trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 177 bài
  1 - 20 / 177 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tủ sách talawas
10.9.2005
Lý Quí Chung
Hồi ký không tên
15 kì
 1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11   12   13   14   15   16 
 
15. Bút Thần: Tờ báo cuối cùng tôi làm chủ bút

Tính chung, trước khi tôi làm tờ Bút Thần, tôi đã đứng tên chủ nhiệm kiêm chủ bút hai nhật báo (Sài Gòn Tân VănTiếng Nói Dân Tộc), chủ bút một tuần báo (Buổi Sáng do ông Mai Lan Quế làm chủ nhiệm) và một nhật báo (Điện Tín), còn cộng tác với tư cách phóng viên thì với bốn tờ: báo thể thao Đuốc Thiêng, nhật báo Thanh Việt, tuần báo Bình Minh, nhật báo Buổi Sáng (thời ông Nguyễn Văn Mại làm tổng thư ký tòa soạn).

Tờ Bút Thần do anh Nguyễn Văn Phương làm chủ nhiệm (nói theo thời đó anh là người đứng tên manchette). Tên tờ báo do anh Phương chọn từ trước. Tôi là người mướn manchette của anh sau khi tôi ngưng khai thác tờ Điện Tín. Anh Phương nhận một số tiền hàng tháng không nhiều, chỉ hơn phóng viên chút ít. Nhưng anh đã đi cùng với chúng tôi suốt thời gian tồn tại của tờ báo, cho đến khi nó bị rút giấy phép xuất bản. Phải liên tục hầu tòa với tư cách chủ nhiệm, vì báo liên tục bị tịch thâu, anh Phương không bao giờ than phiền hay tỏ ra sợ hãi. Ngày ra số cuối cùng tôi viết một xã luận của tôi tố cáo quyết liệt chính sách báo chí của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.

Lúc làm tờ Bút Thần, tôi đã ‘‘tẩy chay’‘ quốc hội Sài Gòn, không còn dự các phiên họp của Hạ nghị viện và mở một quán ăn trên đường Trương Định, trước cửa công viên Tao Đàn, sát bên cơ quan PX – một siêu thị dành riêng cho nhân viên và lĩnh Mỹ, giao dịch bằng đồng đô la đỏ chỉ được sử dụng tại miền Nam Việt Nam. Đó quán ăn đầu tiên mà vợ tôi, Nguyễn Thị Quỳnh Nga – làm chủ.

Một sáng đứng trước quán, tôi nhận ra một người cao gầy, miệng móm xọm ngồi đánh cờ dưới một gốc me trên lề đường. Đó là nhà báo Tô Nguyệt Đình (tên thật Nguyễn Bảo Hóa), tác giả cuốn tiểu thuyết được rất nhiều người đọc vào những năm 50: “Bộ áo cà sa đẫm máu”. Khi tôi mới gia nhập làng báo, còn là một phóng viên tập sự ở hai tờ báo Thanh ViệtBình Minh (năm 1963 - 1964) tôi đã có cơ hội làm việc chung và học hỏi với bác Đình (tôi gọi ông Đình bằng bác vì tuổi ông Đình lớn hơn cha tôi). Tánh tình bác Đình rất hiền từ, kín đáo nhưng vui vẻ. Tôi nhớ mãi nụ cười móm xọm và hồn nhiên của ông.

Tôi bước ra khỏi quán và đi lại chỗ ông. Khi đứng sát bên ông tôi lấy tay khều nhẹ. Không phải vì quá mê đánh cờ mà ông không thấy tôi đến gần. Thật sự, tuy ngồi có vẻ chăm chú đánh cờ nhưng ông quan sát chung quanh và từ xa rất kỹ. Khi tạm ngưng chơi cờ, bước ra một mình nói chuyện với tôi, ông hỏi nhỏ: “Có việc gì không ông Chung?”. Đã nhiều ngày nay, tôi có ý định cho đăng lại tiểu thuyết “Bộ áo cà sa đẫm máu” trên tờ Bút Thần dưới hình thức một “feuilleton”, tức truyện đăng nhiều kỳ. Truyện này đăng lại vẫn “ăn khách”, nhưng mặt khác cũng là cách giúp thêm thu nhập cho ông. Ông lại nói: “Tụi nó đang theo dõi tôi. Ông Chung nên xem lại có tiện cho tờ báo hay không?”. Tôi trả lời: “Bác cứ yên tâm, đó là việc của tôi”. Và sau đó chuyện “Bộ áo cà sa đẫm máu” xuất hiện lại trên tờ Bút Thần.

Tờ Bút Thần tồn tại chỉ được nửa năm thì phải đóng cửa do sắc luật báo chí 007/72 của chính quyền Thiệu ban hành với mục đích hết sức rõ ràng là tiêu diệt các tờ báo đối lập, chỉ duy trì các tờ báo của chính phủ (tờ Dân Chủ), của quân đội (tờ Tiền Tuyến), và của đảng phái đồng minh với chế độ như tờ Bình Minh, sau này là cơ quan ngôn luận chính thức của Phong trào Cấp Tiến. Tờ Bình Minh ra đời năm 1963 ngay sau khi nhóm tướng lãnh đứng đầu là Dương Văn Minh lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Tướng Minh và Võ Văn Ứng (chủ nhiệm Bình Minh) là bạn của nhau, từ thời ông Minh còn là thủ môn đội bóng đá Thủ Dầu Một (bây giờ là Bình Dương), còn ông Ứng là ông bầu đội này. Giai đoạn đầu (1963-1964), tôi có tham gia tờ báo, lúc đó tờ Bình Minh có một lập trường tiến bộ. Do những năm sau này không có liên lạc gì với ông, tôi không biết lý do gì ông tham gia chính trị và có tên trong ban lãnh đạo của Phong trào Cấp Tiến, thực chất là đảng Tân Đại Việt trước đây (lãnh tụ của đảng này là giáo sư Nguyễn Ngọc Huy giảng dạy tại Học viện quốc gia Hành chánh).

Sắc luật 007/72 bắt buộc mỗi tờ nhật báo phải đóng ký quỹ 20 triệu đồng (lúc ấy tương đương 47.000 USD), còn báo định kỳ thì 10 triệu. Nếu không nạp đủ số tiền đó, thì tờ báo bị rút giấy phép. Luật có điều khoản ưu đãi đặc biệt cho những tờ báo thuộc các đảng phái được chính quyền cấp phái lai (tức cho phép hoạt động). Các đảng phái hợp pháp này, đương nhiên thân chính quyền, báo của họ chỉ đóng phân nửa tiền ký quỹ, 10 triệu đồng (như tờ Bình Minh). Các tờ báo có đủ tiền, đóng ký quỹ tại Tổng nha Ngân khố trong một trương mục có lãi. Trương mục này do chủ nhiệm, chủ bút, hoặc quản lý đứng tên dành để bảo đảm việc thanh toán các “ngân hình án phí” và tiền bồi thường thiệt hại cho dân sự nguyên cáo định kỳ trong những bản án tuyên xử liên quan đến những vi phạm điều khoản luật này. Ông tổng giám đốc Ngân khố sau khi nhận được bản án, đương nhiên khấu trừ số tiền ký quỹ. Số tiền ký quỹ phải luôn luôn đầy đủ theo luật định. Khi số tiền ký quỹ bị khấu trừ thì ngay sau khi nhận được thông báo của tổng giám đốc Ngân khố, tờ báo phải đóng thêm cho đủ số tiền ký quỹ trong thời hạn 15 ngày. Nếu không, tờ báo bị coi như tự đình bản, hoặc cơ sở phát hành bị coi như tự ý ngưng hoạt động. Nếu tiếp tục hoạt động sẽ bị truy tố.

Ngoài sắc luật 007/72 còn qui định tờ báo nào bị tịch thu lần thứ hai do có bài vi phạm an ninh quốc gia và trật tự công cộng sẽ bị đóng cửa vĩnh viễn (trước khi có luật này, chẳng hạn tờ Điện Tín lúc tôi làm chủ bút 1970-1971, mỗi tuần ít nhất cũng bị tịch thu một, hai lần; ra tòa chỉ bị phạt miệng và tờ báo chẳng đóng phạt đồng nào!). Có vài con số thống kê đáng chú ý như sau: từ vụ xử đầu tiên theo sắc luật 007/72 (tờ báo bị đưa ra Tòa án Quân sự Mặt trận Biệt khu thủ đô đầu tiên là Điện Tín ngày 18-8-1972) cho đến hết năm 1973 có tất cả 228 vụ tịch thu và truy tố báo chí. Trước đó khi chưa có sắc luật 007/72, từ tháng 12-1969 đến tháng 8-1972 có đến 5.000 vụ “vi phạm luật báo chí” cũ (luật 019/69).

Theo dõi phiên đầu tiên của Tòa án Quân sự Mặt trận xử tờ báo Điện Tín, chiếu theo Sắc luật 007/72, có thể thấy phần nào sự vận hành của tòa án lúc đó trong một vụ án báo chí. Tờ Điện Tín do ê kíp mới phụ trách nội dung gồm các anh Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Lý Chánh Trung với tiền đóng ký quỹ do một tư sản trong ngành in ấn hỗ trợ.

Lý do Điện Tín bị đưa ra tòa: vi phạm an ninh quốc gia. Ngày 18-8-1972 nhật báo Điện Tín đăng tải một thống kê về trọng lượng và số bom mà các phi cơ Mỹ đã ném xuống Đông Dương và Việt Nam. Theo tài liệu ấy số lượng bom được sử dụng ở đây nhiều hơn cả số lượng bom mà Mỹ sử dụng trong đại chiến thế giới thứ hai. Bộ nội vụ yêu cầu Công tố viên truy tố tờ Điện Tín. Tội danh trong vụ truy tố này là ‘‘phổ biến tin tức và tài liệu có thể phương hại đến an ninh quốc gia’‘ (vi phạm điều 28 đoạn a trong sắc luật 007/72). Sau đây là tường thuật phiên tòa do các báo lúc đó ghi lại:

‘Phiên xử báo chí đầu tiên trước tòa theo sắc luật 007/72 diễn ra lúc 9 giờ sáng ngày thứ sáu 22-9-1972. Chủ nhiệm kiêm chủ bút Điện Tín là nghị sĩ Hồng Sơn Đông do có tư cách nghị sĩ nên được hưởng quyền bất khả xâm phạm, vì vậy bà quản lý của tờ báo phải thay mặt chủ nhiệm, bị coi là ‘‘chánh phạm’‘.

Câu hỏi đầu tiên của tòa là: ‘‘Quản lý nhật báo Điện Tín, bà có kiểm soát bài vở trước khi cho in không?”. Bà quản lý trả lời: ‘‘Tôi chỉ biết lo về tiền bạc cho tờ báo, không có thẩm quyền kiểm soát bài vở của tòa soạn”. Tòa mời đại diện bộ Nội vụ ra xác nhận có yêu cầu truy tố nhật báo Điện Tín hay không. Vì đại diện bộ Nội vụ cho rằng số lượng bom phi cơ Mỹ dội xuống Việt Nam là con số quá lớn, nhật báo Điện Tín phổ biến con số đó gây hoang mang cho dư luận, làm phương hại cho an ninh quốc gia. Tòa hỏi bộ Nội vụ có con số nào để so sánh hoặc làm mức đo lường sự quá đáng, bộ Nội vụ trả lời không có. Tòa hỏi xuất xứ tài liệu được đăng tải. Trái với dự đoán của những người có mặt, báo Điện Tín không dựa vào điều 22 qui chế báo chí (được Sắc luật 007 thừa nhận) để từ chối trả lời câu hỏi này mà luật sư thay mặt tờ báo xuất trình bản chính tài liệu xuất xứ từ Viện Đại học Cornell (Hòa Kỳ). Tòa hỏi ủy viên chính phủ có ý kiến gì. Vị này trả lời:

‘‘Tài liệu có thật nhưng phổ biến có hại cho an ninh quốc gia”.

Tranh luận trước tòa và biện hộ cho nhật báo Điện Tín, luật sư Bùi Chánh Thời nêu lên ba phản biện quan trọng:

a) Tranh luận vài trò của người quản lý

Ai cũng biết, trong một nhật báo, chịu trách nhiệm về bài vở là chủ nhiệm hay chủ bút. Đó là bàn về phương diện lý thuyết. Trong thực tế, thư ký tòa soạn đảm nhận công việc ấy. Không một nhật báo nào trên thế giới để người quản lý kiểm soát bài vở. Vai trò thuần túy của quản lý là điều hành tờ báo về mặt hành chánh. Bắt người quản lý chịu trách nhiệm về bài vở là một điều vô lý.

b) Nguyên tắc cá biệt của hình phạt.

Theo nguyên tắc tổng quát của luật hình thì chỉ có hành vi là bị trừng phạt. Cá nhân không có hành vi phạm tội thì không thể bị trừng phạt. Từ điểm này ta đi tới một nguyên tắc lớn hơn nữa là sự cá biệt của hình phạt. Viên quản lý nhật báo Điện Tín không có hành động phạm tội lại bị coi là chánh phạm.

c) Yếu tố phổ biến

Biên bản của bộ Nội vụ có ghi rõ là tịch thu báo Điện Tín trên máy in. Số báo đề ngày 16 tháng 8 năm 1972 nhưng bị tịch thu tất cả trong buổi chiều ngày 15 tháng 8 năm 1972. Như vậy không hề có yếu tố phổ biến để buộc tội nhật báo Điện Tín theo điều 28 đoạn a Sắc luật 007/72 ghi lại (dùng báo chí phổ biến).

Cần phải nhắc nhở ở đây là luật báo chí 1881 của người Pháp đã sửa đổi vào năm 1945 có ghi rõ: “Muốn viết gì thì viết nhưng nếu chưa phổ biến thì vẫn còn nằm trong tư tưởng, do đó chưa thành tội phạm và không thể bị trừng phạt”. Người làm báo mong muốn được nghe giải thích thế nào là gây hoang mang, thế nào là phá hoại an ninh quốc gia, nhưng sự giải thích đó không bao giờ có được. Điều này có thể làm nhà báo nghĩ rằng đây là trường hợp ‘‘người ta tịch thu trước rồi tìm lý do truy tố sau”. Để kết luận, luật sư Bùi Chánh Thời xin tòa tha bổng cho nhật báo Điện Tín và chiếu điều 20 sắc luật 007/72, luật sư Thời xin phản tố trước tòa để đòi bồi thường 1.000.000 đồng thiệt hại.

Về điểm này ủy viên chính phủ trả lời:

“Theo văn bản tổ chức của Tòa án Quân sự Mặt trận thì tòa này không có thẩm quyền truyền bồi thường”.
Sau khi nghe ủy viên chính phủ buộc tội gắt gao, tòa nghị án và trở ra tuyên án: phạt quản lý tờ nhật báo Điện Tín 01 năm tù ở và 1.000.000 đồng tiền vạ.

Tranh luận qua lại có vẻ dân chủ nhưng thực tế tòa án vẫn nằm trong tay của chế độ Thiệu và khi tuyên án dứt khoát theo ý muốn của chính quyền.

Sắc luật 007 được ông Thiệu ký ngày 5-8-1972 khiến cho 16 tờ báo ngày và 15 tờ báo định kỳ phải đóng cửa.

Về phần tôi với tờ nhật báo Bút Thần, dĩ nhiên không đào đâu ra số tiền tương đương 47.000 USD để đóng ký quỹ, duy trì công cụ đấu tranh của mình. Phẫn nộ, uất ức nhưng cũng đành chịu. Tôi cùng dân biểu Nguyễn Hữu Chung tổ chức họp báo tại trụ sở Hạ nghị viện tố cáo tổng thống Thiệu đang dùng bàn tay sắt siết chặt báo chí và bóp nghẹt dân chủ. Mặt khác tôi không thể chờ ngày hết hạn xuất bản tờ Bút Thần (theo luật 007) và chấp nhận lệnh đóng cửa tờ báo một cách ngoan ngoãn. Tôi quyết định đóng cửa Bút Thần trước ngày hết hạn, đánh lạc hướng chính quyền và tổ chức một số báo cuối cùng với bài xã luận nẩy lửa lên án chế độ. Theo luật lúc ấy các báo phải nộp lưu chiểu và đưa lên Bộ thông tin kiểm duyệt đầu giờ chiều (2 giờ) rồi hai tiếng đồng hồ sau mới được phát hành. Tuy nhiên thường các báo vừa nộp lưu chiểu là phát hành ngay, phòng ngừa trường hợp bị tịch thu thì cũng thoát ra khỏi tòa soạn một số lượng báo khá lớn rồi. Trong trường hợp bị kiểm duyệt nhiều chỗ thì điều chỉnh ngay và cho in lại một số lượng báo tượng trưng để nộp cho Bộ thông tin đợt hai. Những chỗ bị kiểm duyệt, đục trắng, tòa soạn phải in thêm vào đó hàng chữ viết tắt: TYĐB, có nghĩa ‘‘Tự ý đục bỏ”. Đây là chuyện làm rất khôi hài của Bộ thông tin bởi không có độc giả nào (kể cả báo chí nước ngoài) lại không biết rằng những chỗ bị đục ấy là do lệnh của Bộ thông tin chứ có báo nào…tự ý đục bỏ đâu!

Ngày Bút Thần ra số cuối cùng, tôi cho in báo rất sớm. Chưa đi nộp lưu chiểu, tôi cho báo phát hành luôn lúc 12 giờ chưa. Khi lệnh tịch thu đến thì trong nhà in chẳng còn tờ báo nào. Hàng chục cảnh sát ập vào, lúc soát tứ tung. Không còn báo để tịch thu, họ tịch thu những bản chì còn nằm trên các máy in. Một nhóm truyền hình Mỹ, do tôi điện thoại mời, có mặt đúng lúc để ghi nhận cảnh tịch thu báo và cũng là sự phản kháng công khai đầu tiên của báo chí đối với sắc luật 007/72 của chính quyền Thiệu. Tôi còn nhớ khi truyền hình CBS phỏng vấn tôi bên cạnh máy in thì chủ nhà in đứng gần đó như muốn nói điều gì. Tôi nghĩ chắc ông chủ nhà in phản ứng lại tôi vì để cho báo chí nước ngoài vào nhà in của ông mà không hỏi ý kiến ông và ông sợ rằng sẽ bị chính quyền gây khó khăn về việc này.

Cuộc phỏng vấn vừa kết thúc, tôi liền đến gần ông. Thật là một bất ngờ: ông không hề phản đối những gì đang xảy ra mà còn bảo tôi “Ông dân biểu nhắc họ nhớ quay cái bảng hiệu nhà in”. Bảng hiệu nhà in là Tường Anh, nằm trên đường Gia Long (nay là Lý Tự Trọng), ngay ở ngã tư cắt ngang bởi đường Thủ Khoa Huân hướng từ chợ Sài Gòn đi lên. Ông chủ nhà in xuất thân là một cậu bé bán báo dạo, lớn lên làm đại lý “báo cổ động”. Lúc này tại Sài Gòn có ba hệ thống chính phát hành các báo: 1. Hệ thống cổ động, chỉ phát hành trong Sài Gòn với hàng trăm trẻ em nhỏ ôm báo chạy bán khắp nơi. Đây là hệ thống tiêu thụ báo mạnh nhất, và cũng hoàn tiền cho các báo sớm nhất (chỉ một hai ngày sau khi báo phát hành). ‘‘Trùm’‘ hệ thống này là ông Hai Chí. 2. Hệ thống Đô thành, cũng phát hành chủ yếu trong Sài Gòn nhưng qua các sạp báo cố định. Các báo thâu tiền thường chậm hơn, khoảng một tuần. Đứng đầu hệ thống này là ông Tư Paul 3. Hệ thống Nam Cường, phát hành khắp các tỉnh miền Nam. Thường 15-20 ngày sau, Nam Cường mới hoàn tiền cho các báo. Ngoài báo, Nam Cường còn phát hành sách.

Ông chủ nhà in Tường Anh đã lập nghiệp bằng sức lao động của mình từ một đứa trẻ bán báo cổ động. Sau này tôi mới biết trong số các con của ông có người hoạt động trong hàng ngũ những người cộng sản.

Trong số báo Bút Thần cuối cùng, ngoài sự lên án sắc luật 007/72 dành độc quyền ra báo cho những kẻ giàu có- báo chí của giai cấp tư bản – tôi còn có một tuyên bố trong bài xã luận: vĩnh viễn không cầm viết nữa. Thế là sau khi “tẩy chay” Quốc hội – không đi họp nữa – tôi “tẩy chay” viết! Cùng một lúc tôi mất đi hai diễn đàn đấu tranh. Nhiều năm sau nhìn lại, tôi vẫn không biết mình có những quyết định đó đúng hay sai. Nếu xét về mặt áp lực chính trị tức thời, dĩ nhiên các quyết định “tẩy chay” quốc hội để phản đối cuộc độc diễn của ông Thiệu và tự đóng cửa báo để tố cáo sắc luật 007/72 đều có tác dụng. Nhưng tính đường dài thì tiếp tục hoạt động trong Quốc hội và tìm cách duy trì tờ báo vẫn có lợi hơn chăng?

Từ cuối năm 1972, tôi chỉ có hai hoạt động để tiếp tục nuôi dưỡng tinh thần của mình: dự các buổi họp hàng tuần vào ngày thứ sáu trong nhóm Dương Văn Minh và tham gia các cuộc xuống đường do anh Hồ Ngọc Nhuận chủ xướng.

Nhưng cuộc xuống đường mà tôi sắp kể lại sau đây – “Ngày ký giả đi ăn mày” – thì không do anh Nhuận nhúng tay vào mà thuộc 4 tổ chức báo chí ở Sài Gòn đứng ra tổ chức: Hội chủ báo, Nghiệp đoàn ký giả Nam Việt, Nghiệp đoàn ký giả Việt Nam và Hội ái hữu ký giả. Cũng cần nói qua về hai Nghiệp đoàn ký giả Nam Việt và Việt Nam. Nghiệp đoàn ký giả Nam Việt được thành lập trước, trước khi có Hiệp định Genève 1954. Các hội viên gồm tất cả các nhà báo hoạt động tại Sài Gòn. Sau 1954, nhiều nhà báo miền Bắc di cư vào Nam xuất bản nhiều tờ báo mới và thành lập Nghiệp đoàn ký giả Việt Nam. Có một sự khác biệt ngấm ngầm giữa giới cầm bút tại Sài Gòn và giới cầm bút từ miền Bắc di cư vào. Các ký giả Sài Gòn đa số có thái độ chính trị hoặc độc lập hoặc chống chính quyền, rất nhiều trong số họ là những cựu kháng chiến, không kể một số không ít đang hoạt động bí mật cho cộng sản. Trong khi đó đa số ký giả từ miền Bắc vào năm 1954 đều có lập trường chống cộng và ủng hộ chính quyền, từ thời Ngô Đình Diệm cho đến Nguyễn Văn Thiệu. Trước ‘‘Ngày ký giả ăn mày’‘, hai Nghiệp đoàn ký giả Nam Việt và Việt Nam hầu như không hợp tác với nhau. Chính do sự ra đời của sắc luật 007/72 đã làm họ xích lại gần nhau. Nhưng sâu xa hơn, sự đoàn kết giữa hai Nghiệp đoàn còn xuất phát từ tình hình suy sụp uy tín và thế lực của chính quyền Thiệu vào cuối năm 1974. Khi sắc luật 007/72 được ban hành vào năm 1972, đó là thời điểm quyền lực của tổng thống Thiệu được củng cố mạnh mẽ nhất. Ông ta dùng bàn tay sắt để kiểm soát báo chí (trước đó ngày 11-5-1972, tổng thống Thiệu đã ban hành lệnh thiết quân luật). Nhưng sau khi Hiệp định Paris được ký kết ngày 27-01-1973, chính quyền Thiệu yếu dần. Các lực lượng chống cộng tại miền Nam hiểu rằng Mỹ đang chuẩn bị bỏ rơi chính quyền của Thiệu nên sự điều chỉnh lại thái độ chính trị và giữ một khoảng cách nào đó đối với chính quyền là cần thiết. Những người ủng hộ Nguyễn Văn Thiệu đang lần lượt bỏ ông.

“Ngày ký giả đi ăn mày” là cuộc xuống đường lớn nhất và được quần chúng công khai ủng hộ đông nhất trong thời kỳ chống Mỹ và chính quyền Thiệu. Về mặt công khai, cuộc xuống đường này như đã nói có bốn tổ chức báo chí khởi xướng, nhưng chỉ cần nhìn vào những nhân vật dẫn đầu cuộc biểu tình thì biết ai đứng sau lưng sự kiện lịch sử này của báo chí miền Nam: ngoài chủ tịch Nghiệp đoàn Nam Việt Nguyễn Kiên Giang, các nhà báo lão thành như Nam Đình (chủ báo Thần Chung và sau là Đuốc Nhà Nam), Trần Tấn Quốc (chủ nhiệm tờ Tiếng Dội Miền Nam và là người khởi xướng giải Thanh Tâm cải lương) còn có nhà văn – nhà báo Tô Nguyệt Đình tức Nguyễn Bảo Hóa, nhà báo Văn Mại (cựu tổng thư ký tòa soạn báo Buổi Sáng), Quốc Phượng, nhà thơ – nhà báo Kiên Giang Hà Huy Hà đều là cán bộ cộng sản chính cống!

Chính quyền Thiệu đã biết trước cuộc xuống đường này vì trong làng báo có khá nhiều ký giả giả, ký giả chỉ điểm, ký giả làm việc cho trung ương tình báo. Nhưng chính quyền vẫn không ngăn chặn hoặc phá vỡ cuộc tổ chức xuống đường. Cuộc xuống đường lấy hình ảnh “ký giả ăn mày” để tố cáo sắc luật 007/72 đã khiến cho nhiều ký giả phải chịu cảnh thất nghiệp do nhiều tờ báo bị đóng cửa vì không có tiền đóng ký quỹ. Chính vì vậy nên mỗi ký giả tham dự cuộc xuống đường đều được Ban tổ chức phát cho một nón lá, một bị đệm của người ăn xin (đeo vào cổ) và một cây gậy. Lực lượng chính hỗ trợ cho các nhà báo là các dân biểu – nghị sĩ đối lập, trong đó có nhiều người đồng thời là nhà báo như anh Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Hữu Chung và tôi. Cuộc xuống đường diễn ra ngày 10 tháng 10 – 1974, xuất phát từ trụ sở của Nghiệp đoàn ký giả Nam Việt, nằm trên đường Lê Lợi, giáp đường Tự Do (nay là đường Đồng Khởi). Lộ trình dự định của đoàn biểu tình là tuần hành trên đại lộ Lê Lợi, nhắm thẳng chợ Bến Thành là nơi có đông đảo quần chúng chờ đợi. Nhưng ngay trước trụ sở Nghiệp đoàn ký giả Nam Việt, một rừng dày đặc cảnh sát dã chiến án ngữ không cho đoàn biểu tình vượt qua đường Nguyễn Huệ. Tôi có mặt cùng một số dân biểu và nhà báo lão thành ở hàng đầu, cũng nón lá, bị, gậy; chạm mặt trực tiếp với hàng rào cảnh sát. Về phần mình, tôi chủ trương dùng tình cảm và sự thuyết phục để đột phá qua hàng rào. Tôi nói với người cảnh sát đứng trước mặt tôi với cái khiên tre chắn ở giữa: “Anh có nhiệm vụ của anh là ngăn chặn biểu tình, tôi có nhiêm vụ của tôi với tư cách đại biểu của dân. Giữa tôi và anh chẳng có thù ghét gì. Tôi đẩy tới, anh đẩy lùi lại thì có sao đâu”. Thật sự trước các nhà báo, các dân biểu – nghị sĩ và nghệ sĩ – trí thức rất hiền lành, lực lượng cảnh sát cũng không hăng hái lắm để ra tay đàn áp nếu họ không bị khiêu khích hoặc kích động làm mất đi sự bình tĩnh. Do đó khi đám đông “ký giả ăn mày” rướn tới một cách quyết liệt là hàng rào cảnh sát tự vỡ ra và dòng người biểu tình cuồn cuộn đổ ra đại lộ Lê Lợi như dòng sông đổ ra biển. Người dân hai bên đường hoan hô đoàn biểu tình, nhiều người hào hứng nhập vào đoàn, nhất là thanh niên học sinh. Đến chợ Bến Thành, những người buôn bán trong chợ ào ra “bố thí” các ký giả ăn mày, nhét vào bị của chúng tôi đủ thứ bánh trái và quà tặng khiến cho hình ảnh ký giả đi ăn mày càng đậm nét. Trên báo Điện Tín ngày 10-10-1974, anh Lý Chánh Trung ghi lại cảm tưởng của anh như sau: “Trong một tiếng đồng hồ, từ công trường Lam Sơn đến chợ Bến Thành, rồi từ chợ Bến Thành về công trường Lam Sơn tôi có cảm tưởng đang bềnh bồng trôi trên biển, bị cuốn ra khơi rồi đưa trả về bờ”.

Cả hai đài VOA (Tiếng nói Hoa Kỳ) và BBC (Anh) nhìn nhận đây là cuộc biểu tình lớn nhất kể từ 3 năm qua.

Tuy nhiên, cuộc xuống đường của ký giả ăn mày ngày 10-10-1974, dù rầm rộ và gây một ảnh hưởng lớn trong dư luận vẫn diễn ra khá hòa bình. Trái hẳn với màn ‘‘hậu ký giả ăn mày” diễn ra tối hôm đó và ngày hôm sau, ‘‘chiến tranh’‘ đã thật sự nổ ra giữa đoàn biểu tình và lực lượng cảnh sát, sự đàn áp không nương tay và có cả máu đổ.

Sau khi đoàn biểu tình giải tán, một số anh em nhà báo và dân biểu lui về trụ sở của Nghiệp đoàn ký giả Nam Việt ở đầu đường Lê Lợi, đối diện với trụ sở Hạ nghị viện (tức Nhà Hát Thành Phố). Lý do tập hợp tiếp ở đây là để canh giữ những quà biếu nhận được từ quần chúng. Điều mà anh em không ngờ là phía lực lượng cảnh sát bị khiển trách nặng sau cuộc biểu dương lực lượng khá tự do của các nhà báo, đang chuẩn bị ‘‘chuộc tội’‘. Cảnh sát đặt bộ phận chỉ huy dã chiến của họ trên lầu nhà hàng Rex ngó xéo qua trụ sở Nghiệp đoàn ký giả. Giám đốc cảnh sát Đô thành Trang Sĩ Tấn là người trực tiếp chỉ huy cuộc đàn áp này. Tôi không có mặt tại trụ sở Nghiệp đoàn lúc đó vì phần sau không nằm trong kế hoạch chung, mà do một số anh em tự biên tự diễn.

Sáng sớm hôm sau tôi trở vào Hạ viện mới hay chuyện xảy ra đêm qua. Thời đó đâu có điện thoại cầm tay để thông báo cho nhau những sự kiệc bất ngờ như thế. Anh em kể: lúc giờ giới thiệu, cảnh sát tập trung lực lượng, từ phía chợ Bến Thành ào tới trụ sở Hạ Nghị Viện và Trung tâm báo chí. Hàng rào của anh em dân biểu mới lập ra bị xé bởi một trận mưa dùi cui. Nhiều anh em bị đánh rất đau. Nặng nhất là danh dân biểu bác sĩ Đinh Xuân Dũng, đơn vị Bình Thuận. Anh Dũng còn bị cảnh sát túm lôi và ném lên xe, chở đi mất. Anh em nhanh chóng trao đổi với nhau. Anh Hồ Ngọc Nhuận đề nghị, nếu anh Đinh Xuân Dũng không được trả về trước khi trời sáng, thì ta sẽ mở đợt tấn công mới thật “bốc lửa”. Tất cả tán thành. Chiếc LaDalat được chất đầy một đống vỏ xe cũ và mấy can xăng. Nếu bị tấn công, anh Nhuận sẽ lái xe phóng vào sân Hạ Viện, rồi sẽ tính tiếp… Chuẩn bị xong đâu đấy thì có một chiếc xe Jeeps cảnh sát chạy tới trước trụ sở Ủy ban. Từ trên xe, anh Đinh Xuân Dũng bị ném xuống. Anh em vội chạy ra khiêng vô.

Tôi được nghe anh Đinh Xuân Dũng nói với anh em “Tui đã mổ và cứu sống cho nhiều đứa tụi nó, vậy mà tụi nó vẫn thẳng tay với tôi. Chẳng có tình nghĩa gì”. Dân biểu Dũng từng là bác sĩ quân y. Trên mặt và trong người anh có nhiều thương tích nhưng cũng không quá nặng. Anh em – không chịu thua ông Thiệu và giám đốc cảnh sát Trang Sĩ Tấn – đã nghĩ ra kế độc để đánh trả lại, hoặc ít ra cũng tạo được một xì –can-đan để hạ uy tín của chính quyền Thiệu. Tham gia vào kế hoạch này có các bác sĩ giám đốc và phó giám đốc Bệnh viện Sùng Chính: Bác sĩ Lê Khắc Quyến và bác sĩ Nguyễn Văn Mẫn (Bác sĩ Mẫn từng là thị trưởng Đà Nẵng trong cuộc nổi loạn tại miền Trung năm 1966 của quân đội và Phật giáo).

Bác sĩ Dũng được bí mật đưa vào bệnh viện Sùng Chính rồi từ đó được đưa trở lại Hạ viện bằng xe cứu thương và trên một băng ca.

Xe cứu thương không đưa dân biểu Dũng (được băng bó kín mít như đang trong tình trạng nguy kịch) thẳng đến trụ sở Hạ viện vì lúc này cảnh sát tập trung rất đông trên đường Tự Do, đối diện với trụ sở. Chiếc xe cứu thương xuất hiện từ đường Hai Bà Trưng, ở phía sau Hạ viện, hoàn toàn bất ngờ, khiến cho cảnh sát canh chừng trụ sở Hạ viện không kịp trở tay. Một số dân biểu và nhà báo được báo trước đã trực sẵn ở đó. Ba dân biểu, trong đó có tôi, cùng một nhà báo vội vàng kê vai vào khiêng chiếc băng ca đi vòng ra phía trước Hạ viện và đặt xuống ngay tại tiền sảnh. Trên thềm Hạ viện nhìn thẳng con đường Lê Lợi dài đến chợ Bến Thành không thấy bóng một người dân thường nào. Toàn cảnh sát rằn ri và cảnh sát chìm. Trung tâm Sài Gòn lúc này không khác một thành phố ma. Tôi đoán biết giám đốc cảnh sát Đô thành Trang Sĩ Tấn đã được lệnh thẳng tay đàn áp, kể cả báo chí nước ngoài nếu tìm cách quay phim cuộc biểu tình. Mấy hôm trước, tay quay phim người Mỹ của hãng truyền hình CBS ghi hình cuộc đàn áp một số nữ sinh tham gia cuộc biểu tình đã bị cảnh sát chìm đánh ‘‘bề hội đồng’‘ một cách hết sức dã man, máy quay phim bị đập nát còn bản thân anh thì các đồng nghiệp phải đưa vào nhà thương cứu cấp.

Biết chuyện gì đang chờ đợi mình, nhưng anh em không chùn bước và tiến hành giai đoạn tiếp theo của kế hoạch đã định: khiêng chiếc băng ca có bác sĩ Dũng nằm trên đó đến Tòa án Sài Gòn trên đường Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) để nằm vạ đòi công lý. Đoàn biểu tình sẽ trực chỉ đại lộ Lê Lợi, sau đó rẽ sang đường Công Lý và tiến tới hướng Tòa án. Tôi là một trong bốn người khiêng băng ca. Vào cái tuổi 34, chơi quần vợt mỗi ngày không dưới ba set đơn, có ngày chơi đến bốn set, sức khỏe của tôi cực tốt. Khi đoàn biểu tình di chuyển ngang qua bùng binh Nguyễn Huệ, thẳng xuống đường Lê Lợi, cảnh sát dàn hai bên đường với đầy đủ binh khí chống biểu tình, nào súng phóng lựu đạn cay, lựu đạn ói, khiên, gậy v.v… vẫn nhẹ tay cho qua. Bọn “cảnh sát chìm”, mặt lầm lì lăm le tấn công đám đông biểu tình nhưng vẫn chờ lệnh. Những người biểu tình ngán nhất là bọn này. Chúng được Trang Sĩ Tấn dùng vào những việc mà cảnh sát sắc phục không thể hành động công khai!

Khi đoàn biểu tình sắp sửa đến ngã tư Lê Lợi – Công Lý thì lực lượng cảnh sát mới can thiệp quyết liệt. Bọn cảnh sát chìm cũng được tung vào. Chúng tấn công từ mọi phía. Nào lựu đạn cay, lựu đạn ói, gậy gộc v.v… ập vào đoàn biểu tình. Chúng kéo những cuộn kẽm gai “concertina” ra, đầu tiên là rào quanh đoàn người biểu tình để ngăn chận di chuyển. Rồi chúng siết vòng rào “concertina” mỗi lúc một hẹp lại như kéo lưới bắt cá trong đìa. Tôi và anh em không thể tiếp tục khiêng cái băng ca tiến lên nữa, phải đặt băng ca xuống đường để đối phó với dây kẽm gai kéo giăng tứ phía. Một cuộn kẽm gai “concertina” kéo sát vào chỗ băng ca, gần chạm vào mặt của bác sĩ Dũng nhưng bác sĩ Dũng vẫn gan lì bất động như không hay biết chuyện gì xảy ra. Cảnh sát “nắn gân” bệnh nhân chính trị. Thấy bác sĩ Dũng không động đậy, chúng dừng tay. Đúng lúc đó, tôi nghe một tiếng “huỵch” ở phía sau, quay lại thấy linh mục Lan nằm sóng xoài dưới đất, người vắt ngang lề đường, đầu trút xuống mặt đường còn hai tay thì bụm ngay “chỗ đó”. Anh vẫn còn bình tĩnh để thông báo với anh em “Tụi nó đánh trúng Dinh Độc Lập của tôi rồi”. Tình hình đang căng thẳng nhưng anh em không thể nín cười được. Tôi định đến đỡ cha Lan lên thì bỗng linh cảm có chuyện bất thường ở sau lưng. Tôi vội nhìn lại thì đúng lúc một tên cảnh sát chìm cầm gậy định tấn công tôi. Tôi trừng mắt nhìn anh ta “Anh định đánh lén tôi à? Tôi và anh có thù oán gì với nhau đâu?”. Dùng những lời lẽ như thế với một cảnh sát chìm rõ ràng là không phù hợp nhưng nó lại có tác dụng làm hắn ta phải khựng lại.

Cha Lan người rất gầy, cao 1,66 – 1,67 mét và chỉ cân nặng khoảng 42-43 ký, nhưng khi tham gia biểu tình thì hăng nhất và cũng “ăn đòn” nhiều nhất. Trước khi bị đánh trúng “Dinh Độc Lập”, cha Lan bị cảnh sát của Thiệu cho “nhảy sóng” trên cạn ngay tại công trường Lam Sơn, sát bùng binh có đài nước nằm giữa ngã tư Lê Lợi và Nguyễn Huệ. Cha Lan lái chiếc xe ô tô kiểu “con cóc” – tôi không nhớ hiệu gì – đi từ hướng chợ Bến Thành đến Hạ viện, nơi đông đảo anh em tập hợp để chuẩn bị một cuộc xuống đường. Nhưng ô tô của cha Lan vừa đến địa điểm trên thì bị lực lượng cảnh sát chặn lại. Lúc này cả khu vực trung tâm thành phố đều cấm các loại xe và người đi bộ qua lại. Đường vắng tanh. Những người làm việc ở tầng trên các cao ốc xung quanh núp sau các cửa sổ nhìn xuống.

Sau khi buộc ô tô dừng lại, cảnh sát yêu cầu cha Lan xuống xe. Nhưng cha Lan nhất định không xuống. Họ định lôi anh xuống xe, nhưng cha Lan nhất định không xuống. Họ định lôi anh xuống xe, nhưng cha Lan khóa các cửa xe từ bên trong. Thế là cảnh sát không làm sao “túm” được ông, dù vẫn nhìn thấy ông ngồi tỉnh bơ trong xe. Họ tức điên lên. Từ trên thềm Hạ viện, các dân biểu theo dõi diễn tiến cuộc đối đầu của cảnh sát với ông Lan không khác hình ảnh mấy con mèo đang tìm cách vồ con chuột trong cái lồng. Một đoạn phim Tom và Jerry cho người lớn. Để áp lực với ông Lan, họ hè nhau nhấc chiếc ô tô lên, cho nó nghiêng qua bên này rồi bên kia, liên tục như chiếc tàu con bị các cơn sóng dữ vồ liên tục. Bên trong xe, cha Lan khi thì bị hất văng qua bên trái, khi thì văng qua sát vào phía cửa bên phải, tội nghiệp làm sao, nhưng bạn bè ông không làm sao can thiệp vì cả khu vực này đã bị lực lượng cảnh sát cô lập. Ông Lan chịu đựng như thế cho đến khi mấy người “bạn dân” tay chân rã rời phải tự bỏ cuộc…

… Trở lại cuộc xuống đường với ý định đưa chiếc băng ca có bác sĩ Dũng trên đó đến Tòa án nhưng bị hàng rào “concertina” chận lại – cuối cùng thì đoàn biểu tình không đến được mục tiêu, phải trở lại Hạ viện, nhưng ảnh hưởng của cuộc xuống đường này rất lớn. Thêm một cú đấm hạ uy tín chính quyền Thiệu đang sa sút vào thời điểm này (1974).

… Trong bài tố cáo sắc luật 077/72 trên báo Bút Thần số cuối cùng, tôi có viết: dứt khoát không làm báo, viết báo trong chế độ Thiệu. Nhưng thực tế không dễ dàng như thế, cái nghiệp báo chí vẫn đeo đẳng tôi. Sau khi nghỉ làm báo một thời gian ngắn, kỹ sư Võ Long Triều, cựu bộ trưởng Bộ thanh niên dưới thời chính phủ Nguyễn Cao Kỳ, có kế hoạch xuất bản một tờ nhật báo lấy tên Đại Dân Tộc. Anh Triều, khá mạnh về tài chính, chấp nhận đóng tiền ký quỹ như sắc luật 007/72 qui định (20 triệu). Biết rằng hai tờ báo Tiếng Nói Dân TộcTin Sáng, trước khi đóng cửa, là những tờ báo có nhiều độc giả, anh Triều thuyết phục tôi cùng anh và anh Hồ Ngọc Nhuận ký chung một “tuyên ngôn” trên số báo ra mắt. Đây là một cách quảng cáo tờ Đại Dân Tộc là sự kết hợp hai tờ Tiếng Nói Dân TộcTin Sáng. Lúc đầu tôi từ chối vì biết rằng tuy lúc này anh Triều cũng hoạt động đối lập nhưng anh vẫn có khá nhiều quan điểm về chính trị khác tôi. Nhưng anh Nhuận cùng anh Triều đến tận nhà tôi hai lần “lôi” tôi cho được vào tờ báo. Cuối cùng tôi nhận lời vì nể anh Nhuận là chính. Tờ Đại Dân Tộc ra được một thời gian ngắn, tôi không lui tới tòa soạn nữa. Còn anh Nhuận theo nó một thời gian rồi cũng rút vì cuối cùng nó lộ ra là tờ báo có lập trường chống cộng rất dứt khoát.

Nhưng cuối cùng tôi vẫn cầm bút trở lại theo lời mời của anh Lý Chánh Trung và anh Dương Văn Ba khi hai anh này làm tờ Điện Tín. Thực tế vào cận thời điểm này, việc tìm kiếm một diễn đàn để bày tỏ quan điểm là hết sức cần thiết. Tiếp tục giữ thái độ “tẩy chay” chính quyền mà treo bút là không thiết thực và hoàn toàn bất lợi.


16. Tham gia nhóm Dương Văn Minh

Như đã nói, tôi gặp trung tướng Dương Văn Minh lần đầu tại Bangkok (Thái Lan) năm 1966 khi ông Minh sống lưu vong tại đây. Tôi đến Bangkok để dự Hội nghị APU (Hiệp hội dân biểu nghị sĩ châu Á). Lúc này sắp có bầu cử Tổng thống lần đầu (1967), tôi là đại diện cho báo chí cho liên danh Trần Văn Hương - Mai Thọ Truyền. Tôi được ông Hương ủy nhiệm gặp trung tướng Dương Văn Minh để thuyết phục lên tiếng ủng hộ liên danh của ông. Cuộc gặp ấy để lại trong tôi một tình cảm đẹp về vị tướng ăn nói nhỏ nhẹ, vừa trí thức vừa khiêm tốn. Những người không quen thân ông vẫn gọi ông là đại tướng Nguyễn Khánh gắn cho ông sau cuộc lật đổ chế độ Diệm ngày 1-11-1963. Ông vẫn giữ cấp bậc trung tướng.

Năm 1969, từ Bangkok ông trở về Sài Gòn, chấm dứt thời kỳ lưu vong trên đất Thái. Ngay những ngày đầu về nước, ông được dư luận đón nhận như một nhân tố mới của bức tranh chính trường miền Nam. Dinh Hoa Lan – nơi ông ở - nhanh chóng trở thành một địa điểm tập hợp của những người mong muốn có một chính quyền mới không theo đuổi chiến tranh. Biệt thự của ông nằm trên đường Hồng Thập Tự (nay là Nguyễn Thị Minh Khai), nhưng cửa chính này rất ít khi được mở, ngoại trừ ông Minh tiếp các đại sứ hoặc mở các cuộc tiếp tân chính thức.

Chơi lan là một trong ba thú tiêu khiển đam mê của ông. Hai cái thú kia là nuôi cá kiểng và chơi quần vợt. Với ông Minh, đã không chơi thì thôi, còn chơi thì không chơi lơ mơ theo kiểu những người có tiền “học đòi làm sang”. Lan được ông tự tay chăm sóc, ông có đủ các loại sách để nghiên cứu, chỉ dẫn cách trồng, cách lai giống mới… Mỗi ngày trong phòng khách của ông đều chưng một chậu lan mới đẹp nhất ông đích thân chọn lựa từ vườn lan. Thỉnh thoảng vợ chồng tôi cũng được ông tặng một giò lan quí.

Sân phía trước là vườn lan, còn sân sau và bên hông nhà, ông dành để nuôi cá kiểng. Gần ông Minh, tôi mới biết chơi cá kiểng cũng không khác chơi tem. Sưu tập mỗi loại cá phải đủ bộ, tức là đủ các màu. Khi chưa đủ bộ, thiếu một con chẳng hạn, ông quyết định tìm cho được. Tướng tình báo Mỹ Charles Timmes có mặt tại miền Nam từ thời Ngô Đình Diệm, nắm được cái thú đam mê này của ông Minh, tìm cơ hội tiếp cận ông bằng cách cứ mỗi dịp đi Singapore về lại mang đến biếu ông Minh một hai cặp cá mà trong bộ sưu tập của ông Minh còn thiếu. Ông Minh rất ít khi chịu tiếp tướng Timmes, ông thường nói với tôi “Nó đến để thăm dò phản ứng của anh em mình đó”. Nhưng khi Timmes đến với một hai bịch plastic đựng cá – thường là cá quí - thì ông Minh khó lòng từ chối tiếp tay tình báo Mỹ này. Tôi đã chứng kiến nhiều lần Charles Timmes kiên nhẫn đứng chờ, lấp ló ở cuối sân quần vợt, bên ngoài hàng rào, đến khi ông Minh ra hiệu cho phép mới bước vào. Thường Timmes mang theo một thùng banh Spalding biếu ông Minh. Timmes biết rõ ông Minh chơi loại vợt hiệu Spalding và cũng đánh bóng Spalding. Đây cũng là một khía cạnh nghệ thuật của người làm tình báo.

Trong thư viện riêng của ông Minh có cả một góc dành cho các loại sách và tạp chí nghiên cứu cá kiểng. Sách và tạp chí về quần vợt cũng rất nhiều, nhất là các sách về kỹ thuật căn bản. Thời trẻ ông chơi giỏi cả hai môn: Bóng đá và quần vợt. Ông từng là thủ môn của đội Thủ Dầu Một. Nhưng sự nghiệp cầu thủ của ông không được thành công. Ông cũng từng là một tay quần vợt đánh đôi có hạng tại miền Nam vào những năm 50. Về mặt trình độ, ông Minh và cha tôi chơi quần vợt ngang nhau, đều có lối đánh rất kỹ thuật và đẹp. Nhưng cha tôi chơi quần vợt theo cảm hứng, còn ông Minh là người thích nghiên cứu sách vở. Ông chăm sóc từng động tác kỹ thuật, từ cú giao bóng cho đến các cú đánh bên trái và phải, kể cả cú bỏ nhỏ và cú “xì mách” nhờ lợi thế thân hình cao to.

Hồi nhỏ tôi thường ra sân quần vợt ở Biên Hòa xem cha tôi thi đấu, nhưng lớn lên đi học xa, ở nội trú, nên không có cơ hội chơi môn thể thao này. Chính lúc làm việc chung với ông Minh, tôi mới bắt đầu tập chơi một cách nghiêm túc. Ông khuyến khích tôi bằng cách tặng tôi một cây vợt Spalding, một túi đựng vợt và banh đồng thời mời tôi mỗi thứ hai, thứ tư và thứ sáu đến sân số bốn ở Xẹc Tây, tức câu lạc bộ CSS (Cercle Sportif Saigonnais), cùng chơi với nhóm của ông. Xẹc Tây có những qui định hết sức chặt chẽ đối với hội viên của mình, không dành cho bất cứ ai một ưu tiên hay ưu đãi nào, dù đó là bộ trưởng, tướng lãnh hay một nhà tài phiệt nổi tiếng. Thế nhưng hội đồng quản trị CLB Xẹc đã phá vỡ thông lệ của mình khi dành riêng cho ông Minh sân số bốn, nơi có mặt sân tốt nhất, mỗi tuần ba buổi sáng. Và cũng chỉ có sân số bốn, khi ông Minh chơi, mới được đặt các ghế ngồi xuống sân.

Cuối năm 1971, tôi mới tập chơi quần vợt. Lúc đó tôi đã 31 tuổi, có nghĩa là bắt đầu khá trễ. Nhưng chỉ trong ba năm, từ hạng “non classé” (chưa được xếp hạng), tôi lần lượt lên các hạng Ba, hạng Nhì và cuối cùng hạng Nhất (Premiere Series) trong hệ thống xếp hạng của CLB Xẹc. Đầu năm 1975, tôi đứng thứ hai trong bảng xếp hạng của Premiere Série. Ở CLB Xẹc, còn có hạng “Hors Série” (Ngoại hạng) gồm các tay vợt Ôn Văn Năng (cha của tay vợt vô địch Ôn Tấn Lực thập niên 90). Huỳnh Phú Quí (cha của nữ vô địch Huỳnh Mai Huỳnh), Tạ Duy Báo, De Launlanié…

Sở dĩ tôi tiến rất nhanh vì trong thời gian “tẩy chay” Hạ nghị viện, rảnh rỗi nên ngày nào tôi cũng vào Xẹo Tây đánh quần vợt. Tôi chơi ba năm bằng người khác chơi... sáu năm! Quần vợt làm cho ông Minh và tôi dễ gần gũi với nhau.Tôi lui tới Dinh Hoa Lan từ khi khi ông Minh vừa trở về từ Bangkok (1969) nhưng tập hợp mà sau này gọi là nhóm Dương Văn Minh, chỉ chính thức hình thành vào năm 1970 khi anh em đề xuất với ông Minh ra ứng cử tổng thống và được ông chấp thuận. Nhóm Dương Văn Minh ban đầu có cả ông Nguyễn Ngọc Thơ (cựu phó tổng thống thời Ngô Dình Diêm, cựu thủ tướng sau 1963 lúc tướng Minh làm quốc trưởng), kiến trúc sư Nguyễn Hữu Phi (cựu bộ trưởng Thanh niên Thể thao thời ông Thơ làm thủ tướng). Sau đó ông Thơ bị bệnh nặng không đến họp nữa, còn ông Phi thì không thích hoạt động chính trị. Ông Thơ gốc là một công chức ngạch Đốc phủ sứ, được ông Ngô Dình Diệm cất nhắc lên vị trí phó tổng thống nhằm có một gương mặt đại diện miền Nam bên cạnh ông. Tướng Minh và ông Thơ khăng khít với nhau từ năm 1956 khi tướng Minh được ông Diệm giao sứ mạng tiễu trừ lực lượng vũ trang Hòa Hảo và giăng bẫy bắt lãnh tụ của họ là Ba Cụt. Trong kế hoạch bắt Ba Cụt có ông Nguyễn Ngọc Thơ tham gia. Chính trên đường đi gặp ông Thơ là đại diện chính phủ, để thương thuyết một cuộc trở lại hợp tác với chính quyền của lực lượng Hòa Hảo mà Ba Cụt bị phục kích bắt sống. Sau đó theo lệnh của tổng thống Diệm, tòa án quân sự tuyên án tư hình Ba Cụt và chặt đầu ông bằng máy chém!

Ông Thơ nếu không bệnh và chết sẽ vẫn là một cố vấn rất được tướng Minh tin cậy. Vì rằng hai người là bạn thân thiết lâu năm với nhau, mặt khác ông Minh có một sự nể trọng thật sự đối với ông Thơ. Ông Thơ là một nhà hành chính giỏi, có kinh nghiệm lãnh đạo và duy trì nhiều quan hệ với các nhân vật Mỹ thế lực. Ông cũng là một chuyên viên kinh tế giỏi. Cái chỗ yếu của ông Thơ là không được các trí thức và quần chúng ủng hộ. Dư luận coi ông là một nhân vật “ba phải”, thời nào cũng được trọng dụng. Khi ông Thơ, cựu phó tổng thống của chế độ Diệm, được tướng Minh chọn làm thủ tướng sau cuộc đảo chính ngày 1-11-1963, báo chí mỉa mai gọi chính phủ Thơ là chính phủ... của những Đốc phủ sứ, tức là một chính phủ của những quan lại thời Pháp, lạc hậu đối với những đòi hỏi của tình hình mới. Thật sự khi tướng Minh chọn ông Thơ làm thủ tướng, đã gây thất vọng ở lớp trí thức miền Nam từng nuôi hi vọng cuộc lật đổ gia đình Ngô Đình Diệm sẽ dẫn tới một cuộc cải cách lớn trong guồng máy lãnh đạo miền Nam. Nhưng điều đó đã không xảy ra. Ông Bùi Diễm, đại sứ của Sài Gòn tại Hoa Kỳ thời ông Thiệu, kể rằng: khi hay tin ông Thơ lại bổ nhiệm làm thủ tướng, ông Diễm đã bày tỏ sự không đồng tình của mình với tướng Lê Văn Kiện, bạn thân của ông Minh. Tướng Kim trả lời Bùi Diễn bằng tiếng Pháp: “Pour Big Minh c'est un postulat” (Với “Minh lớn” đó là một vấn đề không cần phải bàn lại). Trung tướng Dương Văn Minh đã mất nhiều uy tín vì tiếp tục tín nhiệm ông Thơ.

Nên việc ông Thơ không có sức khỏe để tham dự nhóm Dương Văn Minh rốt cuộc lại là một thuận lợi cho ông Minh trong giai đoạn này.

Ngoài ông Thơ, tướng Minh còn có người bạn thân đến sinh hoạt thường xuyên với nhóm, đó là luật sư Trần Ngọc Liễng, đã từng là bộ trưởng xã hội thời chính phủ Kỳ. Làm đổng lý văn phòng cho ông bộ trưởng Liễng là... đạo diễn Lê Dân! Ông Liễng theo đạo Phật, đã có quan hệ với Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam trước khi sinh hoạt với nhóm ông Minh. Tôi không rõ ông Liễng có nói riêng với ông Minh về mối quan hệ bí mật này của mình hay không. Tuy hai gia đình rất thân nhau, nhưng trong hoạt động chính trị, ông Liễng không phải là một cố vấn có trọng lượng đối với ông Minh. Một người bạn lâu đời khác trong quân ngũ, “dính líu” với nhau qua nhiều biến động chính trị và cuộc đời binh nghiệp là trung tướng Mai Hữu Xuân, được ông Minh coi như một một “quân sư” cố vấn mật của mình. Tướng Mai Hữu Xuân từng nắm ngành an ninh cảnh sát thời Ngô Dình Diện và được coi là người thực hiện vụ “kết liễu” hai anh em Diệm - Nhu, có một tiếng tăm và hình ảnh hoàn toàn không thuận lợi trước quần chúng và các giới chính trị. Chính tướng Mai Hữu Xuân cũng ý thức điều này và tránh xuất hiện công khai. Chắc chắn ông Minh đã có những tham khảo ý kiến với tướng Xuân về những người gia nhập nhóm. Đánh giá các tướng lãnh khác của tướng Xuân phần nào cũng có giá trị đối với ông Minh. Lúc đầu, hình như trong nhóm có cả ông Võ Văn Hải, đã từng là chánh văn phòng của tổng thống Diệm.

Ngồi vào chiếc ghế trống đặt bên cạnh ông Minh trong các buổi họp - sau khi ông Thơ bị bệnh vắng mặt - là luật sư Vũ Văn Mẫu, nghị sĩ Thượng nghị viện. Ông Mẫu từng là ngoại trưởng trong chính phủ Ngô Đình Diệm, đã cạo đầu và từ chức ngoại trưởng để phản đối chính sách đàn áp Phật giáo của chính phủ Diệm. Ông Mẫu là một chính khách sắc sảo, một con người trung thực, có những quan hệ quốc tế sâu rộng, đại diện cho lực lượng Phật giáo Ấn Quang. Ông rất được ông Minh và anh em trong nhóm kính trọng. Các ý kiến của ông luôn được ông Minh đánh giá cao.

Đối với các thành viên khác của nhóm, phần nhiều tập hợp từ khoảng 1969-1970, người được ông Minh nể trọng và có nhiều tình cảm là giáo sư Lý Chánh Trung. Ông Trung là một trí thức trung thực, không hám danh lợi, có cuộc sống riêng giản dị. Ông luôn phát biểu thẳng thắn. Tuy không hoạt động chính trị như một chính khách nhưng ông Trung luôn dấn thân vào các hoạt động chính trị yêu nước và vì dân chủ. Ông từng là đổng lý văn phòng tại Bộ Quốc gia Giáo dục khi người bạn của ông là giáo sư Nguyễn Văn Trường làm bộ trưởng Bộ này (thời chính phủ Kỳ). Ông Trung là người thảo các diễn văn quan trọng của ông Minh bằng tiếng Pháp. Khi làm đổng lý văn phòng ở Bộ Giáo dục, ông Trung chủ trương chấm dứt sự tồn tại các trường Pháp dạy theo chương trình Pháp tại miền Nam.

Các thành viên khác hoạt động trong nhóm ông Minh có bác sĩ Hồ Văn Minh, phó chủ tịch Hạ viện, từng là tổng quản lý Chương trình phát triển quận Tám. Khi ông Dương Văn Minh có ý định ra ứng cử tổng thống, ông đã chọn bác sĩ Hồ Văn Minh làm ứng cử viên phó tổng thống. Tánh tình hiền hòa, là người kết nối giữa các anh em, bác sĩ Minh thường được tín nhiệm trong vai trò đại diện anh em. Bác sĩ Minh là bạn thân của dân biểu Hồ Ngọc Nhuận.

Trong những anh em trẻ, có lẽ anh Nhuận là người duy nhất đã biết tướng Dương Văn Minh và từng cộng tác với ông Minh nhiều năm trước, ngay sau cuộc lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Anh Nhuận, nhỏ con, gầy, mảnh khảnh nhưng là con người hết sức năng động và liều lĩnh trong các hoạt động chống Mỹ và chính quyền. Trong anh em, anh là người đạt kỷ lúc số lần xuống đường biểu tình. Anh được coi
là “nhà tổ chức biểu tình” có... bằng cấp! Với bạn bè, anh luôn sẵn sàng giúp đỡ.

Ông Nguyễn Văn Cước, hoạt động công đoàn, bị cảnh sát của Nguyễn Văn Thiêu truy lùng, “tị nạn” trong Dinh Hoa Lan, là một thành viên trong nhóm... không vắng mặt buổi họp nào. Ông Cước rất ít khi phát biểu.
Linh mục Nguyễn Ngọc Lan thỉnh thoảng có đến tham dự nhưng không phải là một thành viên... thường trực.

Người trẻ nhất trong nhóm là dân biểu Dương Văn Ba thuộc đơn vị Bạc Liêu. Trong Hạ viện 1967- 1971, anh Ba cũng là dân biểu trẻ tuổi nhất. Thông minh, chính trị nhạy bén, viết báo và làm báo giỏi nhưng từ năm 1971 anh không thể tiếp tục hoạt động công khai vì ở nhiệm kỳ Hạ viện 1971-1975 anh không còn là dân biểu. Do đó anh bị ghi vào danh sách truy nã của chính quyền Thiệu. Cũng như ông Cước, anh Ba “tị nạn chính trị” trong Đinh Hoa Lan của tướng Minh cho đến ngày 30-4- 1975.

Khi tôi đến sinh hoạt trong nhóm ông Minh, tôi đưa một người bạn thân đến giới thiệu với ông. Đó là anh Nguyễn Hữu Chung, dân biểu lập hiến ở đơn vị Bến Tre; ở hai nhiệm kỳ lập pháp sau (1967-1971 và 1971-1975), anh Nguyễn Hữu Chung ứng cử cùng đơn vị với tôi tại Sài Gòn. Trước 1975, những người quen biết tôi và anh Nguyễn Hữu Chung gọi thân mật tôi là Chung Lý, còn anh Hữu Chung là Chung Nguyên. Đầu tiên ông Mãnh chỉ định anh Chung Nguyễn là đại diện báo chí cho ông. Nhưng sau đó (tôi không nhớ rõ vì lý do gì) khi cận ngày bầu cử tổng thống 1971, ông lại chọn tôi làm đại diện báo chí cho ông. Có lẽ ông Minh nhận thấy tôi làm công việc tiếp xúc với báo chí trong và ngoài nước phù hợp và có hiệu quả. Anh Chung Nguyễn và tôi thường kết hợp với nhau trong các hoạt động. Mỗi khi tôi xuất bản một tờ báo tôi đều rủ anh tham gia. Hai đứa cùng đứng tên trên “manchette”, tôi làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, còn anh là giám đốc chính trị.

Nhóm ông Minh sinh hoạt mỗi tuần một lần vào ngày thứ tư. Sau khi tình hình khẩn trương tăng lên thì thêm một lần vào ngày thứ sáu. Thường thứ sáu ông mời cả nhóm dùng một món ăn nhẹ. Ông Minh là người thích ăn ngon, sành điệu về các món Tây. Khi đãi khách, ông xuống tận bếp đôn đốc người đầu bếp chuẩn bị các món ăn. Trong những ngày không họp, khi có những món ăn đặc biệt, ông cho người mời vợ chồng tôi vào cùng thưởng thức. Vợ tôi cũng thường nấu những món ăn ông ưa thích đem vào biếu ông bà. Bà Minh luôn chìu những người khách của chồng, nhưng về tánh tình bà khó hơn ông Minh.

Ông Minh không thích người Mỹ đã rõ. Từ khi tôi lui tới Dinh Hoa Lan, người Mỹ duy nhất trong chính quyền Mỹ mà tôi thấy ông tiếp là cựu trung tướng Charles Timmes. Người Mỹ này có mặt tại miền Nam từ năm 1961 với chức vụ chỉ huy nhóm cố vấn quân sự Mỹ. Ngay sau khi quân đội VNCH và các cố vấn Mỹ thất bại ở trận đánh trực thăng vận tại ấp Bắc ngày 2-01-1963 (Mỹ nhìn nhận có bốn máy bay trực thăng bị bắn hạ và ba cố vấn Mỹ bị thiệt mạng), tướng Timmes cùng vị chỉ huy trực tiếp của mình là tướng Paul Harkins đã có mặt tại chỗ. Timmes đã từng nhảy dù xuống bờ biển Normandie (Pháp) trong Thế chiến thứ hai. Cuối đời, tướng về hưu Charles Timmes được người đứng đầu CIA là William Colby tuyển dụng và đưa trở qua Việt Nam thay thế một nhân vật tình báo đã từng đóng vai trò quan trọng trong cuộc lật đổ tổng thống Ngô Đình Diệm: Lou Conein. Trong những ngày cuối cùng của người Mỹ tại Việt Nam (tháng 4-1975), Timmes có một vai trò bên cạnh chế độ Thiệu như Lou Conein đối với chế độ Diệm. Timmes cùng đại sứ Graham Martin vận động sự ra đi của tổng thống Thiệu, áp lực phó tổng thống Trần Văn Hương từ chức nhường quyền lãnh đạo lại cho trung tướng Dương Văn Minh, và cũng chính Timmes ngăn trở tướng Kỳ toan tính làm đảo chính. Timmes chỉ rời Sài Gòn tối 29-4-1975 khi ông ta thấy rằng Mỹ không thể thoát kết thúc đầy bi kịch.

Suốt gần sáu năm cộng tác với tướng Minh, tôi cũng không thấy giữa ông và tòa đại sứ Pháp có một quan hệ nào, ngoại trừ những ngày cuối tháng 4-1975. Chính người Mỹ cũng nghi ngờ ông Minh có quan hệ đặc biệt với người Pháp. Tuy nhiên về văn hóa và tình cảm không thể chỗ cãi là ông Minh nghiêng về người Pháp hơn là người Mỹ. Ông Minh nói và viết sành tiếng Pháp, còn tiếng Mỹ chỉ đủ để giao tiếp. Tiếng Pháp, ông học từ nhỏ và sử dụng nó thuần thục từ thời ông còn ở trong quân đội Pháp. Trong cương vị tướng lãnh giao tiếp thường xuyên với các cố vấn Mỹ và các cấp cao của Washington, đúng ra tiếng Mỹ của ông rất sành. Nhưng rõ ràng ông không hào hứng trong việc cải tiến vốn tiếng Mỹ của ông. Trong khi các tướng như Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ... cũng được Pháp đào tạo, nói tiếng Pháp rất sành nhưng sau này cũng nói tiếng Mỹ rất trôi chảy. Bởi đó cũng là một cách dễ dàng để họ tranh thủ người Mỹ.

… Các buổi họp tài Dinh Hoa Lan diễn ra tại phòng họp trên tầng một của dãy nhà nằm phía ngôi nhà chính. Thường cuộc họp bắt đầu bằng cuộc nói chuyện tự do trong khi chờ đợi mọi người đến đông đủ. Ai có thông tin hay nhận định gì về tình hình cứ nói. Khi cuộc họp chính thức bắt đầu, tôi có trách nhiệm vừa điểm báo vừa trình bày một tổng kết tình hình. Trong tổng kết tình hình, thường tôi lồng vào các thông tin những đoạn trích từ các báo, tài liệu của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam và của Hà Nội. Nguồn cung cấp báo chí và tài liệu mật này là từ M., một cô gái làm việc cho hãng tin AFP (hãng thông tấn Pháp). Cô M. quen tôi khi đi dự các cuộc họp báo do tôi tổ chức và qua các cuộc phỏng vấn tôi của AFP. Cha cô là một giáo sư nổi tiếng trường Đại học Luật. Từ quan hệ trong công việc, chúng tôi tiến dần đến một tình cảm đặc biệt. Tình yêu chăng? Lúc đó chúng tôi không nói ra công khai bằng lời tình cảm này, nhưng cách cư xử với nhau không đặt ra một giới hạn nào thì có lẽ không cần một định nghĩa nào khác bằng ngôn ngữ. Với thời gian nhìn lại, tôi nhận ra đó là một chân dung tình yêu tha thiết và đầy hy sinh. M. nếu không yêu tôi mãnh liệt thì không bao giờ cô chấp nhận sự nguy hiểm to lớn khi dám lấy tài liệu từ các cuộc họp báo của các phái đoàn MTDTGPMN và VNDCCH tại Tân Sơn Nhất mang về cho tôi. Ngoài tài liệu phát trong cuộc họp báo, M. còn tìm cách lấy các tài liệu khác của hai đoàn này để giúp tôi hiểu rõ hơn đường lối của người cộng sản cùng thái độ của Hà Nội thuộc các biến động chính trị, quân sự tại miền Nam.

M. ngụy trang các tài liệu thành những gói quà bề ngoài rất đẹp như những gói quà sinh nhật và trao cho tôi khi gặp nhau bên hồ bơi tại câu lạc bộ CSS (Xẹc Tây). M. giỏi cả tiếng Pháp lẫn tiếng Anh và là bạn thân của cô Thiện con gái bà Ngô Bá Thành. Tôi không thể đoán được chuyện gì sẽ xảy ra cho M. nếu M. bị cảnh sát phát hiện đang trao những tài liệu này cho tôi. Có một hôm M. mang về cho tôi cuộn băng ghi âm tại phi trường Lộc Ninh trong cuộc trao đổi tù nhân chánh trị giữa phía VNCH và MTDTGPMN. Cuộn băng ghi lời phát biểu của tù nhân - sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm: Anh từ chối việc trao trả anh cho MTDTGPMN, với lý do anh không phải là người của Mặt trận, mà là người hoạt động trong thành phần thứ ba và đòi chính quyền Thiệu phải trả tự do cho anh tại Sài Gòn. Anh Mẫm đích thực hoạt động trong hàng ngũ những người cộng sản nhưng vào thời điểm bị chính quyền Thiệu bắt thì anh buộc phải hoạt động với một tư cách khác. Anh đã đóng tròn vai này cho đến ngày 30-4-1975. Vì không chấp nhận sự trao trả cho Mặt trận nên anh Mẫm bị đưa trở lại nhà giam của chính quyền Sài Gòn.

M. đã có được cuộn băng này từ vị đại diện của phái đoàn Ba Lan có mặt tại Lộc Ninh trong thành phần ủy ban quốc tế Kiểm soát và Giám sát. Tôi đã mang băng vào phiên họp ở Dinh Hoa Lan và phát lại cho ông Minh cùng anh em nghe. Tôi có khá nhiều kỷ niệm với anh Mẫm, trước khi anh bị bắt và sau này trong những ngày cuối cùng của tháng 4-1975.Vì không ghi chép, tôi không nhớ rõ đó là năm nào, Huỳnh Tấn Mẫm và Nguyễn Văn Thắng (hình như lúc đó là chủ tịch Tổng hội sinh viên) kéo một số rất đông sinh viên biểu tình trước Hạ viện và sau đó muốn đến Thượng viện để tiếp xúc với Chủ tịch Thượng viện. Hôm đó tôi đã cùng Mẫm và Thắng dẫn đầu cuộc xuống đường của sinh viên đi đến trụ sở Thượng viện nằm trên bến Bạch Đằng. Để đối phó sự đàn áp và ngăn chặn của cảnh sát quận Nhất trên đường đi, tôi đã lấy thẻ dân biểu đeo trước ngực. Vào thời điểm những năm 1968-1969, cảnh sát còn nể nang các đại biểu dân cử và chưa có lệnh thẳng tay đàn áp các cuộc xuống đường.

Đoàn sinh viên xuống đường ủng hộ hai anh Mẫm và Thắng xuất phát từ Hạ viện đi thẳng đường Tự Do (tức Đồng hởi) xuống đến bờ sông Sài Gòn, rẽ sang phải để đến trụ sở Thượng viện. Đoạn đường này êm xuôi. Nhưng đến trước trụ sở Thượng viện, cảnh sát rằn ri đã có mặt sẵn dàn chào, các cuộn kẽm gai giăng bít lối vào Thượng viện. Mẫm, Thắng và đoàn sinh viên phải dừng lại. Tôi nói anh em sinh viên cứ chờ tại đây, để tôi vào một mình dàn xếp. Tôi đưa thẻ dân biểu ra, cảnh sát vẹt hàng rào kẽm gai dành một lối đi hẹp cho tôi. Vào Thượng viện, người đầu tiên tôi gặp là cựu trung tướng - nghị sĩ Trần Văn Đôn. Tôi chuyển lời yêu cầu của đại diện Tổng hội sinh viên muốn gặp Chủ tịch Thượng viện để trình bày một số nguyện vọng. Liền đó tôi và ông Đôn gặp Chủ tịch Nguyễn Văn Huyền. Ông Huyền đồng ý tiếp ngay. Ông Huyền là luật sư, một nhân vật có ảnh hưởng trong cộng đồng Thiên Chúa giáo và một tiếng nói có trọng lượng đối với Tòa Tổng giám mục. Ông cũng có uy tín đối với các giới trí thức miền Nam.

Chủ tịch Nguyễn Văn Huyền cùng một số nghị sĩ trong đó có ông Trần Văn Đôn tiếp hai anh Mẫm và Thắng tại một phòng họp của ủy ban Thượng viện. Tôi còn nhớ anh Thắng phát biểu rất lưu loát và hùng biện. Anh Mẫm cũng phát biểu, giọng nhẹ nhàng và chậm rãi.

Sau này, cuối tháng 4-1975, tôi và Mẫm có một cuộc gặp gỡ khác vào thời điểm dặc biệt của đất nước. Nhưng đó là chuyện sẽ được kể sau.

… Trở lại nhóm Dương Văn Minh, lúc đó các thành viên cũng gồm từ “ôn hòa” đến “cực tả”. Ôn hòa như dân biểu – bác sĩ Hồ Văn Minh, nghị sĩ - luật sư Vũ Văn Mẫu, dân biểu Nguyễn Hữu Chung... và trung tướng Dương Văn Minh. Còn theo hướng “tả” là các anh Lý Chánh Trung, Dương Văn Ba... Hai anh Hồ Ngọc Nhuận và linh mục Nguyễn Ngọc Lan được chính ông Minh xếp vào loại “cực tả”.

Như tôi đã nói, các buổi họp khởi đầu phần điểm báo và tổng kết tình hình trong nước và ngoài nước liên quan đến Việt Nam do tôi phụ trách. Sau đó là ý kiến của anh em, đôi khi là kế hoạch hành động sắp tới chống chính quyền Thiệu. Phải nhìn nhận rằng nhóm ông Minh chưa bao giờ bàn thảo và hình thành một “plate – forme” (cương lĩnh) chính trị đúng nghĩa. Điều đó cũng dễ hiểu vì sự tập họp của nhóm này không mang tính chất đảng phái chính trị, mà chỉ là một tập họp những người yêu nước, đối lập với Thiệu và chống sự can thiệp của Washington vào Việt Nam, có cùng một hoài bão đấu tranh cho hòa bình. Nhờ những mục tiêu rất rộng ấy, các thành viên nhóm dễ đoàn kết với nhau và tránh được những cuộc tranh luận và xung đột liên quan đến các vấn đề thuộc lý luận chính trị.

Xét về “gốc tích” thành phần của nhóm ông Minh... lộ ra sau 1975, chúng ta sẽ không ngạc nhiên về sự chuyển dịch lập trường của nhóm ông Minh từ “ở giữa” chuyển sang tả, rồi hướng đến sự sẵn sàng thỏa hiệp, liên kết với MTDTGPMN và Hà Nội. Gần phân nửa thành viên trong nhóm có quan hệ với MTDTGPMN như ông Cước, anh Nhuận, giáo sư Trung, linh mục Lan, luật sư Liệng... Khi Hiệp định Paris được ký kết, nhóm ông Minh ủng hộ triệt để sự thi hành Hiệp định. Bản thân tôi cũng tham gia Lực lượng Hòa giải Dân tộc (HGDT) do luật sư Vũ Văn Mẫu đứng đầu; lực lượng này được Phật giáo ấn Quang hậu thuẫn và có chủ trương đòi tổng thống Thiệu tôn trọng và thi hành Hiệp định. Lực lượng HGDT tổ chức nhiều cuộc hội thảo và thuyết trình về Hiệp định Paris tại chùa ấn Quang và tại nhiều địa điểm khác tại miền Trung như Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi... Luật sư Liễng thì thành lập Tổ chức đòi thi hành Hiệp định Paris với sự tham gia của linh mục Nguyễn Ngọc Lan, thẩm phán Triệu Quốc Mạnh, nhà văn Thế Nguyên (báo Trình Bày), nhà hoạt động công đoàn Nguyễn Văn Cước v.v...

Nhiều tháng trước kết thúc chiến tranh, trong một buổi sinh hoạt của nhóm ông Minh, tôi đặt ra giả thuyết (mà giờ đây, sau 30 năm nghĩ lại tôi thấy thật “ngây thơ”): rất có thể khi ông Thiệu bị lật đổ và ông Minh lên nắm quyền thì không còn thời gian để thương lượng giải pháp chính trị và thay thế Thiệu lúc đó chỉ là thay chính quyền Thiệu để cầm cờ... đầu hàng. Tôi nói tiếp “theo tôi nếu lịch sử đặt chúng ta vào vai trò này, chúng ta cũng sẵn sàng nhận lấy vì hòa bình dân tộc”. Tôi còn nhớ không ai có mặt hôm đó phản đối ý kiến của tôi. Ông Minh cũng tỏ ra tán đồng. Như vậy lúc đó dù không hẳn đoán trước được “số phận” chờ đợi mình ở ngày 30-4-1975, nhóm ông Minh cũng không quá bất ngờ về những gì sẽ xảy ra cho mình. Các thành viên chủ chốt trong nhóm ông Minh đều ở lại đất nước cho đến giây phút chiếc xe tăng đầu tiên của Quân Giải phóng vào Dinh Độc Lập. Người duy nhất ra nước ngoài do hoàn cảnh đặc biệt của gia đình là dân biểu Nguyễn Hữu Chung. Những người ở lại hầu như không ai tỏ ra hối tiếc về sự chọn lựa của mình. Kể cả ông Dương Văn Minh. Dù cho số phận từng người sau đó khác nhau, không phải ai cũng suôn sẻ.

Nguồn: Nhà xuất bản Trẻ (www.nxbtre.com.vn), TP HCM, 2004, 486 tr., 97.000 Ä‘