vào tiếng Anh để có từ “longan” nghĩa là cây nhãn hoặc quả nhãn. Tương tự như vậy, người Pháp gọi quả nhãn là longane và cây nhãn là longanier, cũng bắt nguồn từ “long nhãn” trong tiếng Hán. Các sách Ðại Nam quốc âm tự vị (của Huỳnh Tịnh Của) và Hán Việt từ điển (của Ðào Duy Anh) đều nêu đúng nghĩa của từ long nhãn. Có lẽ vì trong thuốc bắc có vị “long nhãn” mà người ta thấy đó là cùi nhãn nên cứ tưởng “long nhãn” nghĩa là cùi nhãn mà quên rằng, “long nhãn” chính là quả nhãn (hoặc cây nhãn). Soạn giả chỉ tiếp thụ được cách hiểu trong dân gian chứ không đọc được chữ Hán nên thường hay phạm phải những cái sai kiểu này.


12. nhân chứng 人証

Có lẽ chẳng cần giải thích thì ai cũng biết rằng, nhânngười, chứngbằng chứng, là chứng cứ. Nhưng hiện nay, rất nhiều người, trong đó có soạn giả, đã không phân biệt được hai từ nhân chứngchứng nhân. Họ hiểu rằng, nhân chứng hay chứng nhân cũng đều có nghĩa là người làm chứng. Chứng nhân thì dĩ nhiên nghĩa là người làm chứng rồi. Còn nhân chứng thì có nghĩa là bằng chứng do con người đưa ra. Cùng với nhân chứng, còn có vật chứng là chứng cứ thể hiện trên các vật thể. Thí dụ, bọn trộm cướp dùng búa đập cửa để vào một nhà hàng lấy của, cái cửa bị chúng đập vỡ bởi những nhát búa chính là vật chứng, nhiều người hàng xóm cho biết rằng, họ nghe tiếng búa nện vào cửa rất mạnh lúc ba giờ sáng, thì việc đó là nhân chứng, và chính các ông hàng xóm là những người làm chứng, họ là những chứng nhân.


13. nhũ danh 乳名

Nhũ, là sữa, là cho bú; danhtên. Soạn giả đã hiểu đúng nghĩa của các từ tố. Ðiều khiến chúng tôi rất ngạc nhiên là, ông đã định nghĩa rằng, nhũ danh là tên của phụ nữ đặt khi mới đẻ. Ðịnh nghĩa này khiến người đọc phân vân, không rõ có phải là người phụ nữ khi đẻ con thì được đặt một cái tên khác, hay là khi người phụ nữ mới ra đời (lẽ ra phải nói, khi em bé gái mới ra đời) thì được cha mẹ đặt cho một cái tên, gọi là nhũ danh? Nhưng khi thấy ông nêu ra một ví dụ quá cụ thể: bà Nguyễn Ðức Nguyên, nhũ danh là Phan Thị Nga, thì chúng tôi hiểu rằng, bà này chỉ có một nhũ danh, mặc dầu bà có nhiều con, vậy thì nhũ danh phải là tên được đặt cho bà khi bà vừa mới ra đời. Và, phải chăng chỉ riêng phụ nữ mới có nhũ danh? Ðể trả lời câu hỏi này, chúng tôi đã giở từ điển Từ nguyên ra xem và được biết rằng, nhũ danhtên đặt cho trẻ sơ sinh. Khi đứa trẻ đi học thì được thầy giáo đặt cho một tên khác, gọi là huấn danh hoặc học danh. Như vậy là, ai ai cũng đều có nhũ danh. Ðịnh nghĩa do soạn giả nêu ra vừa sai vừa dễ gây hiểu lầm, hoàn toàn không đạt yêu cầu.


14. quan ngại 關礙

Quan là cửa ải, là đóng cửa; ngạingăn trở. Các từ tố này đã được soạn giả hiểu đúng. Nhưng, soạn giả lại định nghĩa rằng, quan ngại là e ngại vì có khó khăn thì không đúng. Quan ngại nghĩa là trở ngại, là cản trở. Tất cả các từ điển chữ Hán của Trung Quốc hiện nay và các từ điển Hán Việt từ trước đến nay đều giải nghĩa như thế. Từ điển Hán Việt của Nguyễn Quốc Hùng do Nhà sách Khai trí phát hành ở Sài Gòn cuối tháng 4 năm 1975 cũng giải nghĩa như thế. Nhưng ở nước ta hiện nay, rất nhiều người đã hiểu sai và dùng sai từ này. Có quyển từ điển giải thích rằng, quan ngại tức là quan tâm và lo ngại. Nếu cho rằng, từ “quan ngại” đã được “Việt hoá” với nghĩa là “e ngại vì có khó khăn” hoặc “quan tâm và lo ngại” thì người biên soạn từ điển cũng vẫn phải giải thích đúng nghĩa vốn có của nó.


15. tê giác 犀角

Loài thú da dày mà nhiều người gọi nhầm là tê giác (trong đó có soạn giả) có tên là 犀 hoặc tê ngưu 犀牛.Tê giác 犀角 nghĩa là sừng tê (hoăc sừng tê ngưu). Nhiều người quen gọi con vật này là con tê giác, lại gọi sừng của nó là sừng tê giác thì không đúng, vì « giác » đã là sừng rồi. Hiện nay, hầu như mọi người ở nước ta đều quen dùng từ “tê giác” để chỉ con tê ngưu, còn cái sừng của con vật này thì gọi là “sừng tê giác”. Sự dùng từ sai như vậy rất cần sửa chữa. Người soạn từ điển phải giúp mọi người hiểu từ ngữ cho đúng chứ đâu phải chỉ biết chép lại cách hiểu sai của nhiều người.


16. tự điển 字典

Ðịnh nghĩa rằng, tự điển là sách từ điển xếp theo chữ như chữ Hán (như soạn giả đã làm) hẳn là quá mù mờ. Những người biết chữ Hán bao giờ cũng phân biệt rất rõ tự điểntừ điển. Ðối với các hệ thống chữ viết không biểu âm (tức là gồm các con chữ không thể hiện được cách đọc, ví dụ như chữ Hán) thì việc nhận dạng các con chữ cùng với âm và nghĩa tương ứng của chúng là điều rất quan trọng, và tự điển được soạn ra để giải quyết việc đó. Tự điểnmột loại sách công cụ, lấy “đơn tự” (tức là chữ đơn) làm đơn vị, được sắp xếp theo một trật tự nhất định, cho phép nhận dạng chúng và cũng cho biết cách đọc, nghĩa và cách sử dụng của chúng.



II. Ðoán mò hoặc bịa ra nghĩa của các từ tố vì không biết “mặt chữ”

Ðối với phần lớn những từ Việt gốc Hán, mọi người Việt Nam đều có thể hiểu đúng và định nghĩa rất đúng nhờ quá trình học hỏi và sử dụng tiếng Việt hoặc nhờ các cuốn từ điển tiếng Việt có chất lượng tốt. Nhưng muốn giảng nghĩa các từ tố cho thật chính xác thì khó hơn nhiều và phải sử dụng những bộ từ điển chữ Hán có dung lượng lớn hơn rất nhiều so với cuốn từ điển về tiếng Việt gốc Hán mà ta muốn biên soạn. Chẳng thế mà khi khảo đính văn bản Truyện Kiều, các học giả đã phải mất hàng năm ròng và phải sử dụng một số sách vở có dung lượng lớn gấp hàng trăm lần so với Truyện Kiều.

Khi thấy soạn giả giảng đúng nghĩa của từ nhưng giảng sai nghĩa của các từ tố, chúng tôi nghĩ ngay đến những em học sinh dốt về môn toán nhưng giỏi “cóp” bài của bạn. Các cậu này nhiều khi ghi được đáp số đúng nhưng không thể che giấu được cái dốt của mình vì cách làm bài để dẫn tới đáp số ấy thì sai hoàn toàn.

Cứ dựa theo âm để đoán nghĩa chứ không căn cứ vào dạng chữ Hán của các từ tố thì ắt phải “phán” sai rất nhiều chỗ, nhiều khi đến mức ngây ngô, nực cười. Như đã nói ở phần trên, có rất nhiều chữ đồng âm nhưng dị nghĩa nên phải thông thạo "mặt chữ" thì mới có thể hiểu đúng và giảng đúng nghĩa. Không đọc được chữ Hán mà cứ dựa theo âm để đoán thì sai là chuyện đương nhiên. Dưới đây xin nêu năm chục trường hợp như thế.


1. anh hùng 英雄

Theo soạn giả thì chữ anh ở đây có nghĩa là hoa đẹp, là vẻ đẹp, là người tài năng xuất chúng, còn chữ hùng có nghĩa là loài thú khoẻ nhất, là dũng cảm. Như vậy là ông chỉ giảng đúng nghĩa cuả chữ anh, còn chữ hùng thì giảng sai hoàn toàn. Chúng ta biết rằng, có hai chữ "hùng" là 雄 và 熊. Chữ hùng thứ nhất có nghĩa gốc là con chim trống hay con vật giống đực, và các nghĩa mở rộng là: a) nhân vật kiệt xuất, như trong các từ hùng trưởng, xưng hùng xưng bá; b) quốc gia giàu mạnh, như trong cụm từ chiến quốc thất hùng, nghĩa là bảy nước giàu mạnh nhất thời Chiến quốc; c) các nghĩa khác nữa như to lớn, mạnh mẽ, đều là những tính từ. Chữ hùng thứ hai 熊 nghĩa là con gấu như trong các từ Ðại Hùng Tinh nghĩa là Chòm sao Gấu Lớn và Tiểu Hùng tinh nghĩa là Chòm sao Gấu Bé). Chữ "hùng" thứ nhất, với nghĩa là nhân vật xuất chúng mới có mặt trong từ "anh hùng" 英雄. Soạn giả này đã giảng giải rằng, trong từ "anh hùng", chữ "hùng" nghĩa là loài thú khoẻ nhất, tức là con gấu. Thật là hài hước, nhưng có lẽ người đọc không khỏi xấu hổ thay cho soạn giả.


2. âm vị 因位

Ðó là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất có tác dụng phân biệt ý nghĩa của từ. Ðịnh nghĩa như vậy có lẽ cũng chấp nhận được. Nhưng soạn giả giải thích rằng, "vị" nghĩa là nói, thì hoàn toàn sai! Trong các từ điển chữ Hán, từ "âm vị" (từ tương ứng trong tiếng Anh là phoneme) đựợc viết là 音位. Chữ "vị" ở đây nghĩa là chỗ đứng, là vị trí, là đơn vị, chứ không phải vị là "nói" 謂 như soạn giả đã dạy bảo.


3. ẩn dụ 隱喻

Ẩn dụ là phép mỹ từ dùng sự so sánh ngầm. Soạn giả viết như vậy quả là không sai, nhưng ông lại giải thích rằng: ẩn = giấu kín, lánh đi, ngầm; và, dụ = rõ ràng, thì đã bộc lộ ngay một điều không ổn, vì hai trạng thái giấu kín và rõ ràng được kết hợp với nhau cùng một lúc, thật mâu thuẫn. Hơn nữa, như vậy thì ẩndụ đều chỉ tính chất chứ không chỉ hành động, mà từ ẩn dụ thì lại chỉ hành động chứ không chỉ tính chất. Theo từ điển Từ hải, chữ dụ 喻 có ba nghĩa: a) hiểu dụ (nghĩa là cấp trên giảng giải cho cấp dưới hiểu rõ), b) thông hiểu (nghĩa là hiểu hết), và c) tỉ dụ, tức là ví dụ. Cả ba nghĩa này đều chỉ hành động. Ðem mấy nghĩa này ghép với từ tố ẩn thì ta có thể hiểu rằng, ẩn dụso sánh ngầm, hoặc là chỉ bảo ngầm, và cũng có thể là làm cho hiểu ngầm. Trong tiếng Hán, còn có từ minh dụ 明喻, nghĩa là so sánh rõ ràng, cụ thể, đó là từ phản nghĩa với từ ẩn dụ.


4. bàng bạc 磅礡

Soạn giả cho rằng, bàng = rộng lớn; bạc = đầy bốn mặt, và, bàng bạc = rộng lớn, tràn lan khắp nơi. Cứ theo lời diễn giải ấy, chúng tôi tìm trong các từ điển Hán - Việt thì thấy chữ "bàng" 龐 có nghĩa là rộng lớn. Tiếc thay, cả ở các từ điển lớn của Trung Quốc như Từ nguyênTừ hải đều không thấy trường hợp nào có chữ bàng 龐 ấy đi kèm với một chữ bạc nào cả. Ngoài ra, chúng tôi cũng chưa tìm thấy chữ bạc nào có nghĩa là "đầy bốn mặt". Tuy vậy, cuối cùng cũng tìm được từ bàng bạc 磅礡 trong các từ điển của Trung Quốc. Nhưng các chữ bàng 磅 và bạc 礡 ở đây lại không hề có nghiã gốc như soạn giả đã giảng. Cụ thể, bàng 磅 là một từ tượng thanh (âm phổ thông Trung Quốc đọc gần giống như "pang" trong tiếng Việt), có nghĩa gốc là tiếng kêu khi đá rơi hoặc khi đập vào đá, và nghĩa mở rộng là đầy ứ. Chữ bạc 礡 thì có nghĩa là nện, là đập. Nghĩa của từ bàng bạc 磅礡 này là rộng lớntràn đầy, phù hợp với nghĩa mà soạn giả đã nêu. Như vậy là, ông đã chép ở đâu đó được cái nghĩa đúng của từ bàng bạc 磅礡 trong tiếng Hán, nhưng lại tự ý suy luận sai nghiã của các từ tố "bàng" và "bạc". Suy luận dựa theo cảm giác chủ quan của mình thì hết sức thiếu trách nhiệm và đương nhiên là sẽ phạm sai lầm. Xin lưu ý thêm rằng, chữ "bàng" 磅 này còn được dùng để dịch chữ "pound", một đơn vị trọng lượng trong tiếng Anh, mà chúng ta đọc là "bảng". Cũng không nên nhầm với chữ “bảng”鎊 dùng để chỉ đơn vị tiền tệ của nước Anh và một số nước khác.


5. bành trướng 膨脹

Sau khi giải thích rằng, bànhnước chảy mạnh, trướngnước dâng lên, soạn giả nêu định nghĩa: bành trướng nghĩa là lan rộng ra, là phát triển rộng ra. Sự thật thì ông đã đoán sai nghĩa của các từ tố. Bành 膨 nghĩa là phình to ra chứ không phải là nước chảy mạnh, trướng 脹 nghĩa là nở trương lên chứ không phải là nước dâng lên. Cả hai từ tố này không liên quan đến nước. Bành trướng có nghĩa gốc là trương phình to ra, nhưng nghĩa bóng là “mở rộng phạm vi thế lực” mới là nghĩa thường dùng. Ðịnh nghĩa do soạn giả nêu ra tuy không quá sai, nhưng chưa đạt.


6. báo giới 報界

Báo giới tức là ngành báo chí, chỉ chung những người làm báo, trong đó, "giới" nghĩa là bờ cõi, là phạm vi, là lãnh vực chứ không phải là hạng hoặc loại như soạn giả đã dạy. Chẳng có chữ "giới" nào có nghĩa là hạng hoặc loại. Chỉ vì tác giả không biết chữ Hán mới đoán liều như vậy mà thôi.


7. bát dật 八佾

Bát là tám, dật 佾 là đội hình ca múa. Bát dật 八佾 là đội hình ca múa có tám hàng ngang và tám hàng dọc, gồm 64 người. Tuy soạn giả nêu được định nghĩa rằng, bát dật là lối múa cổ có tám hàng, mỗi hàng tám người, nhưng ông đã phạm sai lầm khi giảng rằng, dật nghĩa là yên vui. Ðó là một sự suy đoán tuỳ tiện của người không biết chữ Hán mà chỉ dựa theo âm của từ tố.


8. bắc thần 北辰

Bắc thần nghĩa là Sao bắc cực. Chữ thần 辰 này có nhiều nghĩa, trong đó, có nghĩa là thiên thể, là tinh tú, là ngày tháng, là đế vương (khác hẳn với chữ thần 臣 nghĩa là kẻ bề tôi hoặc chữ thần 神 trong từ tinh thần 精神. Trong trường hợp này, thần 辰 có nghĩa là ngôi sao. Nó còn có âm là thìn để chỉ ngôi thứ 5 trong 12 ngôi địa chi (tí, sửu, dần mão, thìn, tị…) Soạn giả đưa ra một định nghĩa rất dài dòng: bắc thần là ngôi sao sáng hình như đứng yên một chỗ trên bầu trời và giúp ta xác định hướng chính bắc. Ðịnh nghĩa này không sai nhưng quá rườm ra. Ðiều không thể tha thứ được là, ông đã “phán” bừa rằng, “thần” nghĩa là tinh thần.


9. bộ đội 部隊

Soạn giả cho rằng, trong từ này, từ tố bộ nghĩa là bước đi, là đi bộ, còn từ tố đội thì có nghĩa là đội ngũ rồi ông nêu ra hai nghĩa của từ bộ đội: 1. Lính bộ binh (cũ); 2. Quân đội. Thực ra, hai nghĩa trên đây ứng với hai từ khác nhau là 步隊 và 部隊 (trong tiếng Hán, hai từ này đã xuất hiện hàng ngàn năm, chúng hoàn toàn đồng âm và đều có âm Hán Việt là bộ đội). Cách giải nghĩa của soạn giả chỉ đúng với nghĩa thứ nhất (trong đó, bộ 步 nghĩa là đi bộbộ đội 步隊 nghĩa là lính bộ binh) nhưng trong tiếng Việt và cả trong tiếng Hán hiện nay hầu như không ai sử dụng từ bộ đội 步隊 này nữa, mà chỉ có từ bộ đội 部隊 với nghĩa là quân đội. Chữ bộ 部 này (có mặt trong các từ như bộ phận, bộ môn, bộ trưởng ) có hơn một chục nghĩa, trong đó có một nghĩa là đơn vị biên chế quân sự cổ đại, mà về sau được dùng để chỉ quân đội nói chung (trong Tân hiện đại Hán ngữ từ điển do Vương Ðồng ức chủ biên thì đó là nghĩa thứ hai của chữ bộ 部). Khi giảng giải từ bộ đội, có lẽ soạn giả có dựa theo một vài quyển từ điển Hán Việt trước đây, nhưng chúng tôi đã căn cứ vào gần một chục quyển từ điển của Trung Quốc mới dám viết những dòng này.


10. bức xạ 輻射

Theo soạn giả, bức nghĩa là bắt buộc, xạ nghĩa là bắn; bức xạ là sự phát và truyền năng lượng dưới dạng sóng và dạng hạt. Có thể chấp nhận định nghĩa này về bức xạ. Nhưng soạn giả đã phạm sai lầm nghiêm trọng khi ông đoán liều rằng, bức nghĩa là bắt buộc. Chữ "bức" 輻 ở đây (khác hẳn chữ bức 逼 là bắt buộc) có nghĩa gốc là nan hoa ở bánh xe, và có nghĩa mở rộng là toả ra khắp mọi phía xung quanh.


11. cải cách 改革

Từ cải cách vốn rất quen thuộc với mọi người nên soạn giả đã nêu được định nghiã đúng của nó: cải cáchsửa đổi về căn bản theo hướng tiến bộ. Tuy nhiên, ông chỉ giảng đúng nghĩa của từ tố cải 改 nghĩa là biến đổi, nhưng giảng sai nghĩa của từ tố cách. Chữ cách 革 có nghĩa gốc là cạo sạch lông trên da thú trước khi thuộc da, và có nghĩa mở rộng là trừ khử cái cũ, là thay đổi mạnh mẽ. Trong từ cải cách, cách 革 nghĩa là thay đổi mạnh mẽ (khác hẳn với chữ cách 格 trong từ “cách thức” 格式. Vì không đọc được chữ Hán, nên soạn giả đã đoán liều rằng, cách nghĩa là cách thức!


12. cao thượng 高尚

Cao nghĩa là không thấp kém. Ai cũng hiểu như thế, và đúng là như thế. Nhưng, thượng nghĩa là gì? Theo soạn giả thì thượng nghĩa là trên. Mới xem qua thì tưởng như thế là đúng. Tuy nhiên, kinh nghiệm và trí nhớ của chúng tôi đã mách bảo rằng, như thế chưa đúng. Tra cứu lại sách vở, chúng tôi thấy mình không nhầm. Trong từ cao thượng 高尚, chữ thượng 高 này (khác với chữ thượng 上 nghĩa là trên) có nhiều nghĩa, trong đó có nghĩa là «chuộng”, là vượt lên trên. Ðó chính là nghĩa được vận dụng trong từ này. Cao thượng nghĩa là chuộng cái thanh cao, là vượt lên cao, thoát khỏi những điều tầm thường. Ðiều đáng mừng là, tuy soạn giả không hiểu hết các từ tố nhưng ông đã nêu được một định nghĩa không sai về từ cao thượng. Giá như ông đừng khoe tài chữ nghĩa, đừng cắt nghĩa các từ tố thì đỡ phạm sai lầm. Nhưng khốn nỗi, việc giải nghĩa các từ tố lại là mục đích của cuốn từ điển này!


13. cấm khẩu 噤口

Ở đây, cấm 噤 nghĩa là câm chứ không phải là ngăn cấm; còn khẩumiệng thì có lẽ ai cũng biết. Cấm khẩu là cái miệng bị câm không nói được chứ không phải là cấm cái miệng, không phải là không cho nói. Soạn giả đã giải thích rằng, cấm nghĩa là không cho làm, và cấm khẩu nghĩa là không cho nói. Do không hiểu nghĩa của từ tố “cấm” vì không biết mặt chữ nên soạn giả đã giảng sai nghĩa của từ cấm khẩu.


14. đại để 大抵

Theo từ điển Từ nguyên, đại 大 là lớn, để 抵 là nền, là gốc (nay thường viết là 氐) ﹐ đại để 大抵 là bao quát những nét lớn. Hiện nay, chữ để 抵 chủ yếu được dùng với nghĩa là chống lai (như trong từ để kháng mà ta quen đọc là đề kháng), đụng đến, đến. Soạn giả không có khả năng tra cứu theo chữ Hán nên đã cho rằng, để nghĩa là cho đến. Ðó chỉ là một nghĩa của chữ để 抵 nhưng không phải là nghĩa đúng trong từ đại để.


15. đại sứ 大使

Ðại sứ là quan chức ngoại giao đại diện cho một nước tại một nước khác. Ðịnh nghĩa của soạn giả cũng gần giống như thế. Nhưng ông đã giảng giải rằng, đại nghĩa là thay thế, và sứ nghĩa là nhận lệnh đi làm một việc gì đó. Giảng như thế là sai. Ở đây, đạilớn, sứ người được triều đình hay chính phủ cử đi làm công việc ở bên ngoài. Phải chăng, ông nghĩ rằng, đại sứ là người thay mặt chính phủ cho nên "đại" phải là thay thế? Tuy nhiên, dù lý sự kiểu gì thì chúng ta vẫn phải căn cứ vào sách vở, mà các sách chữ Hán đều ghi từ đại sứ 大使, trong đó, đại 大 nghĩa là lớn chứ không phải chữ đại 代 nghĩa là thay thế.


16. đề bạt 提拔

Theo soạn giả: đề = nắm lấy, đưa ra; bạt = nhảy qua; đề bạt là cất nhắc người có tài lên địa vị cao hơn. Ông đã cắt nghĩa chữ "bạt" 拔 một cách thiếu suy xét. Ở đây, bạt 拔 nghĩa là nhổ lên, là nhấc lên, là nổi trội lên chứ không có nghĩa là nhảy qua. Ngoài ra, nên định nghĩa lại rằng, đề bạt là cất nhắc người cấp dưới lên chức vụ cao hơn trước. Nên bỏ bớt cụm từ “người có tài” vì nó gán thêm cho từ “đề bạt” một ý rất lành mạnh mà từ này vốn không chứa nghĩa ấy.


17. đồng bộ 同步

Ðây là một từ khá quen thuộc với mọi người, và ai cũng hiểu rằng, đồng nghĩa là cùng nhau, như soạn giả đã dạy. Nhưng, phần đông những người không biết chữ Hán thường nghĩ rằng, bộ nghĩa là một tập hợp gồm nhiều phần, như ta thường nói: bộ quần áo, bộ ấm chén, v.v. Soạn giả của chúng ta cũng nằm trong số những người ấy, và ông đã giải nghĩa từ tố bộ như trên. (Chữ bộ này 部 cũng dùng để chỉ cơ quan quản lý từng ngành ở cấp trung ương.) Còn trong từ đồng bộ 同步 thì bộ 步 nghĩa là bướcđồng bộ nghĩa là mối quan hệ nhịp nhàng giữa hai hoặc nhiều bộ phận hoặc sự vật song hành và luôn luôn biến hoá về lượng theo thời gian, như trong các nhóm từ động cơ đồng bộ, tăng trưởng đồng bộ. Khi đã không hiểu nghĩa của các từ tố thì thật khó nêu được định nghĩa đúng của từ. Theo soạn giả, đồng bộ = nói các bộ phận đều tiến hành đều đặn cùng một thời gian. Ðịnh nghĩa này không rõ ràng, không đạt, và chỉ chứng tỏ rằng, giữa nó và nghĩa của từ tố “bộ” mà soạn giả đã nêu chẳng có liên quan gì với nhau.


18. hậu cần 後勤

Hậu 後 là sau thì ai cũng biết rồi. Chữ cần 勤 có mặt trong các từ cần cù, cần lao, cần mẫn, cần vụ, cần vương… Nó có nghĩa là chịu khó làm việc, là chăm chỉ, là hết lòng giúp sức (như trong từ cần vương - nghĩa là hết lòng phò tá nhà vua), là cần vụ, tức là công việc trợ giúp, là việc phục vụ. Trong từ "hậu cần" thì "cần" nghĩa là sự trợ giúp, là sự phục vụ. Hậu cần là công tác phục vụ ở phía sau chiến trường. Chúng tôi không khỏi ngạc nhiên khi thấy soạn giả giảng giải rằng, chữ "cần" ở đây nghĩa là cần thiết. Ðể diễn đạt sự cần thiết, trong tiếng Hán, ngươi ta dùng từ “nhu yếu”: Nên nhớ rằng, trong tiếng Hán không co chữ “cần” nào có nghĩa là “cần thiết” cả.


19. hoa lệ 華麗

Trong từ này, hoa 華 nghĩa là tốt đẹp (khác với chữ hoa 花 nghĩa là bông hoa), lệ 麗 nghĩa là đẹp đẽ. Hoa lệđẹp đẽ một cách lộng lẫy, sang trọng. Soạn giả không có khả năng đọc chữ Hán để hiểu nghĩa nên đã đoán liều rằng, hoa nghĩa là bông hoa và định nghĩa rằng, hoa lệ là đẹp đẽ và tươi vui. Ðó là một định nghĩa không chính xác.


20. hồn hậu 渾厚

Ðịnh nghĩa về từ này như soạn giả nêu ra là đúng. Ông cho rằng, hồn hậu là chất phác và phúc hậu. Nhưng trong hai từ tố, ông chỉ giảng đúng được một. Theo ông, hồnlẫn vào bên trong, không lộ ra, và, hậu nghĩa là dày. Chúng tôi cảm thấy nghi ngờ về cách giải nghĩa từ tố hồn của ông, mặc dầu vẫn biết rằng, ông đã dựa theo một quyển từ điển Hán Việt rất có uy tín (tuy nhiên, đây là một trong rất ít trường hợp chưa ổn trong quyển ấy). Sách Cổ kim Hán ngữ từ điển (Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, 2000) nêu ra 8 nghiã của chữ hồn 渾trong đó có nghĩa thứ năm là chất phác kèm theo thành ngữ hồn kim phác ngọc (nghĩa là vàng ngọc nguyên sơ, chưa chạm khắc) và từ hồn hậu. Như vậy, trong từ hồn hậu thì hồn nghĩa là chất phác, không trau chuốt, không giả tạo. Từ tố hậu tuy đã được cắt nghiã đúng nhưng cũng nên hiểu là đầy đặn, không bớt xén.

© 2005 talawas