trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 497 bài
  1 - 20 / 497 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Điểm nóngChính trị thế giới
Loạt bài: Xã há»™i dân sá»±
 1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11   12   13   14   15   16   17   18 
12.5.2005
Helena Flam
Bất đồng chính kiến của trí thức và bất đồng chính kiến đơn thuần: Trường hợp Ba Lan và Đông Đức
Lâm Yến-Khải Minh dịch
 1   2 
 
[1]

Bản sắc về chính mình

Cảm giác xa lạ hóa hoặc việc hình thành một khoảng cách ở mức cần thiết với xã hội thường được coi là yếu tố tiên quyết và cũng là điều kiện để trở thành một trí thức. Cảm giác xa lạ hóa này, đến lượt nó, lại thường được gắn liền với việc tự khẳng định về độc quyền chân lý. Mannheim (1936, 155-64) và một số người khác cho rằng chỉ có trí thức mới có được cái nhìn chính xác, khách quan và khái quát về xã hội vì bản chất “trôi nổi tự do” của anh ta – một trạng thái thoát khỏi những ràng buộc về thể chế hoặc thành phần giai cấp.

Ít ai chỉ ra rằng các trí thức trôi nổi tự do đôi khi cũng đã tìm cách thoát khỏi trạng thái li thân với xã hội của mình bằng cách cổ vũ cho những lợi ích xã hội rộng hơn của giai cấp lao động, của xã hội, của dân tộc, các trào lưu xã hội, các nước đang phát triển và vân vân. Xoay quanh mục đích của bài viết, cần thấy một hiện tượng thú vị hơn là nhiều trí thức còn có cảm nhận rằng mình thuộc về một nhóm hẹp hơn nhiều: một thế hệ hoặc một nhóm trí thức tinh hoa. Loại thứ hai chính là suối nguồn chính cho sức mạnh đạo đức và trí tuệ của họ. Tiểu luận này sẽ làm soi rọi vấn đề tại sao phong trào bất đồng chính kiến ở Đông Đức – đối lập với ở Ba Lan – lại không tạo ra được một trí thức vĩ đại nào.

Nhiều nhà đối lập có học vấn ở Ba Lan đã tìm cách tự đào luyện mình trở thành một trong những trí thức Âu châu – Tây Âu, với một số ít ngoại lệ Đông Âu – nổi bật nhất, những người suy tư sâu sắc về các vấn đề xã hội và đạo đức của thời đại và bảo vệ “những giá trị cơ bản của con người trước những nguy cơ hiện đại” (Sicinski 1991, 6-7). Đối lập Ba Lan tự cách điệu mình thành người lính gác anh hùng của sự thuần khiết đạo đức và toàn thiện trí tuệ, đồng thời tự trao cho mình độc quyền về chân lý và đạo đức vượt trội, chống lại những tuyên bố ngày càng hụt hơi của nhà nước cộng sản Ba Lan. Sự giao lưu với “Tây phương” – hoặc trực tiếp hoặc thông qua các trung gian là cộng đồng những người tị nạn chính trị có cảm tình – đã duy trì được hạt nhân của đối lập Ba Lan, cả về khía cạnh tài chính và tinh thần, giúp nó đạt được địa vị tinh hoa trong lòng dân tộc và trong cộng đồng quốc tế, đồng thời nâng cao hình ảnh về bản thân của các trí thức.

Lực lượng đối lập vượt qua những lo lắng sinh tồn của chính mình và cảm giá li thân với xã hội thông qua một con đường khác. Từng bước một, nó đã hình thành những đường nét của một thang bậc xã hội đảo ngược (Flam 1996, 115). Trên cùng là các “Mẫu mực” được tôn vinh, họ có trách nhiệm cập nhật bảng danh dự và toả ra vầng hào quang để những người đối lập trẻ tuổi có thể tắm mình trong đó. Với 3 nhóm còn lại, chúng ta có thể tạm gọi là “nhóm thoả hiệp”, “nhóm cơ hội” và “nhóm đào ngũ” – lực lượng đối lập từ lâu đã dành cho họ những ác cảm.

Cấu trúc của lực lượng đối lập ở Ba Lan giúp tăng cường sự toàn vẹn mang tính biểu trưng và sự cộng hưởng về mặt xã hội, khác rõ rệt so với lực lượng đối lập ở Đông Đức. Ở Ba Lan, đầu tiên là KSS “KOR”, sau đó là Công đoàn Đoàn kết thống trị cục diện đối lập về tổ chức, nguồn lực và các mặt khác. Những thành viên dẫn đầu của các phong trào này có khả năng phát ngôn từ những vị trí nổi bật và do đó có cơ hội cực tốt để đạt được một số ảnh hưởng xã hội. Mục đích tìm kiếm nền tảng chung mà các nhà đối lập tự định ra cho mình đã tạo ra sự giao lưu tư tưởng và nihều vòng tranh luận, làm cơ sở cho hầu như mọi ấn bản được lưu truyền, các thỉnh nguyện thư hoặc các kháng thư mở. Mục đích này và việc thực thi nó đã nâng tính trừu tượng trong thảo luận lên ít nhất một bậc. Một trong những nền tảng tư tưởng chung đó là tuyên ngôn KSS ‘KOR’. Tuyên ngôn này đã miêu tả những căn bệnh hiện thời của Ba Lan và xác định rằng chủ nghĩa toàn trị chính là nguyên nhân. Văn bản này đã trình bày mục đích của KOR là đạt được đầy đủ các quyền dân sự và quyền con người ở Ba Lan.

Ngược hẳn với những người đồng chí Ba Lan, những người bất đồng chính kiến ở Đông Đức không thấy rằng họ có thể vai kề vai với các trí thức Âu châu. Họ khiêm tốn, thậm chí tỏ ra khúm núm và thường nhìn về phía đông “khi tôi còn 18 tuổi, tôi không được chính trị hoá như Michnik. Ừ mà ngay cả ngày nay tôi cũng [không dám] tự so sánh mình với Michnik, xin Chúa tha tội” (phỏng vấn do tác giả thực hiện). Đối với họ, cũng như với nhiều người Đông Đức bình thường khác, Ba Lan là “Tây phương”, mảnh đất của tự do và bất đồng chính kiến công khai. Ở nơi ấy, người ta có thể đi nghe nhạc Jazz, xem những bộ phim, các vở kịch hiện đại và nói chuyện chính trị một cách tự do trong các nhóm bạn, thậm chí cả ở trường đại học. Giống như nhiều người dân Đông Đức, các nhà bất đồng chính kiến nơi đây đã tiếp thu niềm tin về một phương Tây “xấu, đồi bại” và một phương Đông “tốt, gương mẫu” và tạo ra một biến thể của ý tưởng này. Họ nhìn lên Adam Michnik hay Václav Havel và ước ao có các đồng chí hoặc các nhà lãnh đạo tương tự như vậy ở nước mình. Dần dà họ xây dựng một cộng đồng tâm linh -và hưởng lợi từ sự giao lưu- với “phương Đông”. Một cộng đồng tị nạn chính trị Đông Đức ở phương Tây không bao giờ tập hợp lại được – chỉ có ít, rất ít cá nhân giúp cho việc hình thành đầu cầu (cho phong trào). Cho đến giữa những năm 1980, khi các phương tiện thông tin đại chúng của Tây phương được cho phép vào [Đông Đức] và bắt đầu đóng vai trò trung gian, lực lượng bất đồng chính kiến Đông Đức phải tự duy trì sự tồn tại của mình mà hầu như không có một sự giúp đỡ nào từ phương Tây.

Các nhà bất đồng chính kiến Đông Đức cũng không mấy khi được hưởng sự tôn vinh lẫn nhau vốn rất điển hình giữa các thành viên của các nhóm trong lực lượng đối lập Ba Lan. Ví dụ, vị lãnh tụ nổi tiếng Barbel Bohley, người đã đề xướng Diễn Đàn Mới vào năm 1999 và “Bàn tròn từ dưới lên” năm 1990, đã gắn kết sự ưu tú của một con người với phát triển cá nhân, cá tính, hoặc việc đạt được một vị trí nào đó trong cấu trúc chính thức: nhận xét về những nhà đối lập, đồng chí của mình trong phong trào Đề Xướng Hoà Bình và Nhân Quyền (mà bà đồng sáng lập), bà kết luận rằng hầu hết các thành viên trong nhóm không đạt được các tiêu chuẩn này. Ngay cả với những người đạt được, bà cũng không cảm thấy phấn chấn gì hơn “Điều tôi thấy [hơi] đáng tiếc thường là [lực lượng đối lập] không ít thì nhiều [mà về mặt xã hội là] ngoài cuộc… Tức là họ đều bị đá khỏi các vị trí nghề nghiệp – phần lớn do các hoạt động chính trị của họ – hoặc không được phép nghiên cứu và vì thế, họ có nhiều vấn đề. Vì lý do này, tâm lý trại tập trung đã hình thành trong chúng tôi… Một số vị trở nên nổi tiếng hơn vì sự phát triển, học vấn hay cá tính của họ. Ngoài số này có rất nhiều người thường chỉ “quanh quẩn” mà không thực sự có một đóng góp mang tính sáng tạo nào, chỉ vì họ tham gia vào hệ tư tưởng của nhóm mà có được cái cảm giác “đối lập” (phỏng vấn với Bohley tại Findeis 1994, 51)

Tài liệu phỏng vấn chỉ ra rằng nhiều nhà bất đồng cho rằng cá nhân họ và những người khác là những kẻ bỏ cuộc giữa chừng, thậm chí những kẻ thất bại. Trái ngược với những nhà đối lập Ba Lan, họ không tạo ra một hệ thống thang bậc xã hội đảo ngược mà dựa vào đó họ có thể tìm kiếm được sự thoả mãn, ít nhất là một vài mặt trong cuộc đời bất đồng chính kiến của họ: thay vào đó, tiêu điểm của họ vẫn gắn chặt vào các tiêu chuẩn chính thống về thành công (trình độ giáo dục cao, nghề nghiệp chuyên môn, nhà cửa đoàng hoàng). Không được nâng đỡ bởi chính sự sáng tạo biểu tượng của họ (Flam 1997 và 1998), nhiều nhà bất đồng chính kiến phải đối mặt với việc ngờ vực chính mình và sự bấp bênh mà chính quyền cộng sản đã chỉ thị cho cơ quan mật vụ Stasi tìm cách lan truyền trong họ (Rỹddenklau 1992, 37).

Ở Đông Đức, không có một nhóm chỉ trích chính quyền nào nắm được ưu thế. Có một ít nỗ lực nhằm tìm kiếm tiếng nói chung hay một hình thức hợp tác chặt chẽ hơn giữa các nhóm phân tán, nhưng họ thất bại (Gutzeit 1993, 89-90; Rỹddenklau 1992, 32). Những người đối lập hiển nhiên đã nghi ngờ lẫn nhau hết sức sâu sắc, đồng thời lại yêu mến cái quyền tự trị của nhóm nhiều đến mức họ từ chối tham gia vào bất cứ một mạng lưới đối thoại hay cuộc tranh luận nào lớn hơn. Việc chỉ trích nhà nước SED chỉ dừng lại ở từng điểm nhỏ, không có một nhãn quan xã hội phổ quát nào xuất hiện.

Các nhà bất đồng chính kiến Đông Đức chia sẻ với đồng sự Ba Lan của họ sự cống hiến nhiệt thành cho các giá trị bị đe doạ trong và do nhà nước SED, ví dụ như sự thực, tự trị, tự do ý kiến, đa nguyên, đối thoại và v. v. Tuy vậy, họ không bao giờ xác định mình là những người duy nhất mang các giá trị này. Trừ một ngoại lệ được biết đến nhiều nhất là Đề Xướng Hoà Bình và Nhân Quyền, họ không khi nào đi xa tới mức trực tiếp chống lại nhà nước hay gọi nó là toàn trị. Hầu hết trong số họ đều tiếp thu một hỗn hợp các giá trị của chủ nghĩa xã hội và Kitô giáo (Elvers 1994, 226-27). Họ không chấp nhận chủ nghĩa tư bản bóc lột lẫn xã hội tiêu dùng mang tính hưởng thụ và dân chủ chính thức. Không phải việc gắn bó với nền dân chủ tư sản mà chính là chủ nghĩa lý tưởng của họ đã khiến họ trở nên xa lạ với xã hội Đông Đức – vốn không sống theo đúng với các lý tưởng của chính nó. Nhà nước SED gia trưởng đã thành công theo nghĩa nhiều trong số những đứa con đối lập của nó không hoàn toàn cự tuyệt nó, mà thay vào đó là bị thôi thúc mãnh liệt hướng tới cải cách. Họ không khi nào đi xa tới mức thẳng thừng đưa ra tuyên bố độc quyền về sự thật cũng như sự vượt trội về đạo đức của họ.


Sức thu hút của trí thức và chấp nhận rủi ro

Trí thức là “các hiệp sĩ của ngôn ngữ” và là những người ưa thích sự cái tuyệt đối (Reader 1997, 110). Một trí thức đã đủ lông đủ cánh sẽ có sức mạnh thu hút quần chúng, bắt nguồn từ dòng dõi lịch sử của anh ta, sự liêm chính mà anh ta thể hiện ra, kho giá trị tích luỹ được trong giới của anh ta, và sự sẵn sàng gánh chịu rủi ro vì lời nói của mình. Nếu nói về trí thức Pháp và Ba Lan, rất có thể là những đặc điểm này cấu thành nên những trụ cột chính tạo nên sức thu hút quần chúng của họ (ibid., 2-5, 86; xem thêm Jacoby 1987, 13-14, 73-77): chúng đóng vai trò như những bảo đảm rằng các tư tưởng được tuyên truyền đều là sự thực và có giá trị.

Tôi đã phân tích, trong một bài viết khác, tại sao và làm thế nào các trí thức đối lập Ba Lan lại dựa vào phiên bản quá khứ “cao quý”, “khoan dung”, “dân chủ”, “đáng kính” và “anh hùng”. Ở điểm này tôi chỉ xin được lưu ý rằng họ tự nhận tiếp nối những danh nhân thời trước: giới quý tộc Ba Lan cấp tiến và cởi mở cùng các hậu duệ của họ -giới trí thức- mà những đại diện của nó đã liều mình trong vô số cuộc đấu tranh cách mạng và dân tộc, và sau đó, trong cuộc Kháng chiến Ba Lan. Tôi cũng từng chỉ ra (Flam 1996 và 1998) rằng lực lượng đối lập dựa vào nguyên tắc danh dự với những gốc rễ lịch sử mang tính dân tộc và cộng sản. Nó đồng nhất việc tố giác người khác, rút lui khỏi lực lượng đối lập và bỏ nước ra đi với sự mất mặt. Nguyên tắc này làm tăng những chi phí tượng trưng khi hợp tác với chế độ hay rút lui [khỏi lực lượng đối lập]. Cả quá khứ được gợi lên cùng với những phần thưởng luôn hiện hữu dưới nguyên tắc danh dự này đã làm người ta vợi đi những lo ngại về sự ngược đãi, đem lại ý nghĩa cho việc chịu đựng cá nhân gây ra bởi sự bắt bớ, khám nhà, tù đầy v.v.

Cương lĩnh đạo đức của lực lượng đối lập đòi hỏi phải phát huy những phẩm hạnh như sự liêm chính, nhất quán, tính trách nhiệm và trung thành; nó phác hoạ các thành viên đối lập như sự hiện thân của các giá trị này, và phóng chiếu một hình ảnh tích cực về lối sống đối lập được định hình bởi sự hi sinh cá nhân, những việc làm tốt, và một cuộc kiếm tìm chân lý không mệt mỏi.

Cột trụ cuối cùng của khả năng hấp dẫn quần chúng được thể hiện ở sự sẵn sàng chấp nhận rủi ro và gánh chịu mất mát vì lợi ích chung. Mọi người đều biết rằng các thành viên đối lập nổi bật đã chịu đựng nhiều dạng đàn áp khác nhau, từ theo dõi, khám nhà, giam giữ ngắn ngày đến cấm làm việc hoặc nghiên cứu (thường tạm thời) và tù đày dài – những nhà hoạt động đối lập nổi tiếng nhất (như Kuroń, Modzelewski và Michnik) đã có những hồ sơ về bắt bớ và tù tội hết sức ấn tượng. Việc sẵn sàng chấp nhận rủi ro đã xác nhận lòng dũng cảm và sự sẵn sàng hi sinh hạnh phúc cá nhân và những tiện nghi cuộc sống hàng ngày cho niềm tin của họ. Công việc trí tuệ của họ được tắm trong hào quang của tinh thần anh hùng.

Nói tóm lại, các trí thức đối lập Ba Lan nổi tiếng, được nhiều người khác theo gương, đã chấp nhận những rủi ro bị xúc phạm và trả thù. Họ chấp nhận những bản án tù dài hạn, coi đó là một phần đương nhiên trong vai trò đối lập. Những đồng sự của họ ở Đông Đức không hẳn giống như vậy.

Nhiều cuộc phỏng vấn với các nhà đối lập Đông Đức cho thấy rằng đôi khi họ cũng sẵn sàng ở tù một vài năm, nhưng đó là giới hạn: họ khá sẵn sàng đồng ý cho Tây Đức chuộc họ ra theo thoả thuận mà hai nhà nước Đức đạt được đầu những năm 1970. Nhóm các nhà đối lập nổi bật bị bắt vì dính líu đến cuộc biểu tình kỉ niệm Liebknecht-Luxemburg năm 1987 cũng chọn lựa Tây Đức ngay vào thời điểm phong trào đối lập có vẻ như đoàn kết nhất và được phối hợp tốt nhất so với trước đây.

Cả những nhà đối lập bình thường đến những người nổi tiếng đều không có được một thế giới biểu tượng mà theo đó, việc ở tù lâu hơn trở nên có ý nghĩa (Flam 1997 và 1998): chẳng hạn, họ không gắn mình với khái niệm danh dự, vì khái niệm này bị tổn thương bởi nó từng liên quan đến chủ nghĩa dân tộc Đức và chủ nghĩa Hitler. Mặc dầu vẫn có một số các yếu tố phi cộng sản đáng trân trọng, như nhóm kháng chiến Hoa Hồng Trắng, quá khứ của nước Đức đến với sách vở học đường phần lớn bằng cách vặn vẹo đi. Ngược với Ba Lan, các nhà đối lập Đông Đức không công kích phiên bản của nhà nước về quá khứ để làm nổi bật lên những ý nghĩa biểu trưng của các các yếu tố tích cực hơn này, và vì thế không thể sử dụng được để chống lại huyền thoại chống phát-xít mà theo đó các lãnh tụ của nhà nước Đông Đức được vẽ ra vừa là nạn nhân, vừa là những chiến sĩ can đảm chống lại Hitler.

Giống như các đồng chí Ba Lan, các nhà bất đồng chính kiến Đông Đức xây dựng mô hình hành động cho mình dựa trên văn học dân tộc, tuy nhiên kho giá trị của các nền văn học này lại khác nhau khá nhiều. Lược sơ qua lịch sử văn học Đức (Flam 1996 và 1998), có thể thấy rằng các thi sĩ và các triết gia Đức đã tạo ra một phiên bản Đức độc đáo về các khái niệm như lương tâm và sự khám phá chính bản thân mình, Bildungsroman (tiểu thuyết giáo dục), mà Thomas Mann gọi là hình thức văn chương “điển hình Đức”. Với nỗ lực hợp pháp hoá sự thống trị “mang tính nhân bản” và “chống phát-xít” của họ, chính quyền cộng sản Đông Đức chấp thuận và phổ biến rộng rãi cả Bildungsroman và nền văn học mới hơn được xây dựng dựa trên nó. Về mặt chủ đề, thể loại văn học này xoay quanh những cá nhân đang tìm cách sống theo lương tâm của họ và/hoặc khám phá chính bản thân họ, một nỗ lực thường dẫn họ đến sự xung đột với xã hội và/hoặc với nhà nước. Có thể nói đó là một nền văn học mang trong mình hạt giống đối lập, và trên thực tế, nó là yếu tố cấu thành nên nền tảng đối lập ở Đông Đức, như một phân tích đã chỉ ra (Flam 1996).

Ý tưởng của Đông Đức về “khám phá bản thân” không được hiện đại như người Đức vì nó phản ánh cái ý tưởng được thể hiện trong Bildungsroman. Điều quan trọng nhất là để tương thích với mô hình văn học đó, một nhà bất đồng chính kiến Đông Đức điển hình sẽ tìm thấy mình bằng cách tham gia vào, học hỏi từ và sau đó rời bỏ – trong thất vọng – các nhóm xã hội. Không giống như các đồng sự của họ ở Ba Lan, những người chống đối ở Đông Đức không tiến hoá cùng với các tập thể đối lập của họ, họ cũng không gắn bó với các tập thể này suốt đời: không phải phong trào đối lập, mà là “cá nhân hóa mang tính tư sản”, theo đúng nghĩa của từ này, là cái quan trọng đối với các nhà bất đồng chính kiến Đông Đức. Nhìn từ góc độ dự định cá nhân, đối với họ việc ở lại một đất nước bị đàn áp hay chuồn sang Tây Đức xét về mặt đạo đức mà nói là như nhau. Các lý tưởng tư sản dẫn họ đến với phong trào, nhưng cũng đưa họ ra khỏi phong trào khi sức ép (lên họ – ND) trở nên thô bạo. Như đã lưu ý từ trước, phong trào đối lập ở Đông Đức còn non trẻ; lịch sử của nó rất ngắn ngủi – thiếu hẳn một lớp người già hơn và không đoàn kết. Những điều kiện tiên quyết để hình thành một lý tưởng và đời sống tập thể đã không tồn tại để giữ chân các người cá nhân chủ nghĩa non trẻ.

Phong trào Đông Đức non trẻ cũng thất bại trong việc định hình lại những cảm giác mang nhiều tính cá nhân như sự lo âu, sợ bị gạt ra ngoài cuộc, sự chán nản bởi thất bại. Những yếu tố này cộng gộp lại cũng gây nguy hiểm cho bản thân phong trào. Rời bỏ đất nước chỉ là một hình thức cực đoan của sự bất mãn. Ít nhất cũng có hai làn sóng di cư lớn – một vào năm 1984 và một vào năm 1988 – được coi là các biểu hiện của cảm giác bất lực dâng cao:

“[Năm 1984] những người muốn ở lại đất nước (đều là những người – ND) đang đi tìm kiếm những động cơ hoặc đang tìm cách tự biện hộ cho mình với một hi vọng vào sự thay đổi của GDR. “Tôi ở hay tôi nộp đơn xin ra đi?” là một câu hỏi then chốt đối với thế hệ chúng tôi” (In Kroh 1989, 238).

“Tôi và chồng tôi cũng thuộc vào hàng ngũ những người do dự [trong năm 1984]. Chúng tôi tự hỏi “Liệu chúng tôi còn có tương lai không? Liệu chúng tôi còn có hi vọng không? Các hoạt động của phong trào hoà bình đã đem lại thay đổi căn bản nào chưa? Con trai chúng tôi chuẩn bị đến tuổi tới trường. Tất cả những gì mà nó phải nhắm tới là những gì chúng tôi lâu nay đã chống lại. Chúng tôi phải xoay xở thế nào đây? Nếu vẫn tiếp tục sống như thế này có nghĩa là chúng tôi sẽ tiếp tục lo sợ triền miên. Khả năng bị bắt… dĩ nhiên cũng phải đưa vào tính toán… Một người bạn có quyền đứng ra chăm sóc cháu nhỏ trong trường hợp có chuyện gì xảy ra với chúng tôi. Chúng tôi đã phải cẩn thận, giống như các nhà hoạt động khác. Bằng cách này hay cách khác người ta có thể học để sống được với nó, nhưng chúng tôi không muốn phải chịu đựng nó [suốt đời]. (ibid., 178)

Bất đồng chính kiến là một hiện tượng thứ yếu và bị gạt sang một bên trong xã hội Đông Đức. Hầu hết các nhà đối lập đều phải chịu tác động tâm lý về sự “thất bại” liên quan đến học vấn, nghề nghiệp và nhà cửa, vốn được các cơ quan an ninh chủ ý sắp đặt. Mặc dù có một số nhóm đối lập đã tìm cách giúp những người “lạc loài” này cảm thấy rằng họ cuối cùng vẫn là người của nhóm, các nhóm này đã không giúp họ đối phó với cảm xúc riêng tư về sự thất bại, với cảm nhận không có một chút quyền lực gì về chính trị và cá nhân - vốn rất điển hình trong số những người “bỏ cuộc giữa chừng” này. Không chỉ các nhóm địa phương, mà ngay cả các nhà lý thuyết về bất đồng chính kiến [2] , bản thân phong trào và cuối cùng là samizdat (Flam 1997; Dalos 1989,97) – vốn nảy nở rất nhiều từ 1987 trở về sau – đều thất bại trong việc giải quyết các vấn đề sống còn như sự bất lực, việc bị gạt ra rìa, bị đàn áp – mà theo như các phỏng vấn được thực hiện trong khuôn khổ đề tài này đã chỉ ra – có ở hầu hết các nhà đấu tranh và các nhóm đối lập (Flam 1997).

Kết quả của những yếu kém về biểu tượng này là thế giới của những người bất đồng chính kiến vẫn còn nhiều lỗ hổng, hở sườn trước hệ tiêu chuẩn chính thống. Vì vậy, trái ngược với các đồng sự của họ ở Ba Lan, các nhà đối lập Đông Đức hoàn toàn bị phơi trần trước nỗi sợ hãi và âu lo điển hình của hoạt động đối lập. Không được chống đỡ bởi các nguyên tắc nhận thức và tinh thần cần thiết, nhiều người trong số họ viện đến khái niệm tị nạn nhằm làm giảm cảm giác trăn trở của mình, và khi bị bắt, thẩm vấn, hoặc tù đầy, họ dễ dàng rơi vào sự khiếp nhược.

Thế giới biểu trưng của những người bất đồng chính kiến không thể đưa khái niệm khám phá bản thân qua cổng nhà giam; ngược lại, khi cá nhân những người đối lập bị đứng trước viễn cảnh tù đầy lâu dài, họ liền chìm ngập trong nỗi lo âu về việc các kế hoạch của bản thân, của gia đình mà họ không thể thực hiện được trong thời gian ở tù. Một nhà đối lập Đông Đức, vốn sẵn sàng theo đuổi dự án đầy lãng mạn về việc khám phá bản thân và tỏ ý sẵn sàng chịu đựng sự ngược đãi của chính quyền cho mục tiêu này, khi phải đối diện với cánh cổng nhà tù bỗng chốc trở nên một người vị kỷ duy lý. Cái giá phải trả cho hoạt động đối lập bỗng chốc trở nên quá cao. Rút lui trở nên hợp lý hơn. Tôi cho rằng đó là lý do tại sao có nhiều đến vậy các nhà đấu tranh Đông Đức chọn lựa con đường rút lui. Mặc dầu họ rất ghét Tây Đức, họ chấp nhận để Tây Đức chuộc mình ra. Các đồng sự người Ba Lan thì trái lại, cảm thấy họ có thể thực hiện được cái dự án đầy lãng mạn và anh hùng của mình tốt như nhau dù họ ở trong tù hay không.

Điều này đưa ta đến với câu hỏi ban đầu về những nguyên nhân tại sao các nhà đấu tranh Đông Đức không thể thuyết phục được cử tri về sự hấp dẫn của những dự án chính trị của họ: nếu những người bất đồng chính kiến Đông Đức không chịu hi sinh cho chính các ý tưởng của mình, thì liệu các ý tưởng này còn có giá trị gì? Có lẽ là công chúng cử tri Đông Đức không ủng hộ các tư tưởng về dân chủ tham gia và kinh tế thị trường không phải chỉ vì họ còn chưa hiểu rõ các tư tưởng này, mà còn vì họ không sẵn lòng đặt niềm tin vào những người cổ động cho chúng.


Kết luận

Với những người tìm hiểu, mức độ các cấu trúc chính thức tạo nền tảng cho sự kiệt xuất là một câu hỏi thú vị. Tôi đã gợi ý rằng nhà nước, cho dù dưới hình thức người chủ lao động, nhà tài trợ, hay đối thủ, đều đóng vai trò trụ cột trong vấn đề này. Đảng – nhà nước Ba Lan sẵn sàng công nhận sự kiệt xuất của tầng lớp trí thức – cho dù đó là những đối thủ của họ – hơn nhiều so với đồng nhiệm Đông Đức. Hơn nữa, nhiều trí thức Ba Lan cũng sẵn sàng nuôi dưỡng và đề cử những người kế tục họ. Cả hai nhân tố này đã cho phép một sự kế tục giữa các thế hệ và một sự tự bảo đảm trong cộng đồng trí thức đối lập.

Điều này gợi ý rằng chỉ khi nào nhà nước hay các định chế được thừa nhận rộng rãi khác – bao gồm hệ thống đại học hoặc báo chí tư nhân – cùng sử dụng các tiêu thức về sự kiệt xuất giống như những tiêu thức mà các trí thức sử dụng, và chỉ khi các trí thức này xác định giá trị của việc bất đồng chính kiến vì lợi ích của chính nó, thì danh tiếng mà họ đạt được bằng các phương pháp của riêng họ trong nội bộ của họ mới được khẳng định và củng cố bên ngoài cái cấu trúc nội bộ đó. Hơn nữa chính các cấu trúc chính thức đó (nhà nước, hệ thống đại học, cương vị công tác, nghề nghiệp, tạp chí, báo, truyền thông) có thể có tác động củng cố hoặc huỷ hoại những trí thức bất đồng chính kiến, tuỳ theo việc chúng (các cấu trúc – ND) có thể chịu đựng được không và (nếu có thì – ND) ở mức độ nào những sự chỉ trích của xã hội. Chỉ khi nào chúng chịu đựng được ở một mức độ nhất định – không nhiều lắm – sự bất đồng, thì danh dự và sự nổi tiếng mới được đảm bảo cho một số ít các trí thức bất đồng. Ngược lại, bất đồng chính kiến hoặc sẽ bị cấm, hoặc bị giảm giá trị.

Ở Ba Lan, việc đóng vai trò một trí thức thành đạt mà không cần một cương vị công tác chính thức là hoàn toàn có thể (Reader 1987; Jacoby 1987). Thay vì đơn thuần giải thích hiện tượng này bằng truyền thống lịch sử Ba Lan, tôi bị lôi cuốn bởi lập luận rằng vai trò quyết định thuộc cơ sở hạ tầng của sự đối lập và samizdat trong việc duy trì sự hiển thị và vầng hào quang của các trí thức Ba Lan. Chòm sao quyền lực độc đáo liên quan đến đảng – nhà nước, các trí thức và người lao động đã tạo nên một chế độ kiên nhẫn khác thường. Vì vậy trong khoảng từ 1956 đến 1989, một mạng lưới tổng thể các câu lạc bộ, hiệp hội nghề nghiệp và hiệp hội sinh viên, các rạp hát sinh viên và rạp hát thường, các tạp chí và tuần báo – bao gồm các báo của Kitô giáo (Catholic) đã xuất hiện và tương đối dễ tiếp cận đối với những người bị cấm (hoặc cấm một phần) tham gia vào đời sống chính thức. Thỉnh thoảng chính quyền cũng đàn áp một số tổ chức, nhưng chưa bao giờ đến mức bóp nghẹt hoàn toàn. Thế giới chính quyền thiếu chặt chẽ và cùng với “vòng mạch thứ hai” đã giúp duy trì lực lượng trí thức đối lập Ba Lan, không phải chỉ theo nghĩa những trí thức này có thể nuôi dưỡng lẫn nhau thông qua thảo luận và các cuộc bút chiến cả chính thức lẫn phi chính thức, mà còn bởi vì với sự giúp đỡ của cả hai yếu tố này mà sự giao tiếp giữa trí thức và xã hội được duy trì.

Ở Đông Đức, các nhà đối lập – đặc biệt là những người đã từng là các nghệ sĩ, các giáo sư thành công, hoặc đã đạt được các danh hiệu khoa học – không thể nào duy trì được địa vị xã hội trước đây của họ. Họ bị mất các mối quan hệ xã hội cũ, mất khả năng tiếp cận các thiết chế chính thức và như vậy, không thể tiếp cận được với công chúng. Việc bị tẩy chay khỏi các nhóm đồng chí - đồng nghiệp và bị loại ra khỏi các thiết chế chính thức do sự sắp đặt của Stasi thường giết chết tinh thần (của các nhà đấu tranh –ND) vì hầu như không có sự hậu thuẫn của xã hội, và vì thế, của samizdat, do vậy không có các cơ hội đền bù cho tổn thất này. Cơ sở hạ tầng của sự đối lập và nguồn lực chuyển vào từ Tây phương là hết sức bé nhỏ so với Ba Lan. Số lượng những người đối lập tăng dần và việc hợp pháp hoá sự xuất hiện các phương tiện thông tin đại chúng phương Tây vào GDR hứa hẹn một sự thay đổi tổng thể, nhưng các nhà bất đồng chính kiến Đông Đức đã không tận dụng được những cơ hội mới này do khước từ vai trò hi sinh vì lý tưởng. Thay vào đó, họ đã (tự) ra đi hoặc được Tây Đức chuộc ra.


Danh mục tham khảo

  • Dalos, Gyorgy. 1989 “Grenzfall”, Umweltblatter” und die anderen: die DDR-Szene im Selbstbildnis ihrer Veröffentlichungen”. Ostkreuz. Pollitik. Geschichte. Kultur. 93-101.

  • Di Palma, Giuseppe. 1991. “Legitimation from the Top of Civil Society: Politico-Cultural Change in Eastern Europe”. World Politics 44: 49-80

  • Elvers, Wolfgang. 1994. „Politische Einstellungen der Gruppenvertreter vor der Wende“. In Findeis et al. (1994, 222-40)

  • Fehr, Helmut. 1992. „Unabhängige Öffentlichkeit und Soziale Bewegungen in Ost-Mitteleuropa“. Habilitationsarbeit. Politische Wissenschaften der Freien Universität Berlin.

  • ------. 1995. „Von der Dissidenz zur Gegen-Elite. Ein Vergleich der politischen Opposition in Polen, der Tschechoslowakei, Ungarn und der DDR (1976 bis 1989).“

  • Findeis, Hagen, Detlef Pollack, and Manuel Schilling. 1994. Die Entzauberung des Politischen. Leipzig: Evangelische Verlagsanstalt.

  • Flam, Helena. 1996a. “Anxiety and the Successful Oppositional Construction of Societal Reality: the Case of KOR”. Mobilization 1. (1): 103-21.

  • ---------------. 1996b. “Through Bourgeois Individuation to Dissent and Exit in the GDR”. Bài chuẩn bị cho phiên thường niên “Colletive behavior and Cutures of Opposition: Recent European Collective Action”, được tổ chức tại Hội thảo Thường niên của Hiệp hội Xã Hội học Hoa Kì, New York, N.Y., 16-20 August 1996.

  • ------. 1997. „Die poröse und die wasserdichte Sinnwelt der Opposition: der ostdeutsche und der polnische Fall“. In Zwischen Verweigerung und Protest, ed. Detlef Pollack and Dieter Rink. Frankfurt am Main: Campus Verlag.

  • -----. 1998. Mosaic of Fear. Poland and East Germany before 1989. Bradenton FL: East European Monographs; distributed by Columbia University Press.

  • Fricke, Karl Wilhelm. 1984. Opposition und Widerstand in der DDR. Köln: Verlag Wissenschaft und Politik.

  • Friszke, Andrzej. 1994. Opozycja polityczna w PRL 1945-1980 [Political opposition in Poland 1945-80]. London. ANEKS.

  • Gutzeit, Martin. 1993. „Der Weg in die Opposition. Über das Selbstverständnis und die Rolle der “Opposition” im Herbst 1989 in der ehemaligen DDR“. In Politische Opposition in Deutschland und im internationalen Vergleich, Ed. Walter Euchner, 84-114. Gottingen: Vandenhoeck und Ruprecht.

  • Hirszowicz, Maria. 1986. Coercion and Control in Communist Society: the Visible Hand of Bureaucracy. Brington, Sussex: Wheatsheaf.

  • Jacoby, Russell. 1987. The Last Intellectuals: American Culture in the Age of Academe. New York: The Noonday Press.

  • Joppke, Christian. 1995. East German Dissidents and the Revolution of 1989: Social Movement in a Leninist Regime. London: Macmillan.

  • Kopke, Wulf. 1982. „Antifaschistische Literatur am Beispiel Deutschlands“. Propyläen Geschichte der Literatur 90, vol. 6, ed. Erika Wischer, 97-117. Berlin: Propyläen Verlag.

  • Kroh, Ferdinand, ed. 1989. Freiheit ist immer Freiheit… Die Andersdenkenden in der DDR. Berlin: Ullstein Sachbuch.

  • Kubik, Jan. 1994. The Power of Symbols against the Symbols of Power. University Park, Pennsylvania: Pennsylvania State University Press.

  • Kusy, Miroslav. 1985. “Chartism and Real Socialism”. In The Power and the Powerless: Citizens against the State in Eastern Europe, ed. J. Keane, 152-77. London: Hutchinson.

  • Mannheim, Karl. 1936. Ideology and Utopia. New York: Harvest Books.

  • Meuschel, Sigrid. 1991. „Wandel durch Auflehnung. Thesen zum Verfall bürokratischer Herrschaft in der DDR“. IN Demokratischer Umbruch in Osteuropa, ed. Rainer Deppe, Helmut Dubiel, And Ulrich Rodel, 26-47. Frankfurt am Main: Suhrkamp.

  • Ost, David. 1990. Solidarity and the Politics of Anti-Politics. Philadelpia: Temple University Press.

  • Pakulski, Jan. 1990. “Eastern Europe and “Legitimacy Crisis”. Australian Journal of Political Science 25: 272-88.

  • Reader, Keith. 1987. Intellectuals and the Left in France since 1968. New York: St Martin’s Press.

  • Rucht, Dieter. 1996. “German Unification, Democratization, and the Role of Socieal Movements: A Missed Oppoertunity?”. In Mobilization 1 (1): 35-62.

  • Ruddenklau, Wolfgang. 1992. Störenfried. DDR-Opposition 1986-1989. Mit Texten aus den ‘Umweltblättern’. Basis Druck.

  • Skilling, H. Gordon. 1989. Samizdat and Independent Society in Central and Eastern Europe. Columbus: Ohio State University Press.

  • Sicinski, Andrzej. 1991. “Przedmowa: Humanista-pokolenie-wartosci”. In Sens Uczesnictwa. Wokól idei Jana Strzeleckiego, ed. Andrzej Scinski, 5-9. Warszawa: Polska Akademia Nauk, Instytut Filozofii I Socjologii.



Nhóm Duy Tân Trẻ giữ bản quyền của bản dịch tiếng Việt



[1]Helena Flam là Giáo sư ngành xã hội học tại Đại học Leipzig. Các lĩnh vực nghiên cứu chính của bà là các phong trào xã hội và bản sắc của đối lập. Các cuốn sách xuất bản gần đây nhất của bà gồm có States and Anti-nuclear Movements (Edinburgh: Edinburgh University Press, 1994) (chủ biên), và Mosaic of Fear: Poland and East Germany before 1989 (Bradenton FL: East European Monographs, 1998; Columbia University Press phân phối).
[2]Những nhà lý thuyết về hiện tượng bất đồng chính kiến, ví dụ trong các bài viết của Schorlemmer, Neubert, Poppe và Falcke sưu tập lại trong Pollack (1990) cách điệu các nhóm bất đồng chính kiến như là “các nhóm không giữ im lặng” cần thiết và nên có, chịu nguy hiểm, thiếu tự tin vào mình, một cách khôi hài là“hiện thân của chân lý, hy vọng và lòng dũng cảm”, “phản văn hoá”, “nguy hiểm tiềm tàng”, “công chúng thứ hai” v. v. Tuy nhiên những sự cách điệu này có vẻ không thấm nhuần vào trong các tiểu sử tự thuật của những nhà bất đồng chính kiến mà tôi hoặc một số vị khác đã phỏng vấn, có thể là họ đã không đả động đến các vấn đề cốt yếu về nhận thức và tình cảm mà hầu như tất cả các nhà bất đồng chính kiến phải đối mặt.

Nguồn: Intellectuals and Politics in Central Europe (Edited by András Bozóki), 1999, Central European University Press