trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 235 bài
  1 - 20 / 235 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Ngôn ngữ
Loạt bài: Vấn đề chính tả
 1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11   12   13   14   15   16   17   18   19   20   21 
4.6.2002
DÅ©ng VÅ©
Tiếng Việt - Vài vấn đề chữ viết
 1   2 
 
[*]

Trong mấy thập niên qua, nhiều người Việt sống ở miền Nam hoặc ở hải ngoại đã lấy làm lạ về cách dùng chữ cái “i” thay cho “y” trong chữ Việt. Hiện tượng này khá phổ biến, nhất là ở miền Bắc. Ví dụ, “kỳ” được viết thành “”, “quốc kỳ” thành “quốc kì”.

Sự thay đổi “y” thành “i” đã gây nhiều tranh cãi. Người thì bảo: “Thúy” không thể thay thế bằng “thúi” được. Người khác bèn biện luận: Ðó là trường hợp ngoại lệ. Thử tưởng tượng, thay vì viết “kỹ sư”, ta có thể viết thành “kĩ sư”, bởi tại sao xưa nay người ta không viết “bác sỹ” mà là “bác sĩ”. “y” và “i” giống nhau, chỉ khác “i” ngắn, “i” dài. Bên kia liền chống lại: Thế thì “kỳ” có nghĩa như “cờ” sẽ bị lẫn lộn với “” như “kì cục”. Nghe hai bên tranh cãi, người đứng nghe phát bực: Thôi! Lôi thôi quá, “i ngắn” với “i dài”. Sao không đổi luôn “q” thành “c”, viết “quốc” thành “cuốc” cho tiện. “k” phát âm cũng như “c”, bỏ “k” luôn, viết “quốc kỳ” thành “cuốc cì”.

Vậy là “quốc” (nước) hóa thành cái cuốc. “Kỳ” (cờ) nghe như “kì cọ”, “kì cục”.

Chưa hết. Nhiều người còn muốn thế “gi” bằng “d”. Ðiều này có lẽ không dễ dàng như thay thế “y” bằng “i”. “Gia” đâu thể thế bằng “da” được. “Gia thuộc” khác “da thuộc” chứ. Lời phàn nàn có lý. Người phàn nàn nếu bảo thủ, không nói làm gì, nhưng nếu cấp tiến và sẵn sàng chấp nhận sự cải tiến cách viết, thì cũng chẳng biết phải theo quy tắc nào.

Cực đoan hoặc mỉa mai hơn nữa là những ý kiến cho rằng, thay thế vậy vẫn chưa có “” triệt để. Bỏ “gi”, “d” đi, xài “z” thôi cho “zễ zùng”. Ý nghĩ này xem ra càng khó được xã hội chấp nhận rồi cũng đi vào quên lãng. Cuối cùng chỉ còn thấy vài ba trường hợp, như chêm “z” vào một cái tên cho có vẻ Tây phương, “Dzũng Ðakao”, hoặc viết theo cách giả giọng người Nam “dzô”, “dzui”, “dzìa”, ...

Cùng một hiện tượng tương tự là đổi “ph” bằng “f”. “Em tên Fượng, không phải Phượng”. “Fương fáp” thay vì “phương pháp”, “fạm fòng” thay vì “phạm phòng”, “fung fí” thay vì “phung phí”, ...“fởn fơ”, “fì fò”, “fì fèo”. Kiểu thế này hẳn phải làm dân Âu châu phục dân Việt sát đất. Dân Việt nhập chữ cái La tinh của Âu châu vào mà dám cải tiến táo bạo vậy, còn chúng ta, dân Âu châu, thực là chậm chạp; sao không bắt chước dân Việt, thay thế hết “ph” bằng “f”, biến “philosophy” thành “filosofy”, “physic” thành “fisic”, “PhD” thành “FD” ...?

Vậy mà chẳng ai làm. Và người Việt cũng không hiểu tại sao người ta không chịu làm.

Không ai dám phủ nhận bất cứ cố gắng nào làm cho tiếng Việt ngày càng tốt đẹp. Nhưng làm sao cho có bài bản và hiệu quả ? Thử nhìn vào một kinh nghiệm: ví dụ tiếng Ðức.

Ngay đến một thứ tiếng chín muồi như tiếng Ðức cũng đã từng trải qua các cuộc cải cách, chẳng hạn về cách viết (Rechtschreibung). Vào năm 1901, người Ðức đã muốn bỏ bớt những mẫu tự không cần thiết trong một từ. Ngày xưa người ta viết “Thor” (cổng), “Thür” (cửa), bỏ bớt “h”, ngày nay người ta viết “Tor”, “Tür”. Ðúng ngày 01.08.1999, cách viết lại được cải tiến thêm lần nữa. Lần này, một ví dụ, “ß” (một loại “s” được phát âm dài) tùy trường hợp sẽ được thế bằng “ss”.

Cùng thuộc khối nói tiếng Ðức, dân Thụy Sĩ đã giải quyết xong cách viết từ mấy chục năm nay. Về phía Ðức, lần này, số chữ cần sửa đổi chiếm chưa đến 1% kho tàng từ vựng, tuy nhiên, chỉ có khoảng 43% dân Ðức giơ tay đồng ý. Mặc dù có những ý kiến chống đối từ giới bảo thủ nhưng cuối cùng người dân Ðức cũng chấp nhận. Cả người chống đối cũng dần dần nhận thấy nhiều từ ngữ chưa hoàn chỉnh, thì nay được hoàn chỉnh hóa, được làm rõ hơn, đơn giản hơn, logic hơn, để dễ học hơn, không những chỉ có lợi cho mình mà còn cho thế hệ về sau, kể cả cho người ngoại quốc sinh sống tại đây vốn rất mệt mỏi với thứ tiếng Ðức vừa khó vừa khó chịu này.

Việc cải tiến cách viết chữ Ðức đã được tiến hành và có hiệu quả. Trong khi đó Việt Nam, chỉ nội chuyện thế “i dài” (y) thành “i ngắn” (i) đã là một đề tài chẳng ngắn. Có biết bao nhiêu cuộc tranh cãi đã kéo dài từ năm này sang năm khác, rốt cuộc “y” vẫn còn nằm trong chữ Việt, nghĩa là người Việt vẫn còn cần tới nó.

Làm thế nào để giải quyết các vấn đề trong tiếng Việt? Tại sao phức tạp vậy? Tiếng Ðức, người ta làm được, còn tiếng Việt khó quá Vì sao?

Trong khuôn khổ bàn về tiếng Việt, tôi xin phép góp vài lời cùng các bạn đang nghiên cứu về vấn đề cải thiện chữ viết. Không riêng “i ngắn”, “i dài” mà còn nhiều điểm khác. Tuần tự từng tiết mục, tôi xin nêu thiển ý của mình.

A. Phiên âm tên riêng

Phiên âm là một hình thức ghi lại cách phát âm của những từ ngữ lạ cho gần ngôn ngữ của mình. Phiên âm tên riêng là một ứng dụng.

Ðọc báo ở miền Nam trước 75, chúng ta thấy Washington thường được viết là Hoa-Thịnh-Ðốn. Sau 75, Washington được viết là Wớt-Xing-tơn, ... Cả hai đều là hình thức phiên âm. Một bên ghi lại cách phát âm theo kiểu Tàu: “Hoa-Thịnh-Ðốn”, “Ba-Lê” (Paris), “Bá-Linh” (Berlin), ... một bên ghi lại cách phát âm chủ quan của người phiên âm: “ Wớt-Xing-tơn”, “Các Mác”, “Lê Nin”, ...

Phiên âm tên riêng có mặt lợi và mặt hại: Lợi là người không hề biết mặt chữ vẫn nhớ và nói được gần đúng. Hại là nếu không biết từ nguyên thủy, người đọc sẽ không bao giờ viết đúng hoặc dễ dàng tra cứu. Mặt khác, cách phát âm không chính xác rất tai hại. Nó có thể làm cái lưỡi của người đọc trở nên lười biếng.

Hãy thử tưởng tượng, anh đã quen nghe và nói cái tên “Các Mác”. Nếu có dịp sang Ðức, anh thử hỏi bất cứ người khách bộ hành nào, xem họ có biết “Các Mác” là ai không. Tôi dám bảo đảm là ai cũng chìa lỗ tai vào anh và hỏi lại tới tấp: “Wie bitte? Wie bitte?”, đại khái là “Ông nói chi ạ? Ông nói chi ạ?” Chỉ khi nào, anh cố phát âm “Karl Marx” cho rõ; “K” nhè nhẹ như “Kh” thay vì cứng như “C”; “arl” như “aaa...” kéo dài, cổ hơi rung rung “rrr....”, lưỡi uốn lên “lll...”, ... “x” như “ks”, thì họa may người ta mới hiểu.

Cho nên rất khó lấy lý do mà biện luận, phiên âm còn nhằm mục đích dạy cho người Việt biết nói đúng từ nguyên gốc.

Theo tôi hiểu, chủ đích của phiên âm mà báo chí, sách vở Việt Nam trong nước sau 75 hay dùng là để giới bình dân cũng đọc được. Tuy nhiên, nếu chỉ đọc được mà viết không đúng từ nguyên gốc thì trình độ ngoại ngữ của người dân vẫn dừng ở đó. Nên nhớ là khi đọc một tờ báo, một cuốn sách, người ta đọc bằng mắt chứ không phải bằng mồm. Như một hình thức ghi lại cách phát âm, phiên âm chỉ hữu lý cho hoạt động nói chứ không phải cho hoạt động viết. Mà dẫu có nói, cũng chưa chắc gì đã đúng, nếu không tra phần phát âm trong từ điển, hoặc không nâng cao trình độ ngoại ngữ của mình. Hơn nữa, cái tham vọng phiên âm hết vô số danh từ riêng hiện hữu trên quả đất là một điều không tưởng.

Ðể giải quyết vấn đề phiên âm tên riêng của tiếng nước ngoài, ta hãy thử thỏa hai điều kiện đọcviết: Ðể nguyên chữ nguyên gốc như có thể và kèm theo phần phiên âm. Thay vì viết như trước nay, ví dụ Xing-ga-po, ta viết Singapore (/Xingapor/) (phiên âm theo kiểu Việt). Sau đó bài viết chỉ dùng Singapore na ná như hình thức viết tắt thường thấy dùng trên báo: Câu Lạc Bộ (CLB), Thảo Cầm Viên (TCV), ...

Ðến ngày nào dân trí đã được nâng cao, chắc chắn phần phiên âm không còn cần thiết. Ðể tôn trọng tên riêng của người khác, mình nên viết đúng tên nguyên gốc của họ. Và chắc mình cũng cảm thấy vui khi người khác viết đúng tên mình. Ngặt nghèo lắm mới phiên âm những từ không nằm trong hệ thống mẫu tự La tinh như trường hợp chữ Việt. Nói ngắn gọn là nên có xu hướng chọn biện pháp thông tin ngôn ngữ càng chính xác càng tốt.

B. Gạch nối

Tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn âm. Tính chất đơn âm xuất phát từ từng tiếng độc lập. Xưa kia mỗi tiếng được viết bằng một hình tự (ideo-graph) nhất định (theo chữ Hán hoặc Nôm) và có ý nghĩa nhất định. Ví dụ “Việt Nam”, “Việt” có nghĩa là “vượt”, “Nam” là “phía Nam”: Vượt về phía Nam. Hai tiếng có ngữ nghĩa riêng biệt ấy kết hợp lại thành cái tên “Việt Nam”. Danh từ riêng “Việt Nam” không có gạch nối.

Hiện tượng gạch nối có lẽ chỉ xuất hiện từ lúc những từ đa âm của Tây phương được du nhập vào Việt Nam. Ví dụ, “Portugal” không phải một cụm từ “Por”, “Tu”, “Gal” như “Việt Nam” mà là một từ duy nhất. “Portugal” được phiên âm thành 3 tiếng “Bồ”, “Ðào”, “Nha” (Por = Bồ, Tu = Ðào, Gal = Nha). Vì muốn diễn tả 3 tiếng ấy là một từ, người Việt mới gạch nối lại thành “Bồ-Ðào-Nha”.

Ðó là biện pháp dùng gạch nối để kết chặt một từ đa âm của Tây phương.

Thế nhưng lại có hiện tượng ngay cả những từ Hán Việt cũng được gạch nối. Nhiều tác giả cho đó là cách phân biệt với từ thuần Việt. Quan sát kỹ, chúng ta sẽ thấy, cách dùng gạch nối này chỉ nhằm mục đích kết hợp từ chứ không phải kết hợp âm. Ví dụ “quan-trọng” (“quan” là một từ, “trọng” là một từ), “danh-tính” (“danh” là một từ, “tính” là một từ), ... Phải chăng khi làm công việc ấy, theo tác giả, hễ từ ghép nào không thuần Việt, ta nên gạch nối?

Xét cho cùng, dùng gạch nối kết để kết hợp âm nhằm diễn tả một từ đa âm xem ra vẫn hợp lý hơn là để kết hợp từ. Nếu dùng gạch nối để kết hợp một cụm chữ thành một từ (như một đơn vị cú pháp), thì cụm chữ nào cũng phải được gạch nối cho thống nhất chứ không chỉ có từ Hán Việt là đủ. Nói chung, mọi từ ghép đều phải được gạch nối: “nhà-cửa”, “xe-cộ”, “ông-già”, “bà-cả”, “đàn-bà”, “con-nít”, ...

Gạch nối có điểm lợi và điểm bất lợi.

Bất lợi là khi viết, phải gạch nối nhiều. Chắc chắn cách này khó được nhiều người hưởng ứng bởi quá rườm rà. Muốn chữ Việt càng đơn giản, thiết nghĩ nên bớt đi chứ đừng nên thêm vào làm vấn đề càng thêm phức tạp. Không ai ngồi viết mà còn phải suy nghĩ, trường hợp nào nên gạch nối, trường hợp nào không. Bỏ công dùng gạch nối để đi liên kết một cụm chữ thì lại càng không có ý nghĩa. Thà vậy, cố gắng đánh dấu phẩy trong câu cho đúng ngữ pháp (văn phạm) còn có lý và cần thiết hơn nhiều.

Gạch nối hình như chỉ có hai điểm lợi:

Một là cho biết cụm chữ là một từ độc lập có ý nghĩa (gồm nhiều chữ không thể tách rời, cho nên cần gạch nối). Nếu nghĩ vậy thì có thiếu gì trường hợp cần gạch nối: New York, Great Britian, Bundesrepublik Deutschland, Viet Nam, ... mà người ta không làm.

Hai là để dễ tìm kiếm dữ liệu, một ứng dụng xử lý văn bản (text processing) trong tin học. Tìm từ “Huế” (1 chữ) không thành vấn đề; tìm từ “Hà Nội” (2 chữ tách rời) khó hơn “Hà-Nội” (2 chữ được gạch nối). Nhưng chuyện ấy xưa rồi. Ngày xưa, muốn tìm hai chữ tách nhau bằng một ký tự trống (blank) trong băng dữ liệu rất khó. Ngày nay khác; chữ có cách nhau bao nhiêu khoảng trống, máy cũng tìm ra được.

Thành thử gạch nối không còn đóng vai trò cần thiết để biểu thị một từ độc lập. Vậy, có thể nói là đừng nên đặt nặng vấn đề đó. Nhưng nói thế thì làm sao diễn tả một chữ đa âm: tivi, radio, auto, Berlin, Paris, Singapore, ...?

Ðiều này không khó. Tại sao chúng ta không dám nghĩ đến phương pháp viết dính liền? Thử rút kinh nghiệm từ kỹ thuật lập trình. Ngày xưa, khi lập trình, một biến số (variable), một hàm số (function), v.v. ... nói chung là một cái tên, nếu gồm nhiều chữ, người ta thường dùng gạch dưới “_” (underscore), ví dụ “my_variable”, “your_function”, ... . Giờ đây người ta viết hoa thay cho gạch dưới: “MyVariable”, “YourFunction”, ...

Nếu xem đó là một giải pháp chấp nhận được, thì tiếng Việt sẽ bớt vấn đề gạch nối. Vậy, để diễn tả loại từ đa âm, ta viết hoa thế cho gạch nối: TiVi, RaDio, AuTo, BerLin, PaRis, SinGaPore, ...

Song có nhất thiết phải viết hoa thay cho gạch nối không? Theo tôi, đối với danh từ riêng, như đã nói, chúng ta nên tôn trọng bằng cách viết đúng như có thể. Còn đối với danh từ chung, gặp trường hợp đa âm, cứ viết dính lại thành chùm theo tính đa âm tiết của từ nguyên gốc: hotel, radio, internet, ... ; cả những từ đã được Việt hóa: “ôtô”, “vali”, “càphê”, .... Cách viết này đã có người dùng. Gặp một chữ viết dính liền như vậy, người Việt thừa biết, đó không phải là một từ Việt truyền thống mà là một từ ngoại ngữ. Và thực sự là như thế.

(còn tiếp)

______________________________

Chú thích:

*) Trích từ Thử bàn về tiếng Việt, Dung Vu, 1999, Stuttgart.