trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
Tư tưởng
  1 - 20 / 177 bài
  1 - 20 / 177 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tư tưởngLịch sử
5.8.2005
Vũ Ngọc Tiến
Ðiều tra đời sống nông thôn Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1975
3 kì
 1   2   3 
 
II. Giai đoạn 1961-1965: Tiếng gà thay bằng tiếng kẻng

1. Khí thế nông dân

Người nông dân Việt Nam vốn hiền lành, thuần phác, cả tin. Nếu được phát động phong trào gì đem lại lợi ích, họ sẽ đồng loạt hưởng ứng với khí thế ngất trời. Lịch sử ghi nhận những năm nửa cuối thập niên 50, với khí thế “nghiêng đồng đổ nước ra sông”, “vắt đất ra nước, thay trời làm mưa”, nông dân các tỉnh đồng bằng và trung du Bắc Bộ đã nô nức đi lao động công ích trên công trình đại thủy nông Bắc – Hưng – Hải. Ðây là hệ thống công trình thủy nông cực kỳ quan trọng, giải quyết việc tưới tiêu cho nhiều tỉnh, và là công trình khắc đậm vào lòng dân niềm tin yêu, hy vọng vào chế độ mới.

Như đã trình bày trong Bài 1, phần II, mục 1, bước vào mùa xuân Tân Sửu (1961), phong trào hợp tác hóa nông thôn phát triển thành cao trào với khí thế dời non lấp biển, sôi động khắp các làng quê. 2.404.800 hộ vào hợp tác xã, đạt 85,83% số hộ ở nông thôn. Bối cảnh này đã giúp cho nhà văn Ðào Vũ viết cuốn tiểu thuyết Cái sân gạch và trở nên nổi tiếng. Ngày nay đọc tiểu thuyết của ông, có thể không ít người ngờ rằng tác giả đã tô hồng cuộc sống, nhưng lịch sử sẽ ghi nhận ông là cây bút trung thực. Ta hãy nghe lời kể của các nhân chứng thời đó.

Ông NÐT (Bắc Ninh, đã dẫn) kể:

“Xã tôi là vùng quê trù phú, bờ xôi, ruộng mật và là cơ sở du kích mạnh thời chống Pháp. Bản thân tôi cũng đã từng là du kích, sau đôn lên bộ đội địa phương quân. Năm 1955, CCRÐ, mỗi nhân khẩu được chia 8 thước trong đồng và 12 thước ngoài bãi, vị chi là 1 sào 5 thước. Hồi CCRÐ, thôn tôi cũng không tránh khỏi sai lầm. Ông Ðoàn ở xóm tôi là cán bộ Việt Minh khét tiếng anh hùng, giặc treo giải mấy vạn tiền Ðông Dương nếu ai lấy được đầu ông ấy. Ông Ðoàn đang làm đội trưởng cải cách ở ấp Thái Hà ngoài Hà Nội thì bị gọi về quê chịu đấu tố vì mẹ là địa chủ. Người ta hành hạ mẹ con ông cơ cực lắm. Hai năm trời ông Ðoàn chỉ đi mót khoai, mò cua bắt ốc để nuôi mẹ. Năm 1958 sửa sai, ông Ðoàn được phục hồi đảng tịch, được đề bạt làm phó chủ tịch huyện Thuận Thành và chính ông là người nhiệt thành vận động bà con vào hợp tác xã. Ông lăn lộn cùng với bà con khắp làng trên xóm dưới, nói gì nông dân cũng tin tưởng làm theo. Thôn tôi có 4 xóm, năm 1959 thí điểm đầu tiên ở xóm Ðình của tôi và ông Ðoàn, 100% hộ nhất loạt xin vào hợp tác xã. Tiếp theo đó, các xóm Nghè, xóm Sông, xóm Chùa nô nức theo gương xóm Ðình lập hợp tác xã cấp xóm. Hai năm liền hợp tác xã cấp xóm được mùa nên cuối năm 1960 lại học tập và phát động để 100% xã viên 4 xóm tình nguyện sáp nhập thành hợp tác xã cấp thôn. Sang đến vụ mùa năm 1961 lập hợp tác xã cấp cao quy mô toàn xã.”

Câu chuyện kể của ông NÐT vừa nêu không phải là cá biệt. Những nhân chứng khác: ông HTP, dân tộc Tày, sinh năm 1934, ở xã Tam Lung, huyện Văn Lãng – Lạng Sơn; ông NVÐ, dân tộc Tày ở xã Lương Thượng, huyện Na Rì- Bắc Cạn; bà NTL, sinh năm 1939 ở Phố Tăng, huyện Tiên Hưng, Thái Bình; bà NTC, sinh năm 1940 ở xã Ðông Thọ, huyện Yên Phong - Bắc Ninh… đều khẳng định họ và gia đình đều một lòng tin tưởng chính sách hợp tác hóa sẽ đưa nông dân đến ấm no, hạnh phúc. Hình tượng tiếng gà gáy sáng biểu trưng cho nét đẹp, sự yên bình của làng quê giờ thay bằng tiếng kẻng hợp tác xã.

Ông NVX, sinh năm 1944, cựu chiến binh ở thôn Trung, xã Xuân Ðỉnh, huyện Từ Liêm – Hà Nội, kể:

“Một hôm bố mẹ tôi xem họa báo Trung Quốc, thấy 5 đứa trẻ con đứng trên thảm lúa vàng mà cây lúa không đổ, các cụ hồ hởi bảo con cái: ‘Vào hợp tác xã rồi có người lo phân, lo giống, lo nước, mình chỉ phải góp chữ ‘cần’ thôi (cần cù). Nhà mình đông lao động, nhất định sẽ sung sướng’. Có lẽ bức ảnh đó chỉ là nghệ thuật ghép hình để tuyên truyền của người Trung Quốc, nhưng tôi đảm bảo rằng thế hệ tôi ở làng năm ấy say sưa tập hát bài “Công xã nhân dân là mặt trời, xã viên là hoa hướng dương” với niềm tin và hy vọng khôn tả xiết.”


2. Mức sống và chất lượng sống

Tài liệu thống kê về nông thôn lúc này đã được quan tâm nên trước hết, ta xem xét bức tranh đời sống qua các số liệu chính thống:

Thu nhập bình quân đầu người của các hộ xã viên hợp tác xã nông nghiệp, nếu tính bằng tiền, chỉ bằng già nửa các hộ công nhân viên trong biên chế nhà nước. Cụ thể: năm 1961 là 11,50 đồng, 1963 là 12,56 đồng, và năm 1965 là 13,04 đồng. Nếu xét về cơ cấu thu nhập thì năm 1961 thu nhập trong hợp tác xã là 4,50 đồng, ngoài hợp tác xã là 7,00 đồng. Tương ứng các năm sau: 1963 là 4,80 đồng và 7,76 đồng; 1965 là 5,11 và 7,93 đồng. Nguồn thu nhập ngoài hợp tác xã bao gồm thu từ ruộng 5%, sản xuất phụ (đan lát mây tre, làm thảm bẹ ngô…), chạy chợ ngày nông nhàn hay đi làm thuê ngoài thành phố, thị xã. Như vậy thu nhập tổng cộng theo đầu người trên tháng đã thấp, nhưng phần thu nhập ngoài hợp tác xã lại lớn hơn nhiều so với thu nhập trong hợp tác xã. Ðây là một thực tế quái dị mà các học giả nước ngoài khi xem xét tài liệu thống kê không thể hiểu nổi!

Về cơ cấu tiêu dùng của người nông dân, lấy mức thu nhập cả trong và ngoài hợp tác xã theo đầu người trên tháng của năm 1963 là 12,56 đồng để xem xét, ta thấy như sau: chi về ăn 8,27 đồng, mặc 0,87 đồng, ở 0,48 đồng, giải trí tinh thần 0,26 đồng, y tế 0,34 đồng, chi khác 1,39 đồng (chủ yếu là học tập cho con cái). Tổng các khoản chi là 11,61 đồng. Tích lũy chỉ có 0,95 đồng.

Trong Bài 1 viết về đời sống thành thị, khi phân tích cơ cấu thu nhập của xã viên hợp tác xã thủ công nghiệp, tôi đã dẫn lời ông Nguyễn Văn Cược để chỉ ra nguyên nhân của sự bất hợp lý trong cơ cấu thu nhập của các xã viên nói chung (cả nông thôn và thành thị).

Lời kể của ông Nguyễn Văn Cược (Thuận Thành, Bắc Ninh):

“… Ba năm đầu tiến lên hợp tác xã cấp cao, khí thế xã viên đang còn hừng hực, lãnh đạo hợp tác xã chưa bị tha hóa, cung cách làm ăn của ban chủ nhiệm khá quy củ và tương đối có hiệu quả. Về trồng trọt, ngoài bãi có 50 mẫu ruộng chuyên canh mía, cung cấp cho nhà máy đường của tỉnh, còn lại 230 mẫu hè-thu trồng đay xen ngô, đỗ và đông-xuân trồng rau. Khu vực 176 mẫu ruộng trong đồng cấy lúa chiêm mùa 2 vụ là chính, còn một phần thí điểm cấy xen thêm vụ lúa “ba giăng”, năng suất, sản lượng đều khá cao nhờ công tác thủy lợi và làm cỏ bón phân tốt, giá trị ngày công lao động của xã viên khi ấy (1961-1963) là 8 hào đến 1 đồng/1 ngày. Vụ thu hoạch nhà nào cũng đầy thóc, ngô, khoai và đống rơm nào cũng cao to, đánh lên như ngọn tháp vàng ở đầu nhà, nom rất đẹp mắt. Gia đình nhiều lao động hay cán bộ trong ban chủ nhiệm thường đủ gạo ăn quanh năm, thỉnh thoảng có miếng thịt, con cá. Gia đình đông con nhỏ, ít lao động cũng tạm đủ ăn, chỉ phải ăn độn mấy tháng giáp hạt. Ðời sống đã đủ ăn thì chỗ ở cũng được cải thiện dần. Số nhà ngói mọc lên trong thôn khá nhiều, nhất là ở xóm Nghè, rồi đến xóm Ðình. Nhưng bắt đầu từ vụ Ðông Xuân năm 1964, hợp tác xã có xu hướng tụt dốc không phanh do tham nhũng, lãng phí, quản lý lỏng lẻo… Ðời sống xã viên theo đó mà thấp dần, nhiều nhà bị túng đói. Giá trị ngày công từ 0,8-1,0 đồng tụt xuống 6 hào, 4 hào rồi đến mức thảm hại 2 hào 7 xu/ngày. Trừ một vài gia đình cán bộ ra, đa số dân trong thôn chỉ đủ gạo ăn 7-8 tháng trong năm, còn thì phải ăn độn, già nửa là ngô khoai, có nhiều nhà phải ăn độn quanh năm vì phải bán bớt gạo lấy tiền cho con đi học. Nếu 3 năm đầu (1961-1963), hợp tác xã đảm bảo thu nhập cho xã viên được 70-80% thì từ năm 1964 chỉ đảm bảo 35-40%. Lợn ở trại chăn nuôi bị bỏ đói, còi cọc, nuôi cả năm không được 40-50 kg một con. Ao cá chẳng ai trông nom bị mất cắp hoặc vỡ bờ, cá bơi ra ruộng. Dân chán nản chẳng thiết tha với đồng ruộng. Sáng 8 rưỡi-9 giờ mới lững thững đi làm, chiều 3 giờ - 3 rưỡi đã bỏ về. Tiếng kẻng hợp tác xã thời còn ở quy mô cấp xóm (1959) là nét đẹp, sự đổi mới của làng quê, rộn rã gọi xã viên đi làm vào 5 giờ lúc gà gáy sáng, nay nghe buồn thảm uể oải vào 7 giờ mà chẳng thấy ai hưởng ứng. Nhìn ra các xã bên cạnh như Trà Lâm, Trí Quả, Ðại Ðồng Thành trong huyện đều thấy na ná như vậy cả thôi. Tôi tham gia hợp tác xã từ ngày đầu thành lập, từng kinh qua các chức vụ đội trưởng sản xuất, ủy viên ban kiểm soát, phó chủ nhiệm hợp tác xã (1962-1972) nên những lúc đi họp trên tỉnh nghe nhiều nơi còn tệ hại hơn thế, công lao động chỉ đạt 1,4-1,8 hào/ngày…”

Nhà thơ K, sinh năm 1938, công tác tại Nxb Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đã nghỉ hưu, hiện sống ở phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân – Hà Nội, kể:

“Tôi quê ở làng Mão Ðiền, cùng huyện Thuận Thành với ông Nguyễn Văn Cược và ông Hà Sỹ Phu. Tình hình thu nhập trong hợp tác xã của xã viên những năm 60 đúng là rất thấp, chủ yếu là thu nhập ngoài hợp tác xã. Nguyên nhân tham nhũng thời đó có nhưng chưa trầm trọng, chủ yếu là lãng phí. Thóc thu hoạch về nằm kho chờ nộp cho Nhà nước, có khi cả năm đợi vẫn chưa có xe về để giao, vụ nọ chồng lên vụ kia. Ðến khi dỡ ra thì ôi thôi, lớp dưới dày cỡ 1m đã bị mốc xanh mốc đỏ. Dân không có gạo mà ăn, còn Nhà nước và hợp tác xã có lúc đổ đi hàng trăm tấn thóc. Lãng phí lớn nhất là sức lao động. Các công trình thủy lợi, đê điều, lúc thi công các hợp tác xã huy động hàng vạn, có khi hàng triệu công lao động hóa thành bỏ đi, công cốc công cò, vì khi thiết kế không tính kỹ. Liên hoan chè chén lu bù cũng là một hình thức lãng phí khác. Tuy nhỏ, nhưng lại trực tiếp đập vào mắt xã viên, gây bất mãn, lãn công. Nhưng ở quê tôi có một sự thật lạ đời, gạo ở ruộng 5% của nông dân chỉ được ăn, cấm mang ra chợ bán. Quê tôi là đất hiếu học, một làng có hơn chục nhà văn, nhà thơ và rất nhiều người thi đỗ vào đại học. Nông dân ăn độn ngô khoai để dành gạo bán đi lấy tiền nuôi con ăn học thì bị cấm đoán, đến khi họ tìm cách làm bánh chưng, bánh nếp, bánh tẻ đem ra chợ bán cũng thành vi phạm chính sách lương thực và bị tịch thu. Một bà nhà ở đầu làng mấy lần đem bánh đi bán bị các vị tịch thu sạch, mang vào văn phòng ngồi ăn với nhau. Bà ta uất quá, lần sau cũng gói bánh, nhưng bên trong nhân bánh toàn cứt trâu, cứt bò. Các vị tịch thu của bà xong đem vào văn phòng ăn với nhau hóa ra mình là thằng ăn cứt!”

Ông NNT, kỹ sư địa vật lý ngành dầu khí, hiện đã nghỉ hưu sống tại thành phố Vũng Tàu, kể:

“Năm 1962 ta bắt đầu triển khai phương án thăm dò dầu khí ở tam giác châu thổ sông Hồng nên chúng tôi đi đo trọng lực và địa chấn ở nhiều tỉnh đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Một lần đi qua huyện Thanh Hà-Hải Dương gặp chuyện rắc rối không thể nào quên. Ðất Thanh Hà nổi tiếng với đặc sản vải thiều, bọn tôi đến vào dịp tết Ðoan Ngọ (5/5 âm lịch) giữa mùa thu hoạch quả, mỗi người mua 10 kg về làm quà cho gia đình, bạn bè ở Hà Nội. Cả xe có 8 người với lái xe là 9 nên trên xe chở ước chừng 1 tạ vải thiều. Xe ra khỏi làng chừng 500 m thì bị dân quân giữ lại. Nhà nước cấm bán vải thiều ra thị trường tự do, phải bán cho công ty xuất nhập khẩu của tỉnh, giá rẻ như bèo. Họ quy định khách ra vào xã chỉ được mang ra khỏi địa bàn mỗi người 1 kg vải thiều. Chúng tôi cãi lý rằng đây là cán bộ đi công tác mua về làm quà nhưng không được. Hỏi họ rằng, vải thiều là sản phẩm đất vườn nhà, thuộc diện tích 5% của xã viên, quyền bán hoặc cho là của xã viên, sao lại cấm? Không được trả lời! Ðiên tiết, chúng tôi hò nhau trói mấy anh dân quân ném lên xe chạy chừng 10 km rồi thả xuống bắt đi bộ về cho bõ tức. Vụ này khiến tôi là kỹ sư, trưởng đoàn bị kỷ luật hạ một bậc lương.”

Bản thân người viết những dòng này năm 16 tuổi (1962) đã chứng kiến cảnh 2 ông trong ban quản lý thị trường ở chợ Bưởi xô một bà cụ già trên 60 tuổi ngã sóng soài, chỉ vì bà cụ mang hơn chục ca lạc ra chợ bán. Lạc là mặt hàng cấm bán tự do, chỉ dành để thu mua xuất khẩu. Có người thợ cắt tóc tên là Tư Ất cũng chứng kiến cảnh đó, ra can ngăn, nói lời phải trái không được, đã nổi đóa tung chân đá cán bộ quản lý thị trường gãy mất hai cái răng để giúp bà cụ chạy thoát. Tư Ất là học trò của võ sư lang Dương, bị quy thành phần địa chủ thời CCRÐ (đã dẫn trong lời kể của nhân chứng NVV). Vì việc đó, ông Tư Ất bị bắt giam 4 tháng về tội đánh người thi hành công vụ.

Có lẽ những bất cập của mô hình kinh tế Stalin ở nông thôn miền Bắc đã thúc đẩy một vài nhà khoa học cấp tiến ở viện kinh tế học viết bài đặt lại vấn đề cơ chế và giá thu mua nông sản. Ông Bùi Công Trừng và hai tác giả khác bị quy vào phần tử xét lại. Ðứng trước thực tế đời sống nông thôn ngày một đi xuống, một số nhà lãnh đạo cấp tiến ở các địa phương với lòng thương dân, trách nhiệm với vận mệnh quốc gia, với nhãn quan sâu sắc và lòng quả cảm, đã mạnh dạn thí điểm mô hình quản lý mới. Ngày nay nhiều học giả trong và ngoài nước biết đến ông Kim Ngọc, Bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phú, xem ông như người tiên phong mở đường cho cơ chế khoán sản phẩm trong nông nghiệp. Thật ra, một sự kiện phá rào bằng cơ chế khoán đã từng diễn ra năm 1962, ở hai huyện Vĩnh Bảo và Kiến Thụy, thuộc tỉnh Kiến An cũ (nay nhập vào thành phố Hải Phòng). Cơ chế khoán ruộng đến từng hộ nông dân được tiến hành một cách bí mật do ông Hoàng Hữu Nhân, Bí thư tỉnh ủy khởi xướng, được lãnh đạo hai huyện nói trên ủng hộ. Năm 1963, hội nghị tỉnh đảng bộ cho phép thực hiện lối khoán đó như một mô hình thí điểm. Lập tức ông Hoàng Hữu Nhân bị Trung ương (Ðảng) kiểm điểm, điều về Hà Nội giữ những chức vụ hữu danh vô thực đến khi nghỉ hưu và chết, không được minh oan. Ðến tháng 9/1966, ông Kim Ngọc (Vĩnh Phú) lại quyết tâm làm thử cuộc phá rào, thí nghiệm khoán sản phẩm theo ruộng đến từng hộ gia đình trên phạm vi cả tỉnh. Ông Kim Ngọc cũng bị phê bình, cách chức (1968) và không được công khai minh oan trên phương tiện thông tin đại chúng cho đến những năm đầu đổi mới. Thế nhưng tháng 9/1980, ông Ðoàn Duy Thành khuấy động lại phong trào khoán Kiến An năm xưa của ông Hoàng Hữu Nhân trót lọt, và lần này ông đã đã trở thành người tiên phong đổi mới. Với cương vị Chủ tịch Ủy ban Nhân dân, rồi Bí thư thành ủy Hải Phòng, ông Thành cho thí nghiệm khoán ở Ðồ Sơn, nơi có khu nghỉ mát của các vị trong Bộ Chính trị để các vị thấy tận mắt hiệu quả. [Nhờ thành tích này, ông Ðoàn Duy Thành được thăng chức lên Phó Thủ tướng phụ trách kinh tế.]

Trở lại vụ xét lại của nhóm Bùi Công Trừng, khi nghiên cứu hồ sơ tài liệu về ông, tôi vô cùng khâm phục sự uyên bác và lòng quả cảm của nhà khoa học chân chính này. Ông vốn là trí thức du học ở Pháp, vào Ðảng Cộng sản Pháp, rồi đi học Ðại học Cộng sản Phương Ðông ở Matxcơva, tham gia Quốc tế Cộng sản. Không chỉ dừng ở bài báo xét lại giá thu mua nông sản, hồ sơ tài liệu cho thấy ông Trừng đặc biệt quan tâm đến phát triển làng nghề trong các hợp tác xã nông nghiệp. Theo quan điểm của ông Trừng, cần tổ chức tốt lại lao động của các nghệ nhân, đầu tư khoa học kỹ thuật, cải tiến sản xuất và phải tham gia tích cực vào phân công lao động và thị trường quốc tế. Lần theo mạch tư duy khoa học rất đáng trân trọng của ông Bùi Công Trừng, cuộc điều tra nông thôn của tôi đã dừng chân ở một số làng nghề để nghiên cứu. Theo các tài liệu của nhà nghiên cứu Pháp P.Gourou còn để lại, đầu thế kỷ 20, chỉ riêng khu vực đồng bằng và trung du Bắc Bộ đã có hơn 400 làng nghề nổi tiếng: nghề đúc đồng ở Ngũ Xã (Hà Nội), Văn Môn (Bắc Ninh), chợ Cồn (Nam Ðịnh); nghề tơ tằm ở Vạn Phúc, Song Phượng (Hà Ðông), Ðại Mỗ (Hà Nội), Xuân Hồng (Nam Ðịnh); nghề gỗ khảm trai ở Ðồng Kỵ, Phù Khê (Bắc Ninh), Phủ Lý (Hà Nam); nghề cói ở Nga Sơn (Thanh Hóa), Kim Sơn (Ninh Bình); nghề dệt ở Nghĩa Ðô, Triều Khúc, Bái Ân, Trích Sài (Hà Nội), Tân Lập (Hà Ðông)… Nhiều nơi như ở Nam Ðịnh, nằm giữa các cụm làng nghề, đã hình thành thị trường mua bán nguyên liệu rất sầm uất như chợ sắt ở Vân Tràng, chợ sợi ở Hòa Hậu, chợ kén tơ tằm ở Cổ Chất và Nhà Xá… Mô hình kinh tế mới (1961-1965) đã xóa bỏ các chợ nói trên, coi đó là sự phục hồi của chủ nghĩa tư bản. Trong các hợp tác xã nông nghiệp, mô hình chung của các nơi có làng nghề truyền thống bao gồm: các đội sản xuất nông nghiệp, tổ thủy lợi, tổ kỹ thuật, đội chăn nuôi và đội sản xuất thủ công nghiệp, trực thuộc quyền điều hành của ban chủ nhiệm hợp tác xã mà thông thường là những người có ít hiểu biết về nghề thủ công. Lao động của các nghệ nhân không được coi trọng. Xã viên làm nghề thủ công cũng hưởng theo công điểm như các xã viên trồng trọt, chăn nuôi. Ðầu ra của sản phẩm làng nghề lại bị động, gần như phụ thuộc vào các hợp đồng đổi hàng với Liên Xô và Ðông Âu, nên giá cả và tiến độ, khối lượng giao hàng rất tùy tiện. Ở thời điểm 1962-1963, ông Bùi Công Trừng dám công khai lên tiếng đòi tham gia phân công lao động và hòa nhập thị trường quốc tế, ngầm ý muốn đột phá đầu ra cho các làng nghề đến với trường Tây Âu, quả là sáng suốt và dũng cảm. Sau này, kể từ 1990, các làng nghề thủ công mỹ nghệ như Ðồng Kỵ, Bát Tràng, Vạn Phúc đột biến thăng hoa, xuất hiện nhiều tỷ phú nhờ hòa nhập với thị trường thế giới, ta càng thêm kính phục ông Bùi Công Trừng và các cộng sự trong vụ bị quy kết là phần tử xét lại. Còn vào thời đó, các làng nghề bị mai một dần, đời sống của nông dân các làng nghề cùng chịu chung số phận nghèo đói như các làng thuần nông. Một làng nghề gốm sứ nổi tiếng như Bát Tràng lại chỉ cho ra đời thứ sản phẩm là những chiếc bát đĩa sành cong vênh, méo mó!...

Về mặt đời sống tinh thần, khi xem xét tài liệu thống kê năm 1963, trong cơ cấu tiêu dùng theo người/tháng chỉ có 0,26 đồng cho giải trí, 0,34 đồng cho y tế, 1,39 đồng cho chi khác (chủ yếu là học tập của con cái)… ta thấy còn rất thấp. Tuy nhiên, trên thực tế những năm 1961-1965, mạng lưới y tế, giáo dục ở nông thôn miền Bắc phát triển rất mạnh (xem Bài 1, phần II, mục 2). Nhìn chung người nông dân miền Bắc được xem phim 1 lần/tháng, xem hát chèo, tuồng hoặc cải lương 1 lần/3 tháng. Ở các vùng núi cao, Nhà nước cũng đặc biệt quan tâm thành lập các đội chiếu bóng lưu động, phục vụ đồng bào dân tộc ít người.

Nói đến đời sống nông thôn, không thể bỏ qua cuộc vận động đi khai hoang lập nghiệp ở miền núi. Ðối tượng đưa gia đình đi khai hoang, trừ các gia đình tự nguyện, là các hộ lý lịch “bất hảo”, và còn có một số hộ vốn là cán bộ trong hợp tác xã dám dũng cảm đấu tranh với tham nhũng, lãng phí, đòi thay đổi cách quản lý. Tuy nhiên, khác với các hộ ở đô thị đi xây dựng vùng kinh tế mới, những hộ nông dân thường sớm thích nghi với hoàn cảnh, yên tâm làm ăn lâu dài. Ở Bát Sát (Lao Cai), Mai Châu (Sơn La) hiện có hàng nghìn hộ dân gốc quê Nam Ðịnh, Thái Bình lên khai hoang vào những năm 1962-1964.

© 2005 talawas