trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 235 bài
  1 - 20 / 235 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tư tưởngChiến tranh nhìn từ nhiều phía
30.5.2005
Lữ Phương
Chiến tranh Việt Nam: Chủ quyền quốc gia, xung đột ý thức hệ và hoà giải dân tộc
 1   2 
 
Những cựu thù, ai thắng ai?

Hiển nhiên Đảng Cộng sản đã thắng và Mỹ đã thua. Nhưng đó là chuyện của thời điểm 30 tháng 4 cách đây đã 30 năm. Bây giờ khi nhìn lại mọi việc, ý nghĩa và hậu quả của việc thắng bại ấy không còn như trước nữa.

  1. Sự chiến thắng của Đảng Cộng sản là một sự kiện động trời với nước Mỹ và ngoạn mục với thế giới. Nhưng với Việt Nam, sự chiến thắng ấy chỉ đem lại cho tuyệt đại đa số những người dân bình thường điều mà họ đã mòn mỏi mơ ước từ lâu: đất nước được hoà bình. Và hơn nữa, phục hồi lại toàn vẹn chủ quyền trong thống nhất, từ đó tạo điều kiện cho những giấc mơ mới sinh thành. Nhưng chưa kịp định hình thì những giấc mơ này đã tan vỡ ngay lập tức. Đảng Cộng sản khai thác được sức mạnh của dân tộc để chống ngoại xâm, nhưng ý thức hệ cộng sản đem vào xây dựng lại hoàn đi ngược những điều đơn giản: chữa lành những vết thương chiến tranh, tạo dựng lại cuộc sống yên ấm cho nhân dân. Tất cả những sai lầm từ miền Bắc mệnh danh “xã hội chủ nghĩa” sau khi thắng Pháp nay đã được lập lại nguyên vẹn ở miền Nam sau khi thắng Mỹ: cũng trả thù những người khác chiến tuyến, khắc nghiệt với những người khác ý kiến, cũng đấu tranh giai cấp bằng cải tạo ở thành thi, hợp tác hoá ở nông thôn, gây ra đói nghèo, khổ sở, khiến bao người bỏ nước ra đi… trong khi đó thì ồn ào phất cờ “tiểu bá” tạo cớ cho người anh em “đại bá” đưa xe tăng và đại pháo tràn sang biên giới nhen lại chiến tranh. “Thắng trong chiến tranh nhưng bại trong hoà bình” [1] , đã có hơn một tác giả phương Tây từng ủng hộ Việt Nam trước đây nhận xét như vậy sau khi Việt Nam thống nhất không lâu.

  2. Nhưng với Mỹ thì có khác. Kỷ niệm 30 năm sau cái ngày 30 tháng 4 u ám, đáng lẽ phải quên thì một tờ báo Mỹ đã không quên mà lại khẳng định: “Nước Mỹ đã thua”, nhưng liền sau đó (với một dấu phẩy) lại là một khẳng định khác khá thú vị: “Chủ nghĩa tư bản đã thắng” (America lost, capitalism won) [2] ! Tất cả đều “đã” thì có nghĩa là mọi việc đã hiển nhiên rồi. Và như vậy thì cũng có nghĩa là Mỹ đã không thua hoàn toàn, Mỹ chỉ thất bại trong cái ý thức hệ can thiệp và chiến tranh nhưng đã không thất bại trong cái ý thức hệ xây dựng và phát triển. Triển vọng về một Việt Nam “hoá rồng” theo cái mô hình châu Á mà Mỹ đã tạo điều kiện cho nhiều nước thực hiện trong thời chiến tranh Việt Nam hiện nay lại đang là sự phấn đấu vươn tới của nhiều thế hệ người Việt Nam đã sống sót và đã sinh ra sau cuộc chiến tranh ấy. Một người xa quê hương 30 năm, nay trở về thăm nhà chắc hẳn sẽ có dịp thấy tận mắt điều đó đang diễn ra như thế nào. Rõ ràng là “chủ nghĩa tư bản” đã được phục hồi. Với tất cả những nô nức hứa hẹn thăng tiến cuộc sống xen lẫn với nghèo đói, ma tuý, mại dâm, tội ác, tham nhũng… ồn ào, chụp giật, rừng rú, vui buồn đủ thứ nhưng đó vẫn là “chủ nghĩa tư bản” chứ chẳng phải là cái gì khác. Chính trên cơ sở của sự chuyển động hạ tầng này mà Mỹ đã có thể làm hoà để trở lại đất nước của kẻ thù cũ của mình, với những toan tính mới của một siêu cường, nhưng không phải bằng bom đạn và chất độc khai quang.


“Đồng hồ đã dừng lại sau ngày 30.4.1975”!

Vấn đề thực sự nhức nhối hiện nay của Việt Nam chỉ còn là vấn đề giữa những người Việt Nam với nhau, nặng nề nhất vẫn là giữa những người “Việt Nam Cộng Hoà” “thất bại” phải di tản ra “hải ngoại” và những người lãnh đạo cộng sản “chiến thắng” đương quyền ở “nội địa”. Tình trạng căng thẳng giữa hai bên cho đến nay vẫn không có dấu hiệu suy giảm.

  1. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam thì sự việc là quá đơn giản như chúng ta đã biết: họ là người chiến thắng! Tất nhiên không phải hễ ai chiến thắng thì có được chân lý. Nhưng bởi vì người chiến thắng ấy là những người theo chủ nghĩa cộng sản stalinít thì không phải chỉ chân lý mà cả lòng yêu nước, lịch sử, tương lai, khoa học, văn hoá … cũng phải xếp cùng hàng với họ. Chính cái ý thức hệ stalinít ấy đã tạo cho họ cái tâm thế đặc thù ấy. Cho nên đòi hỏi họ phải hạ mình xuống xin lỗi những người đã bị họ đánh bại là chuyện khó có thể xảy ra. Họ có thể thay đổi về sách lược và ứng xử, nhưng ít khi nào trực tiếp bày tỏ công khai, minh bạch mà chỉ bộc lộ qua một số tín hiệu nào đó, gián tiếp và mập mờ. Ngay cả khi làm như vậy họ cũng cố giữ tư thế của kẻ bề trên cúi xuống chiếu cố những người bên dưới – trong khi vỗ về kêu gọi “khép lại quá khứ” thì vẫn cứ gồng gân lên lớp người ta về lập trường yêu nước, cuối cùng thì mới hể hả kêu gọi… kết đoàn [3] !

  2. Cái cung cách chơi kèo trên ấy chắc chắn chỉ có tác dụng tưới thêm dầu vào ngọn lửa hận thù ngùn ngụt của cái cộng động hải ngoại mệnh danh là “Việt Nam Cộng Hoà”. Tập thể lưu vong đặc biệt này, không đại diện được cho tất cả các cộng động những người Việt Nam ở nước ngoài (bao gồm nhiều thành phần phức tạp về nguồn gốc, thế hệ, tầng lớp, tuổi tác, khuynh hướng) nhưng do có được cái danh nghĩa của cả một chế độ từng tồn tại trên một miền đất nước, được chính phủ Mỹ mang theo trong những ngày thất bại, nên với một số lượng khá lớn chạy ra nước ngoài, họ đã đứng lên nhận lãnh nhiệm vụ phục hồi danh nghĩa cho cái thực thể chính trị ấy, qua đó lôi kéo những thành phần khác vào quỹ đạo của mình, xây dựng lực lượng, hy vọng có được cơ hội trở về tái tạo cơ đồ. Cái tâm thế lưu vong của họ vì vậy cũng khá đặc biệt. Là nạn nhân của hàng loạt những yếu tố đưa đến sự thất bại đau đớn, trông chờ mờ mịt, sự tồn tại ngày nay của họ là sự tồn tại của những dằn vặt, uất ức hận thù không thể nào nguôi.

  3. Được chính phủ Mỹ giúp đỡ cưu mang, nhưng họ luôn chỉ trích, cho rằng người đồng minh cũ này đã không giúp họ tiến hành cuộc chiến chống cộng đến cùng. Không ít những nhân vật cùng chiến tuyến cũng đã bị họ bêu rếu không thương tiếc vì đã làm “mất nước” do thối nát, ươn hèn. Đả kích những người thiên tả phản chiến (Mỹ lẫn Việt) cho rằng bọn này “đã nối giáo cho giặc”, họ cũng mạt sát thậm tệ, coi là tay sai của kẻ thù, những ai cất lên thứ tiếng nói không được coi là dứt khoát và quyết liệt về lập trường như họ. Tất nhiên đối tượng mà họ căm ghét nhất chính là những người cộng sản trong nước cho nên họ đã dành rất nhiều thời gian, giấy mực, lời lẽ để đả kích, chửi bới. Chửi đủ kiểu cách, bất cứ chỗ nào cũng chửi được, bất cứ ai cũng có thể chửi được (ồn ào nhất là trên những diễn đàn mạng). Nhiều khi chẳng cần lý lẽ, chẳng cần lọt tai người nghe. Miễn cứ chửi cho đã, ngang ngược, thô tục. Nhưng cũng thật lạ lùng: có lúc người ta thấy những lời lẽ ấy bị chụp cho cái nón cối màu xanh lá cây với lý do: những sự chửi bới quá dữ dằn ấy chỉ có thể là thủ đoạn khiêu khích của “bọn cộng sản nằm vùng” [4] !


Cơ sở nhận thức cho cuộc hoà giải giả tưởng

Sau 30 chấm dứt chiến tranh, việc hoà giải giữa những người Việt Nam thù địch với nhau không thể không đặt ra khi quan hệ giữa Mỹ và cộng sản Việt Nam đã trở lại bình thường. Nhưng vấn đề này sẽ không thể tiến được một bước nào nếu trước nhất hai bên không chấp nhận “nhìn lại” những việc đã qua một cách khách quan, bình thản.

  1. Về phía những người Việt Nam Cộng Hoà, điều khó nhất trong nhận thức là không bao giờ thay đổi được niềm tin cho rằng sự tồn tại của cái thực thể Việt Nam Cộng Hoà ấy là sự tồn tại của một thực thể độc lập có chủ quyền như một quốc gia riêng biệt, vì đó đã giải thích sự thất bại của mình như sự sụp đổ của một “quốc gia” này (miền Nam) bị một “quốc gia” khác (miền Bắc) xâm lược. Họ không thể nào nhìn ra được thực chất của cái thực thể gọi là Việt Nam Cộng Hoà ấy (từ chính phủ của Ngô Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu) chỉ là sản phẩm của cuộc Chiến tranh Lạnh toàn cầu do Mỹ dựng nên để thông qua đó can thiệp vào Việt Nam, từ đó nhận ra rằng sự thất bại của họ cũng chính là sự thất bại trong cuộc chiến tranh đó chứ không phải là cái gì khác. Họ cũng không thể nào lay chuyển được cái quan niệm về chủ nghĩa cộng sản Việt Nam, coi đó chỉ là tôi tớ trung thành của bọn ác ôn “Nga, Hoa” chuyên nghề cướp của giết người và nô dịch các nước – hoàn toàn không cần biết rằng sự xuất hiện của phong trào cộng sản thế giới trước nhất là để chống lại những áp bức, bất công do chế độ tư bản gây ra [5] ; cũng chẳng cần quan tâm gì đến cội nguồn của phong trào cộng sản Việt Nam là sự nổi dậy của những người bị lệ thuộc chống lại chủ nghĩa thực dân, tuy có dựa vào Quốc tế Ba, bị nước này nước này nước nọ trong phe o ép, lôi kéo, nhưng để đạt được mục đích riêng của mình, chưa bao giờ chấp nhận để các thế lực ngoại bang này biến thành một công cụ hoặc một thứ tay sai ngoan ngoãn [6] .

  2. Phần những người cộng sản chiến thắng thì tuy đã hoàn thành được sự nghiệp giành lại chủ quyền cho dân tộc nhưng những sai lầm về ý thức hệ của họ lại rất nặng nề. Họ không bao giờ thấy được độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là hai chuyện không có cùng một bản chất, không thể dùng cái này để biện minh cho cái kia. Nếu việc những người cộng sản đánh đuổi được thực dân, đem lại độc lập và thống nhất cho đất nước đến nay đã được coi là hiển nhiên với lịch sử thì cũng chính qua cuộc đấu tranh giành độc lập ấy, việc họ mang về cho đất nước cái “của nợ” ý thức hệ mệnh danh là “chủ nghĩa xã hội” gây ra bao nhiêu tai hoạ cho người Việt Nam ngay sau khi chiến thắng cũng đã trở thành hiển nhiên như vậy. Chính vì cứ bám víu quyết liệt vào cái ý thức hệ có được nhờ chiến tranh đó, dựa vào nó để biện minh cho chế độ chuyên chính đương quyền hoàn toàn bất lực trong công cuộc hiện đại hoá đất nước mà những người lãnh đạo Đảng đã đưa dân tộc sau ngày sau 30-4-1975 vào một cuộc chia rẽ mới, đau đớn và tuyệt vọng chưa từng có. Những người cộng sản không thể nào hiểu được thái độ thù hận quyết liệt của một bộ phận người Việt hải ngoại hiện nay, khởi đầu chỉ là kết quả của cuộc chiến tranh thất bại của Mỹ, nhưng cùng với thời gian đã được tô đậm thêm nhiều lần để trở thành cực đoan là đã bắt nguồn từ những sai lầm do chính những người cộng sản gây ra cho đồng bào trong nước của mình, những người gọi là “được giải phóng”, chứ không phải là cái gì khác.

  3. Thật đáng buồn, trong khi hai cựu thù chính yếu của cuộc chiến tranh 1954-1975 đã quan hệ lại bình thường thì với người Việt Nam mọi chuyện vẫn còn như xưa. Chưa bên nào chịu bước tới một bước để ngồi lại cùng nhau tìm ra nguyên nhân đích thực đã biến những người anh em thành những “anh em thù hận”. Nói như một nhà văn hải ngoại: “đồng hồ đã dừng lại sau 30-4-1975” [7] ! Tình trạng căng thẳng kéo dài ấy chắc chắn không mang lại một chút lợi ích nào về mặt tinh thần cho những người Việt Nam khắp nơi, dù thuộc bên này hay bên kia, dù trong nước hay ngoài nước. Nó chỉ có tác dụng làm ung thối cái không gian văn hoá của mọi người, bắt đông đảo những con người bình thường ở hai bên, không màng đến ý thức hệ, hoặc không coi ý thức hệ là cái vì nó mà người ta phải bắn giết nhau – trong đó rất đông là lớp người trẻ tuổi sinh ra trong thời kỳ sau chiến tranh – phải hít thở cái không khí truyền thông đầy khói súng của hai bên, tràn ngập những thứ ngôn ngữ thoá mạ, chửi rủa, bôi nhọ, sỉ vả, những thứ ngôn ngữ kết dệt bằng bịa đặt, vu khống, bất chấp sự thật, bất chấp lý trí… những thứ chữ nghĩa của những nguời tìm mọi cách đào bới từ cuộc chiến tranh đã qua những yếu tố hận thù để tiếp tục cuộc chiến tranh mang tên “nội chiến ý thức hệ”, một cuộc chiến tranh chưa bao giờ thật sự xẩy ra trên đất nước.


Hãy cho đồng hồ chạy lại!

Có thể có một cuộc hoà giải hiện thực trong tương lai không? Cái gì sẽ tạo ra cơ sở hiện thực cho cuộc hoà giải đó? Câu trả lời tích cực cho những vấn đề này tất yếu sẽ phải gạt sang một bên cuộc xung đột cân não ồn ào của những cựu binh chủ chiến của hai bên mà chỉ có thể tìm thấy nơi những xu hướng tư duy mới, thoát khỏi được sự xiềng xích của cuộc chiến tranh cũ, đang hình thành.

  1. Phải thật công bằng mà nói, góp phần mạnh mẽ tạo ra xu hướng mới ấy chính là chính sách “đổi mới” của Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện từ 1986 cho đến nay. Mặc dù khó khăn, giục giặc, mặc dù vẫn còn bị cái đuôi ý thức hệ “xã hội chủ nghĩa” thời chiến tranh trì kéo nặng nề, nhưng nội dung của sự chuyển động đó không phải cái gì khác hơn là một hình thức từ bỏ chính cái ý thức hệ mệnh danh là “xã hội chủ nghĩa” ấy, với tác dụng rành rành của nó là giam hãm đất nước trong cô lập, nghèo nàn. Và cũng nhờ vào sự chuyển động đó mà bộ mặt của Việt Nam ngày nay đã khác rất nhiều so với 30 năm trước đây – đất nước đã giải quyết xong vấn đề “ai thắng ai” rồi! Trong tình hình ấy, việc mở cửa với thế giới bên ngoài, đặc biệt việc đặt lại quan hệ bình thường với Mỹ là tiền đề quan trọng để lôi kéo những người Việt Nam bỏ nước ra đi (trong đó có rất nhiều nhân vật thuộc chính quyền Việt Nam Cộng Hoà) nay có thể nhìn lại quê hương như một xứ sở đã có được những điều kiện bình thường để trở về thăm viếng, sinh sống, làm ăn. Sự khác biệt giữa cái gọi là cộng sản và không cộng sản vẫn còn tồn tại nhưng cũng đã thu hẹp lại phạm vi bất đồng và không còn đưa đến những căng thẳng có thể gây “xung đột” như trước đây. Sự khác biệt trong vấn đề này dường như đang có thiên hướng trở thành thứ yếu khi đặt bên cạnh những vấn đề khác quan trọng hơn nhiều lần: vấn đề tìm kiếm một mô hình phát triển dân chủ để đuổi kịp những nước trong vùng.

  2. Chính quá trình đổi mới này đã có tác động tạo ra từ hai phía một xu hướng suy tưởng thoát ra khỏi những ràng buộc của những ý thức hệ ra đời trong chiến tranh để nhìn lại lịch sử theo một viễn quan thực tế, từ đó cùng nhau tìm kiếm lời giải đáp thích hợp cho những vấn đề đang đặt ra cho đất nước hiện nay. Hàng ngũ những người cộng sản trong nước (ngay cả những người thuộc vị trí lãnh đạo) cũng đã phân hoá thành rất nhiều “quang phổ” khác nhau: bên cạnh một số bảo thủ cứng rắn ngày càng già nua và bị cô lập, đa số đều đi theo xu hướng cải cách dưới nhiều mức độ, từ việc chấp nhận những “đổi mới” như hiện nay đến việc đòi hỏi canh tân nhiều hơn trong vấn đề luật pháp, hành chính, quản lý xã hội, từ việc đòi hỏi phải thực hiện dân chủ thực sự ở “cơ sở” một cách thiết thực đến việc đề xuất một cơ chế dân chủ trong đảng, tạo ra một hệ thống kiểm soát để tránh độc đoán và lạm quyền, rồi từ trong đảng mở rộng ra toàn bộ xã hội. Chính những chuyển động nội tại đó đã có tác động hình thành xu hướng rất mới ở Việt Nam hiện nay, thường được gọi là “cấp tiến”, bao gồm rất nhiều thành phần khác nhau, thuộc nhiều thế hệ khác nhau, với nội dung ngày càng được xác định minh bạch là phải từ bỏ chế độ toàn trị stalinít để chuyển sang xây dựng chế độ dân chủ đa nguyên hiện đại. Mặc dù bị những phần tử cứng rắn đương quyền bội nhọ, cô lập, bắt bớ, ngăn cấm bằng mọi hình thức nhưng xu hướng này vẫn không thể dập tắt được.

  3. Ở hải ngoại, xu hướng mới cũng đã hình thành với rất nhiều sắc độ. Có khi chỉ với tư cách của những người anh em muốn vượt qua các bức tường không phải do mình tạo ra để ngồi lại với nhau nói chuyện văn nghệ cho vui. Nhưng cũng nhờ thái độ này, giới văn nghệ trong và ngoài nước đã xoá bỏ được triệt để sự cách biệt trước đây để cùng nhau hình thành nên một số khuynh hướng sáng tác mới, nay đã bộc lộ trong một số báo điện tử hải ngoại. Nhiều người khác, riêng rẽ hoặc kết tập thành nhóm, đã nói đến những chuyện hoà hợp, hoà giải một cách trực tiếp, với những quan điểm chính trị không phải lúc nào cũng giống nhau, từ việc nhìn lại cuộc chiến tranh đã qua về nhiều mặt, giải thích sự thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản lẫn sự thất bại của phe quốc gia đến việc xây dựng một cương lĩnh cho đất nước trong tương lai… Nhưng hầu như tất cả đều không chấp nhận thái độ quá khích, chỉ biết chăm chăm chống cộng một cách mù quáng, với những mưu toan dùng vũ lực hoặc sử dụng biện pháp trừng phạt (không về nhà và không gởi tiền về nhà, yêu cầu Mỹ cô lập Việt Nam…), còn với người cùng hội cùng thuyền thì lại viện đến những thủ đoạn hăm doạ, chửi bới, vu cáo, bắn giết…hết sức cực đoan. Chủ nghĩa cộng sản vẫn là đối tượng phê phán của xu hướng mới này nhưng điều đó chỉ xuất phát từ ý hướng muốn dân chủ hoá đất nước chứ không phải vì thù hận cần phải dùng bạo lực để triệt tiêu.

  4. Sự xuất hiện những xu hướng trên đây, từ trong nước đến hải ngoại, đang đóng vai trò đầu tiên của chúng là hạn chế và cô lập dần dần những tiếng nói của những thành phần bảo thủ hiếu chiến của hai bên. Nhưng quan trọng hơn là chúng đã tạo ra được một môi trường thuận lợi để những khác biệt về tư tưởng có thể cọ xát và tranh luận trong đối thoại và hoà bình, không những có lợi cho đời sống văn hoá mà còn có tác động tích cực trong việc tìm ra những giải pháp thích hợp cho việc xây dựng một nước Việt Nam trong tương lai, ở đó sự phát triển đời sống kinh tế xã hội không thể nào tách rời khỏi nhu cầu dân chủ hoá đời sống chính trị, văn hoá. Trong viễn cảnh đó, những khác nhau về ý thức hệ phải được xem là cần thiết, nó làm phong phú những hoạt động tinh thần và ngăn ngừa khả năng một hệ tư tưởng nào đó trượt dài vào cái vũng lầy độc tôn, tệ hại hơn nữa biến sự khác nhau về tư tưởng thành cuộc chém giết lẫn nhau. Sự phát triển của những xu hướng văn hoá lành mạnh đó chưa phải là đã gặp được mảnh đất màu để phát triển dễ dàng nhưng được cuộc sống thực tế yểm trợ, nên có rất nhiều triển vọng.
Cái đồng hồ đã bị ai đó làm cho dừng lại vào ngày 30-4-1975 đến nay tưởng đã có thể điều chỉnh ngày tháng và cho chạy lại được rồi!

26-5-2005


© 2005 talawas



[1]Như Gabriel Kolko trong Anatomy of a War: Vietnam and the Modern Historical Experience, New York: The New Press, 1985, chương Epilogue; ý tưởng nói trên được Kolko khai triển trong Vietnam: Anatomy of a Peace , 2002.
[2]“America lost, capitalism won”, Economist.com, 25-5-2005.
[3]Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với người Việt của phạm trù “Việt Nam Cộng Hoà” đã được trình bày trong bài “’Gọi tên cuộc chiến’ hay xuyên tạc sự thật?” của Nguyễn Hoà, trên Nhân Dân (nhật báo chính thức của Đảng) ngày 15-3-2005, tranh luận với bài “30 năm sau vẫn còn tranh luận: Chiến tranh của Mỹ hay chiến tranh Việt Nam?” của Lê Xuân Khoa trên mạng BBC ngày 15-2-2005. Bài trả lời của Lê Xuân Khoa gửi đến báo Nhân Dân không được đăng và cũng không được trả lời: cho đến bây giờ “chơi kèo trên” để phán một lần là xong vẫn là thói quen không thể nào từ bỏ được của những nhà quản lý tư tưởng của Đảng!
[4]Về hiện tượng “chửi” rất đặc biệt này, xem “Nhặt lại những mảnh vụn” của Phan Xuân Sinh, talawas 23-5-2005 và “Cứ chửi đi không sao đâu” của Trần Trung Việt trên Đàn Chim Việt online (TTV blog’s, 29-5-2005).
[5]Hãy đọc nhận định sau đây của Giáo Hoàng Jean-Paul II về chủ nghĩa cộng sản: “Le communisme en tant que système est, d’une certaine manière, tombé tout seul. Sa chute est la conséquence de ses erreurs et de ses excès. Il s’est révélé ‘un remède plus dangeureux que la maladie elle-même’” (Entrez dans l’Espérance, Plon/Mame, Paris, 1994, tr. 204). Một thang thuốc trị bệnh nguy hiểm hơn bản thân căn bệnh, chứ không hề là một CÁI ÁC TUYỆT ĐỐI như một số người công giáo (và không chỉ là công giáo) hải ngoại đã cho là như vậy!
[6]Vấn đề lịch sử phức tạp này đến nay vẫn đang còn được bàn cãi theo những định kiến thuần ý thức hệ, đơn giản, dễ dãi. Điều này không những chỉ xẩy ra trong hàng ngũ những tác giả cộng sản mà còn trong hàng ngũ những người đã từ bỏ cộng sản, những người chống cộng và không cộng sản.
[7]Nguyễn Mộng Giác, Hợp lưu tháng 4 và 5–2005.