trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 235 bài
  1 - 20 / 235 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tư tưởngChiến tranh nhìn từ nhiều phía
30.5.2005
Lữ Phương
Chiến tranh Việt Nam: Chủ quyền quốc gia, xung đột ý thức hệ và hoà giải dân tộc
 1   2 
 
Lời tác giả: Bài viết này vốn là những ý chính của một đề cương dự định triển khai thành một cuốn sách nhưng còn dang dở và chưa chắc được tiếp tục. Nhân ngày 30 tháng 4 năm nay, thấy trong và ngoài nước xuất hiện nhiều phát biểu rất mới mẻ, sôi nổi, đặc biệt những ý kiến xoay quanh cuộc bàn cãi của một người Việt ngoài nước với một người Việt trong nước về “tên gọi” của cuộc chiến tranh đã qua ở Việt Nam, tôi đã lục lại đề cương nói trên, sửa chữa thêm thắt (nhất là đoạn cuối), xin được gửi đến các vị đã tham gia tranh luận như một đóng góp để tham khảo [1] .
Thực dân Pháp và cuộc đấu tranh giành chủ quyền và thống nhất của Việt Nam

Kết quả của một dòng chảy liên tục, cuộc chiến tranh 1954-1975 không thể tách rời khỏi quá trình đấu tranh giành lại chủ quyền và thống nhất dân tộc mà đất nước đã có được trước khi người Pháp xâm lược Việt Nam.

  1. Cuộc đấu tranh này diễn ra dưới nhiều hình thức nhưng do truyền thống chống ngoại xâm của Việt Nam, do chính sách thực dân khắc nghiệt của Pháp nên bạo lực đã được hầu hết những tổ chức chống thực dân chọn lựa. Từ Cần Vương, Phan Bội Châu đến Nguyễn Thái Học, Hồ Chí Minh… [2] Về cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, hãy bắt chước nhiều người giả định điều sau đây: nếu sau cách mạng 1945, thực dân Pháp không trở lại Việt Nam thì điều gì sẽ xảy ra? Không phải ngưởi Việt Nam mà chính là những lực lượng ngoại xâm đã quy định hình thức bạo lực này. Rất tiếc, nhưng lịch sử 2000 năm của Việt Nam đã không thể sản sinh ra được một Gandhi.

  2. Vấn đề ý thức hệ không hề được đặt ra trong suốt thời kỳ chống sự xâm lăng của Trung Hoa phương Bắc. Mục tiêu của cuộc chiến đấu này chỉ thuần là giữ gìn chủ quyền về mặt lãnh thổ, hoàn toàn không có khía cạnh ý thức hệ (chống Tàu về mặt xâm lược nhưng vẫn thần phục Tàu về “thi thư, văn hiến”). Nhưng đối với cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa thực dân thì vấn đề ý thức hệ lại đặt ra như một tất yếu: nếu không muốn phục hồi xã hội cổ truyền đặt cơ sở trên Nho giáo thì phải tìm một ý thức hệ mới để hiện đại hoá đất nước. Sự chọn lựa đầy cạm bẫy, nhưng không thể tránh khỏi vì bước vào thời hiện đại là bước vào “kỷ nguyên của những ý thức hệ” [3] .

  3. Do tính chất đặc biệt của thời kỳ bị ngoại bang thống trị, vấn đề ý thức hệ ở Việt Nam không giống với những quốc gia đã có độc lập và cũng không giống với thời kỳ Việt Nam đã giành được độc lập. Nó luôn gắn liền với nhưng mưu tính chống lại sự đô hộ của nước ngoài để vừa phục hồi chủ quyền vừa tìm cách đi ra khỏi xã hội cổ truyền. Sự khác nhau về đường lối biểu hiện trong các cương lĩnh của những đảng chính trị là sự biểu hiện khác nhau về phương pháp đấu tranh để đạt mục tiêu hai mặt ấy. Trong tình thế đó, sự khác nhau về đường lối không hề dẫn đến những cái mà chúng ta gọi là “nội chiến ý thức hệ”.

  4. Sự khác nhau ấy chỉ trở nên gay gắt khi một đường lối nào đó có dính dáng trực tiếp đến một thế lực ngoại lai đang trực tiếp thống trị Việt Nam. Không phải vô lý khi chủ trương “Pháp Việt đề huề” của Phạm Quỳnh đã bị các nhà nho theo đường lối duy tân kết án. Cũng không phải là vô lý khi tính chính đáng trong chủ trương của nhiều lực lượng chính trị ra đời từ chính sách “khai hoá” của thực dân đã bị nghi ngờ. Thực tế là khi những lực lượng này phát triển thì khát vọng muốn thay đổi nguyên trạng cũng nẩy nở. Nhưng do bị điều kiện hoá bởi nền văn hoá thống trị của thực dân, các ý thức hệ mà các lực lượng này đề xướng vẫn không vượt khỏi con đường thoả hiệp.

  5. Tuy vậy, trong những tình thế cực đoan, các ý thức hệ đã bộc lộ tính chất biệt phái của chúng khi được sử dụng để phục vụ cho cuộc tranh giành quyền lực phát sinh trong lòng cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Là những công cụ huyễn hoặc, các ý thức hệ đã tạo ra lý luận cho những mưu toan độc quyền chính nghĩa dân tộc: bất cứ những ai không theo “ta” đều có thể bị xem là “địch” hoặc “tay sai địch”. Các loại “địch” này là vô số: thực dân, đế quốc, bành trướng, Pháp, Mỹ , Nhật, Nga, Hoa… Thái độ này không phải là thuộc tính của một thứ ý thức hệ riêng rẽ nào. Nó càng trở nên nguy hiểm khi một thế lực chính trị nào đó giành được chính quyền và nhân danh ý thức hệ ấy để thống trị.


Ý thức hệ cộng sản và không cộng sản ở Việt Nam

Trong tất cả những lý luận chính trị hiện đại đã du nhập vào Việt Nam trong thời kỳ thuộc Pháp, có hai hệ thống đã đi song hành với nhau cho đến ngày nay, được nhiều người tổng kết và gọi đó là ý thức hệ không cộng sản và ý thức hệ cộng sản.

  1. Khái niệm “ý thức hệ không cộng sản” rất rộng rãi và mơ hồ, tuy vậy xét về thực chất, thì đây chính là ý thức hệ tư sản dân quyền, bắt nguồn từ Tuyên ngôn Nhân quyền của Pháp và Tuyên ngôn Dân quyền của Mỹ. Ý thức hệ này đã du nhập vào Việt Nam trong thời kỳ thuộc Pháp, nhưng nguồn cảm hứng tạo ra hành động lại xuất phát từ cuộc Cách mạng Tân Hợi do Tôn Dật Tiên lãnh đạo và được Quốc dân Đảng Trung Quốc tiêp nối. Khi từ Nhật giạt sang Trung Quốc, sau chủ trương Đông Du thất bại, chính Phan Bội Châu là người đầu tiên đã ngả sang đường lối này bằng cách lập ra Việt Nam Quốc dân Đảng, sau này được Nguyễn Thái Học thừa kế và truyền lại cho nhiều đảng phái khác có cùng mục đích chống Pháp xây dựng xã hội mới.

  2. Ý thức hệ cộng sản thường được xem là bắt nguồn từ học thuyết Marx. Nhưng thứ “chủ nghĩa Marx” du nhập vào Việt Nam đó chỉ là chủ nghĩa Lenin của Quốc tế Ba, một hình thức vận dụng Marx vào những nước thuộc địa cũng với mục đích chống chủ nghĩa thực dân để hiện đại hoá xã hội. Khi phổ biến sang những nước chống đế quốc, nội dung của nó chính là chủ nghĩa dân tộc toàn trị stalinít. Có một điều đặc biệt cần được quan tâm là trong hoàn cảnh Việt Nam, phải dựa vào Trung Hoa để xây dựng căn cứ địa bên ngoài và để tìm sự hỗ trợ trong hoạt động, đồng thời lại có truyền thống xem Trung Hoa như một hình mẫu văn hoá để noi theo, thứ chủ nghĩa Stalin đó khi đi vào Việt Nam đã mang màu sắc Mao Trạch Đông khá rõ rệt. Một thứ chủ nghĩa Stalin đã “Trung Quốc hoá”.

  3. Cái gọi là “chủ nghĩa cộng sản Việt Nam” này như vậy thật sự chỉ là người anh em song sinh với cái gọi là “chủ nghĩa không cộng sản Việt Nam”: cả hai đều ra đời từ cái nôi cách mạng của nước Trung Hoa hiện đại. Không phải lúc nào chúng cũng đối lập nhau, trái lại đã có thể cùng nhau hợp tác trong việc hình thành các tổ chức cách mạng chống thực dân, nhất là trong những năm 1925-1927 ở Quảng Châu (Nguyễn Hải Thần đã hoạt động khá thân thiết với Hồ Chí Minh). Sự bất hoà đưa đến xung đột giữa hai bên chỉ xảy ra trong thời gian giành giật chính quyền quyết liệt (1945, 1946), đặc biệt khi Việt Nam được chọn như địa bàn tranh chấp giữa Mỹ và phe cộng sản quốc tế sau khi Chiến tranh Thế giới II chấm dứt.

  4. Tuy là một thực tế, nhưng nhìn chung, sự khác nhau giữa các ý thức hệ trong thời kỳ chống thực dân không phải là những mâu thuẫn sinh ra từ bản thân xã hội Việt Nam. Nó là kết quả của những mâu thuẫn của thế giới tác động vào khi Việt Nam giao tiếp với phương Tây nhưng cũng là phản ứng của Việt Nam trước tình trạng bị phương Tây thống trị. Sự chuyển động của Việt Nam không phải là cuộc chuyển động được “uỷ nhiệm” từ bên ngoài mà đã đi theo cái lôgích nội tại của bản thân: giành lại chủ quyền từ bên ngoài để thống nhất và hiện đại hoá dân tộc. Tính chất hai mặt đó trong cuộc tranh đấu của Việt Nam là đặc điểm quan trọng nhất trong thời kỳ lịch sử mới của Việt Nam trong thế kỷ 20.

  5. Tính chất hai mặt đó không lúc nào cũng đồng nhất. Trong thời kỳ đất nước còn bị ngoại bang thống trị, nội dung khác nhau của các ý thức hệ luôn luôn phụ thuộc vào mục đích giành chủ quyền dân tộc nhưng sẽ trở thành sự thách thức quyết liệt trong điều kiện đất nước đã độc lập, hoà bình. Theo viễn cảnh này, sự chiến thắng hay thất bại của những lực lượng chống thực dân Pháp chủ yếu chưa phải là sự đúng hay sai của các ý thức hệ khác nhau mà là vấn đề biện pháp huy động được sức mạnh truyền thống của dân tộc để đạt mục đích của mình. Và cũng trong viễn cảnh đó, có thể nói sự chiến thắng của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với chủ nghĩa thực dân Pháp chính là sự là sự chiến thắng của một biện pháp đấu tranh có khả năng huy động được truyền thống để thực hiện mục đích riêng đó, trong khi đó các xu hướng chống thực dân khác vì không làm được nên đã thất bại [4] .


Siêu cường Mỹ và cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai

Vấn đề đặt ra trorng cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai này là Đảng Cộng sản Việt Nam có còn giữ được ngọn cờ dân tộc đó hay không? Câu trả lời không đơn giản vì sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam lần này không giống với người Pháp trước đây.

  1. Sự can thiệp đó đã diễn ra dưới một hình thực hoàn toàn khác. Thay vì xâm chiếm đất đai, tạo ra thuộc địa để trực tiếp cai trị và khai thác như Pháp đã làm thì Mỹ lại sử dụng những thủ đoạn gián tiếp để dựng nên một chính quyền bên ngoài độc lập nhưng bên trong phụ thuộc qua đó thực hiện chính sách của mình, cụ thể vào lúc bấy giờ là đường lối đối ngoại thời Chiến tranh Lạnh: chia cắt lâu dài Việt Nam, qua đó “be bờ”, không cho chủ nghĩa cộng sản bành trướng xuống Đông Nam Á [5] . Tất cả đều không bắt nguồn từ đâu ngoài cái mà người Mỹ gọi là “lợi ích” của Mỹ với tư cách là một siêu cường, chứ không phải là một cái gì khác. Chắc chắn, không ai hiểu rõ điều này cho bằng những “đồng minh” Việt Nam của Mỹ từ 1954 đến 1975, khi họ nhớ lại những biện pháp mà Mỹ đã sử dụng để khống chế, áp lực từ đe doạ cắt giảm viện trợ đến đảo chính, bỏ rơi v.v… đối với họ như thế nào.

  2. Quả thật vấn đề ý thức hệ ở đây đã được đưa lên hàng đầu nhưng đó lại là thứ ý thức hệ của Mỹ chứ không phải của ai khác: giương cao ngọn cờ “dân chủ” của “thế giới tự do” để chống lại chủ nghĩa cộng sản quốc tế độc tài, đảng trị. Thật sự khi gọi cộng sản là “độc tài, đảng trị” thì chẳng có gì là oan, nhưng khi nhân danh lý tưởng “tự do” và “dân chủ” để bảo vệ cho những chính quyền như chính quyền Ngô Đình Diệm (thí dụ) do Mỹ tạo ra thì đó là một thứ huyễn hoặc quá sần sùi, thô lậu. Một chính quyền độc tài, sát máu chẳng khác gì với chính quyền cộng sản bao nhiêu: cũng dựa vào một ý thức hệ ngoại lai để tạo ra một chế độ độc đảng, duy trì quyền lực độc tôn bằng những cuộc thanh trừng, trấn áp vô cùng tàn khốc những lực lượng khác (không chỉ với cộng sản mà cả với cả những người cùng chia sẻ ý thức hệ “không cộng sản” với mình). Với một sự khởi đầu như vậy, sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam chẳng hứa hẹn điều gì tốt đẹp.

  3. Tuy vậy, khi nhìn vấn đề từ một khía cạnh khác, người ta phải nhận rằng sự can thiệp ấy không hoàn toàn chỉ là tiêu cực, như chính sách “be bờ” chủ nghĩa cộng sản. Đây không chỉ là một chiêu bài mà chính là ý chí muốn ngăn bước tiến của một ý thức hệ thật sự đang mang tai hoạ cho thế giới. Ý thức hệ này nhân danh cách mạng, tự cho mình là “đỉnh cao của trí tuệ loài người”, là một “học thuyết khoa học giải phóng nhân loại khỏi mọi áp bức lầm than” nhưng thực chất chỉ là một thứ ý chí luận về sự nhất thể hoá đời sống, thực hiện bằng huyễn hoặc và áp chế, thanh trừng kiểu Stalin và Mao Trạch Đông… Với một thứ chủ nghĩa cộng sản tàn tệ như vậy thì không phải chỉ có Mỹ mới muốn ngăn lại.

  4. Cũng không thể không quan tâm đến một số mặt chính đáng trong cái mô hình “không cộng sản” mà Mỹ dự định xây dựng cho những nước nằm trong quỹ đạo của nó. Nhất là với những nước thuộc Thế giới Thứ ba được coi như chiến trường thử thách việc “ai thắng ai” giữa “hai con đường”. Với chủ đích đó, mô hình do Mỹ đề xuất cho những nước chậm tiến rất khác với mô hình thống trị thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cổ điển. Đó là một mô hình về phát triển đặc biệt dành cho những nước chậm phát triển, với mô hình ấy, những nước này có thể có được cơ hội để cất cánh nhanh chóng trong tự lực. Cái giả định cho rằng nếu Mỹ không vấp phải những sai lầm ở Việt Nam thì tương lai của cái thực thể chính trị mang danh là “Việt Nam Cộng Hoà” sẽ hoàn toàn có khả năng đứng ngang hàng với những thực thể khác cùng nằm dưới cái dù bảo trợ của Mỹ (như Nam Hàn, Đài Loan, Thái Lan, Indonesia v.v…), cái giả định ấy không phải là không mang tính hiện thực [6] .


Việc Đảng Cộng sản đánh bại Mỹ ở Việt Nam

Dưới những hình thức can thiệp như trên, với sức mạnh của một siêu cường, thống soái phe tư bản chủ nghĩa trong cuộc Chiến tranh Lạnh, Mỹ đã tạo ra được một cơ hội bằng vàng là dựng nên được một “quốc gia” Việt Nam Cộng Hoà để thực hiện mục tiêu của mình, nhưng tại sao đã thất bại hoàn toàn?

  1. Câu hỏi trên đây cho đến ngày nay, sau 30 năm, người Mỹ vẫn chưa tìm được sự trả lời thống nhất. Hàng loạt nguyên nhân đã được đưa ra: không phát huy được hết sức mạnh vì bị trói chân trói tay (về chính trị, phương tiện lẫn thời gian…); lao vào một chiến trường xa lạ để đánh nhau với một đối thủ mà mình không hiểu rõ; sai lầm về đối sách với đồng minh bản địa (ủng hộ nhà độc tài Ngô Đình Diệm rồi sau đó lại lật đổ ông ta làm cho tình hình rối ren thêm); đánh giá không hết ý chí và tiềm lực của kẻ thù; không đưa ra được một cuộc cải cách xã hội có hiệu quả để đối phó với cuộc cách mạng cộng sản; sai lầm về học thuyết domino v.v… Do xuất hiện từ tình thế thất bại cho nên hầu hết các ý kiến trên đây đều mang nội dung của những “bản tự kiểm” cay đắng.

  2. Còn đối với những người cộng sản chiến thắng thì câu trả lời trước sau vẫn là duy nhất. Mỹ thất bại ở Việt Nam là vì Mỹ xâm lược, Việt Nam thắng Mỹ là vì Việt Nam chiến đấu bảo vệ tổ quốc của mình, Việt Nam được nhân dân tiến bộ trên thế giới ủng hộ, bầu bạn (phe ta) giúp đỡ và trên hết Việt Nam thắng Mỹ vì Việt Nam có Đảng Cộng sản lãnh đạo tài ba với đường lối khoa học, đúng đắn: kết hợp chủ nghĩa yêu nước truyền thống với chủ nghĩa xã hội... Không phải những câu trả lời trên đây không chứa đựng ít nhiều sự thật, nhưng do xuất phát từ ý định lợi dụng lịch sử để củng cố quyền lực hiện tại cho Đảng, nên không tránh khỏi phiến diện, một chiều, huênh hoang, đắc chí. Tất cả mọi luận điểm nói trên đều dựa vào ý thức hệ chính thống gọi là “Mác-Lênin”, lấy ý thức hệ ấy để giải thích mọi thắng lợi, nhưng trong khi lập luận thì lại cố tình không nói gì đến những sai lầm cực kỳ tệ hại mà chính cái ý thức hệ ấy đã mang đến cho đất nước, trong thời chiến tranh lẫn thời hoà bình.

  3. Nhìn lại mọi việc từ một khoảng lùi về thời gian, chúng ta thấy về phía Mỹ, ý định xây dựng ý thức hệ cho sự can thiệp của mình vào Việt Nam đã hội đủ nguyên nhân để thất bại. Sự thất bại ấy biểu hiện trước nhất ở chỗ Mỹ không tạo nên được một chính quyền không cộng sản ở miền Nam có đủ năng lực và chính nghĩa để đương đầu với phong trào nổi dậy tại chỗ do trung ương Đảng Cộng sản từ miền Bắc chỉ đạo [7] . Chính sự thất bại đó (chính phủ Ngô Đình Diệm là sự khởi đầu) đã khiến Mỹ phải từ bỏ vai trò giấu mặt để trực tiếp nhảy vào giải quyết bằng chiến tranh. Một cuộc chiến tranh mà tác dụng đầu tiên của nó là càng làm cho những chính quyền sau Ngô Đình Diệm trở thành những hình nộm của Mỹ. Và cũng là một cuộc chiến tranh mục đích không phải chỉ để giết hại những người cộng sản cầm súng mà là để tiêu diệt tất cả những gì nằm dưới tầm rơi của bom Mỹ, dù đó là con bò, cành cây hay một đứa bé. Chính hành động can thiệp khủng khiếp này đã đập vỡ toàn bộ những dự định xây dựng, những hứa hẹn của Mỹ cho Việt Nam, làm cho hình ảnh của Mỹ ở Việt Nam trở một đế quốc tàn bạo trước mắt thế giới.

  4. Chính cái hình thức và quy mô can thiệp trắng trợn và dữ dội nói trên của Mỹ đã giúp những người cộng sản miền Bắc có cơ hội làm lắng xuống những tai hại về ý thức hệ mà họ đã gây ra trong những cuộc đấu tố, cải cách ruộng đất, đàn áp trí thức… để giương lại ngọn cờ dân tộc mà họ đã chiếm giữ được từ thời chống thực dân, sau đó ồ ạt đưa người vào Nam “đánh Mỹ”. Sự thắng lợi của cộng sản Việt Nam hoàn toàn không phải là sự thắng lợi về ý thức hệ (chủ nghĩa Mác-Lênin bách chiến bách thắng) như những nhà lý luận cộng sản đã khoe mà chính là sự thắng lợi của ý chí chống ngoại xâm mà Đảng cộng sản Việt Nam đã biết khơi dậy để lôi những người Việt Nam “không cộng sản” vào cuộc chiến đấu của mình. Thật đáng ngạc nhiên khi nghe nhắc lại chuyện đã qua, chúng ta chỉ thấy người phía bên này chửi rủa những người phía bên kia, người thất bại cãi cọ với người chiến thắng nhưng không mấy ai nhắc đến một cách đúng mức vị trí của những người khởi đầu chẳng theo bên này lẫn bên kia (những người “không cộng sản” thứ thiệt), nhưng cuối cùng đã phải đứng lên “chống Mỹ như những người Việt cộng sản” vì không thể ngồi nhìn bom đạn Mỹ dội xuống đất nước như một sự huỷ diệt, tiến hành bởi một đoàn quân viễn chinh mà sứ mạng “bảo vệ tự do” của nó rút lại là đồng nghĩa với huỷ diệt [8] .


26-5-2005



[1]Bạn đọc có thể tham khảo một số tiểu luận, sách hoặc trả lời phỏng vấn sau đây để hiểu thêm quan điểm của tác giả về vấn đề trên: Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa xã hội, Chủ nghĩa dân tộc Việt Nam, Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh, Nói chuyện với Lữ Phương về vấn đề Hồ Chí Minh… – tất cả đều có thể tìm thấy trên ykien.net hoặc doithoai.com.
[2]Chỉ có Phan Chu Trinh vào thời kỳ đó chủ trương phi bạo lực. Nhưng ngoài “Hội đồng bào thân ái” (một tổ chức tương tế ra đời 1912 ở Pháp) ông không hề thành lập một đảng chính trị nào để đấu tranh cho mục đích của mình. (Xem Lữ Phương: Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh).
[3]Xem FREDERICK M. WATKINS: The Age of Ideology – Political Thought, 1750 to the Present, Prentice-Hall Intrenational, Enghlewood Cliffs, New Jersy, 1964; bản Pháp văn: L’ère des idéologies; la pensée politique de 1750 à nos jours, Nouveaux Horizons, 1966.
[4]Vấn đề tranh cãi giữa những người cộng sản hay không cộng sản ở đây không phải là ai yêu nước hơn ai mà là tại sao những lực lượng chống thực dân không cộng sản lại để ngọn cờ dân tộc ấy rơi vào tay Đảng Cộng sản. Chính những người không cộng sản – chứ không phải là ai khác – phải có nhiệm vụ trả lời cho thoả đáng câu hỏi này chứ không phải ngồi đó nguyền rủa hoặc trách móc về cái giá mà dân tộc phải trả cho sự chiến thắng của cộng sản. Đối với quá trình phát triển của đất nước, sự chiến thắng đó chỉ là những sự kiện mà lịch sử phải ghi nhận như tất cả những gì đã xảy ra trong quá khứ, không bao hàm một giá trị có ý nghĩa quyết định nào cả.
[5]Về đề tài này xin đọc cuốn The Pentagon Papers do Bentam Books xuất bản năm 1971 theo bản in của The New York Times. Đây là công trình của 36 tác giả giấu tên (do Mc. Namara, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ thời Johnson chỉ thị thực hiện), đa số là nhân viên dân sự và quân sự trong trong chính quyền Mỹ, khởi đầu từ giữa 1967, mất một năm rưỡi mới xong và mang tên là Lịch sử tiến trình tạo lập và quyết định của Hoa Kỳ về chính sách Việt Nam, dài hơn 7000 trang, gần một triệu rưỡi chữ về phần kí sự lịch sử cộng thêm một triệu rưỡi chữ tài liệu. Phúc trình đã vạch rõ chính sách của Hoa Kỳ với Đông Nam Á từ những lời tuyên bố của Tổng thống Roosevelt tới giai đoạn khai diễn cuộc hoà đàm về Việt Nam vào mùa hè 1968. Hồ sơ bí mật này đã bị Daniel Ellsberg, một nguời góp phần soạn thảo, tiết lộ, được Nữu ước thời báo, Thời báo, Hoa Thịnh Đốn bưu điện báo đăng tải vào khoảng giữa tháng 6-1971. Nhà thơ Diễm Châu của tạp chí Trình bày ở Sài Gòn đã dịch một phần (từ thời Truman, sau lá bài Bảo Đại cho đến thời Kennnedy, sau khi Diệm đổ), đăng liên tục từ số 26 tháng 8-1971 đến số tháng 9-1972. Đây là một tài liệu phải có cho bất cứ ai muốn nghiên cứu về chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam.
[6]Lê Xuân Khoa, talawas 29-4-2005.
[7]Hãy thử đọc một câu trong Phúc trình nghiên cứu mật nói trên: “… American intelligence estimates during the nineteen-fifties show that the war began largely as a rebellion in the South against the increasingly oppressive and corrupt regime of Ngo Dinh Diem” (Tài liệu đã dẫn, tr. 67).
[8]Có thể nói đây là sự phản ứng đích thực nhất những người “không cộng sản” với cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam: trước nguy cơ dân tộc bị huỷ diệt, sự khác nhau về ý thức hệ sẽ không còn quan trọng nữa. Đảng Cộng sản đã khai thác triệt để tình cảm này và đã lôi kéo rất nhiều người vào hàng ngũ của họ, nhưng cũng phải nói rằng chính cái hình thức can thiệp bằng chiến tranh huỷ diệt của Mỹ đã đẩy rất nhiều người về phía cộng sản từ đó trở thành những người thân cộng. Thiết tưởng, nhắc lại cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam không thể bỏ qua hiện tượng quan trọng này.