trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
Xã hội
Giáo dục
  1 - 20 / 171 bài
  1 - 20 / 171 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Xã hộiGiáo dục
26.11.2005
Nguyễn Đình Đăng
Đừng coi thường độc giả
 

Tự do sướng nhất trên đời
Tự lừa lại sướng hơn mười tự do

(Thơ Nguyễn Bảo Sinh)


Có những người viết báo ở Việt Nam hẳn phải coi độc giả là ngu dốt hết cả. Gửi bài đăng trên báo điện tử, họ lại có vẻ bất chấp thời đại của mạng nhện toàn cầu, khi mà mọi thông tin đều có thể được dễ dàng kiểm chứng, mọi sự kiện đều có thể được nhìn nhận từ nhiều góc độ, đánh giá theo nhiều quan điểm khác nhau, khi cộng đồng người Việt không những gồm hơn 81 triệu dân tại quê nhà mà còn khoảng 3 triệu người nữa rải rác khắp năm châu bốn biển, trong đó có không ít các đại diện sáng giá của giới khoa bảng. Công bằng mà nói, một vài tờ báo luôn thận trọng kiểm chứng thông tin trước khi công bố, trong khi các tờ khác không hề có tác phong trên. Cũng còn may là một số chuyên san điện tử như VietNamNet hay Tuổi Trẻ Online đã có thái độ thực sự cầu thị, sau khi nhận được thư chỉ rõ nhầm lẫn của bài viết, tòa soạn cũng đã sửa lại [1] .

Đây không phải là lần đầu tiên tôi thấy thông tin bị bóp méo. Tôi muốn nói đến bài viết “Phan Thị Hà Dương: Về nước là điều tất nhiên” của tác giả Hoàng Lê đăng tại VietNamNet ngày 21/11/2005 (http://vietnamnet.vn/giaoduc/2005/11/513789/). Bài này đã được một số báo điện tử khác trong nước như Tuổi Trẻ Online, Dân Trí, Tin Tức Mới nhất loạt đăng lại cùng ngày với đầu đề “Phan Thị Hà Dương: Nữ phó giáo sư tuổi 26” [2] . Cũng giống như hai bài trước, trong đó một tác giả đã “phong” danh hiệu “giáo sư” cho một assistant professor (trợ lý giáo sư) Việt Nam ở Mỹ [3] , hay một tác giả khác đã cắt hẳn tên giáo sư người Pháp trong giải thưởng về toán học trao cho 2 người Pháp và Việt Nam mà người Pháp là thày của người Việt Nam, lần này tác giả Hoàng Lê đã “phong” cho tiến sỹ Phan Thị Hà Dương chức danh “phó giáo sư” (associate professor). Một người sinh năm 1973, tức là năm nay 32 tuổi, mà năm 26 tuổi (1999) đã được phong là “phó giáo sư” chỉ 8 tháng sau khi bảo vệ luận án tiến sỹ (!) Anh bạn tôi, một tiến sỹ khoa học về vật lý, bảo vệ tiến sỹ năm 27 tuổi và tiến sỹ khoa học năm 30 tuổi tại viện Liên hợp Nghiên cứu Hạt nhân Dubna, hiện là phó giáo sư (associate professor) thứ thiệt tại một trường đại học danh tiếng ở Tokyo, nghe vậy thốt lên: “Ở bên Pháp trở thành phó giáo sư dễ vậy sao?!” Anh được nhận biên chế phó giáo sư của Nhật Bản cách đây 2 năm, lúc anh 45 tuổi, chỉ sau khi đã nghiên cứu nhiều năm tại châu Âu và Hoa Kỳ, và có hàng chục công trình nghiên cứu đăng tại các tạp chí chuyên ngành uy tín nhất của vật lý, được nhiều đồng nghiệp trích dẫn. Lúc đầu, có thể cũng như một số hoặc nhiều độc giả khác, tôi cũng thoạt có ý nghĩ: “Việt Nam ta thực quả là lắm thần đồng và thiên tài!” Nhưng đã là trí thức thì hay đa nghi, trước khi tin một cái gì, phải tự mình kiểm tra lại cho chắc. Trong thời đại internet kiểm tra các thông tin loại này thực dễ ợt.

Nghĩ là làm liền. Tôi vào http://www.google.com và gõ: “Phan Thi Ha Duong”. Tiếng Anh là cái thứ tiếng thô sơ, không “tinh túy” như tiếng Việt nên thiếu hẳn dấu! Tuy vậy tôi dễ dàng tìm thấy trang web của cô: http://www.liafa.jussieu.fr/~phan/ Tại đây trong phần lý lịch khoa học (tạm dịch từ Latin: Curriculum vitae) của Phan Thị Hà Dương, tôi đọc thấy: “Depuis Septembre 1999: Maître de Conférences à l'Université Paris 7”. Câu này sau khi được “chuyển ngữ” một phần sang tiếng Việt có nghĩa là: “Từ năm 1999: maître de conférences tại Đại học Paris 7”. Té ra là tác giả Hoàng Lê đã thăng cấp cho “maître de conférences” (phát âm: me-tr’ đờ công-phê-răng-x’) thành “associate professor” (phó giáo sư)!

Đọc đến đây chắc độc giả tức mình, vặn tôi: “Vậy nếu không phải là phó giáo sư thì maître de conférences là cái gì?” Dịch nghĩa đen chữ này thì “maître” có nghĩa là “người thày”, còn “conférences” trong trường hợp này là “các bài (buổi) giảng hay thuyết trình”. Như thế “maître de conférences” có nghĩa là “giảng viên”. Để khỏi võ đoán, tôi lại vào http://www.yahoo.com và gõ “What is a maitre de conferences?” (Maître de conferences là cái gì?). Tôi tìm thấy ngay một đường dẫn rất gần với Đại học Paris 7 có tên là "Opening of a position of Maitre de Conference at University Paris-6 in 2005” (tức là: “Mở một biên chế maitre de conference tại Đại học Paris-6 vào năm 2005”) tại http://www-d0.fnal.gov/cgi-bin/d0news?read__JOBS__657 Tại đây có một thông báo bắt đầu như sau:

Dear Colleague,

A position of Maitre de Conference (permanent teaching-research position for people after their PhD or a postdoc) will open at Universite Pierre et Marie Curie (Paris-6) in 2005 (…)

có nghĩa là:

Đồng nghiệp thân mến,

Đại học Pierre và Marie Curie (Paris-6) sẽ mở một biên chế Maitre de Conference [biên chế giảng dạy – nghiên cứu cố định cho những người sau khi nhận bằng tiến sỹ hay một vị trí postdoc (sau-tiến sỹ)] vào năm 2005 (…)

Như vậy “maitre de conferences” là “permanent teaching-research position for people after their PhD or a postdoc” có nghĩa là “biên chế giảng dạy – nghiên cứu cố định cho những người đã nhận bằng tiến sỹ hay một vị trí sau-tiến sỹ” [4] . Tại http://www.google.com/search?
hl=en&lr=&oi=defmore&defl=en&q=define:Maitre+de+conferences

cũng viết: “Trong hệ thống giáo dục Pháp, maitre de conferences đại loại tương đương với một trợ lý giáo sư (assistant professor) theo hệ thống của Mỹ, hay một giảng viên (lecturer) theo hệ thống của Anh hoặc Úc.” Trợ lý giáo sư (assistant professor) hay giảng viên (lecturer) thì không tương đương, mà thực chất là thấp hơn, phó giáo sư (associate professor), lại càng không tương đương với “giáo sư” (professor) (Xem chú giải 3).

Trang web tại đường dẫn http://en.wikipedia.org/wiki/Assistant_Professor giải thích chi tiết như sau:

“French (France, Belgium)

After the doctorate or a grande école, scholars who wish to enter academe may apply for a position of maître de conférences ("master of conferences").

After some years in this position, they may take an "habilitation to direct theses" [or "to conduct research"] before applying for a position of professeur des universités ("university professor"). In the past, this required a higher doctorate [a "State Degree"](…).”

Thông tin này tiếng Việt có nghĩa là:

“Hệ thống Pháp (Pháp, Bỉ)

Sau luận án tiến sỹ hay tốt nghiệp một trường lớn [5] , các nhà khoa học nào muốn tiếp tục sự nghiệp hàn lâm có thể nộp đơn lấy biên chế bậc maitre de conferences.

Sau vài năm tại bậc này họ có thể lấy bậc “hướng dẫn luận án” trước khi nộp đơn để tranh bậc “giáo sư đại học”. Trong quá khứ bậc này (giáo sư đại học) yêu cầu phải có bằng tiến sỹ cao hơn [gọi là tiến sỹ quốc gia] (…)”.

Trang web về giáo dục của Nhà nước Pháp tại
http://www.education.gouv.fr/personnel/
enseignant_superieur/enseignant_chercheur/default.htm

có ghi rõ sự khác nhau giữa thang lương của “maître de conférences” và “giáo sư đại học”. Thang lương của “maître de conférences” có 4 bậc: khởi điểm là 1.991 euro, sau 2 năm: 2.242 euro, hạng nhất: 3.606 euro, mức cao nhất: 4.299 euro. Thang lương giáo sư đại học cũng có 4 bậc, nhưng lương cao hơn khoảng gấp rưỡi: khởi điểm: 2.888 euro, sau 2 năm: 3.222 euro, giai đoạn cuối của hạng nhất: 5.122 euro, mức cao nhất: 5.798 euro.

Cuối cùng chính trang web tiếng Anh của Phan Thị Hà Dương tại
http://www.liafa.jussieu.fr/web9/equiprech/
fichepers_en.php?id=46

có ghi rất rõ “Thi Ha Duong Phan, Assistant professor, PARIS 7” (“Thị Hà Dương Phan, trợ lý giáo sư, PARIS 7”).

Là một người Việt Nam, tôi rất mừng vì dòng giống con rồng cháu tiên của chúng ta có nhiều người học cao và tài giỏi như TS Phan Thị Hà Dương, Ngô Bảo Châu, v.v. Nhưng chụp cho “maître de conférences” cái mũ “phó giáo sư” là một sự tùy tiện có lẽ chỉ nước Nam ta mới có. Việc đánh tráo khái niệm này có thể làm độc giả hiểu sai thực chất của một nhà khoa học trẻ, bảo vệ tiến sỹ tháng 1 năm 1999, và sau đó 8 tháng nhận biên chế maître de conférences (giảng viên). Cần lưu ý rằng khi nhận vị trí này cô chưa có một công trình nào được công bố trên tạp chí chuyên ngành vì bài báo đầu tiên của cô đăng tại tạp chí chuyên ngành là vào năm 2001 (Xem danh mục công trình đã đăng TS Phan Thị Hà Dương tại http://www.liafa.jussieu.fr/~phan/anglais/public.html) [6] . Sau khi bảo vệ tiến sỹ, cô đã đăng 8 công trình nghiên cứu trên tạp chí quốc tế trong vòng 4 năm (từ năm 2001 đến 2004). Đó là một thành tích đáng khen. Tuy nhiên, không biết ở Việt Nam ta thế nào, chứ ở châu Âu, Mỹ, Nhật Bản ngày nay không thể có chuyện một người mới 26 tuổi và chỉ với số lượng (chưa nói đến chất lượng) 8 bài báo được đăng (hoặc đang chờ được đăng) lại có thể trở thành phó giáo sư tại một đại học danh tiếng.

Thành ngữ phương Tây có câu: “Không cần mạ vàng hoa huệ” (There’s no need to guild the lily) ý nói cái gì hay, cái gì đẹp thực sự thì không cần phải trang điểm thêm [7] . Việt Nam ta cũng có câu: “Hữu xạ tự nhiên hương” (Có thực tài tất có người biết đến). Một vẻ đẹp tự nhiên, sau khi bị bôi son trát phấn, có thể trở nên quái dị. Thiết nghĩ các quý tòa soạn, trước khi đăng bất cứ một thông tin gì, nên chịu khó mất vài phút kiểm tra lại thông tin trên internet, tránh tình trạng đưa thông tin méo mó, thậm chí xuyên tạc sự thật tới bạn đọc.

Viết xong ngày 22/11/2005, sửa lại ngày 24/11/2005 tại Tokyo

© 2005 talawas




[1]Bài viết “Ngô Bảo Châu bước lên đỉnh cao toán học” tại Tuổi Trẻ Online ngày 8/11/2004 (http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?
ArticleID=54873&ChannelID=89
) và bài viết “Người Việt Nam đầu tiên nhận giải thưởng toán học Clay” tại VietNamNet ngày 9/11/2004 (http://www.vnn.vn/giaoduc/2004/11/344015/) lúc đầu đã loại hẳn tên giáo sư G. Laumon, vốn là thầy của Ngô Bảo Châu, ra khỏi danh sách 2 người được giải thưởng nghiên cứu toán học Clay năm 2004.
[2]Bài báo “Phan Thị Hà Dương: Nữ phó giáo sư tuổi 26” đã được đăng trên Tuổi Trẻ Online ngày 21/11/2005 tại đường dẫn http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?
ArticleID=109351&ChannelID=13

Tuy nhiên, sau khi tôi gửi bài viết này của mình đến tòa soạn Tuổi Trẻ Online, bài báo nói trên đã biến mất khỏi đường dẫn này từ chiều 23/11/2005.
[3]Trong các ngành khoa học tự nhiên ở Bắc Mỹ assistant professor (trợ lý giáo sư) là vị trí khởi đầu của một người vừa mới nhận bằng tiến sỹ (Ph.D.). Những người xuất sắc thì sau 5- 6 năm có thể được đề bạt lên associate professor (phó giáo sư). Tuy nhiên chỉ có khoảng 10% được đề bạt như vậy trong 10 trường đầu bảng như ĐH Princeton. Những phó giáo sư giỏi dần dần sẽ được đề bạt thành professor (giáo sư) thông thường là ở độ tuổi trung bình là 50 – 55 tuổi. Có rất ít người được đề bạt giáo sư ở tuổi 40. Lương trung bình hàng năm của giáo sư là khoảng 90.000 USD. Cũng không nên nhầm trợ lý giáo sư (assistant professor) với trợ giảng (teaching assistant). Trợ giảng (teaching assistant) là vị trí cho những người đang làm luận án thạc sỹ hay tiến sỹ. Nhiệm vụ của vị trí này thực chất là giúp sinh viên giải bài tập.
[4]Tác giả Hoàng Lê còn viết: “…đa phần là những người đã có bằng postdoc (sau tiến sỹ)”. Đây cũng lại là một thông tin sai. Postdoc (post-doctoral) là một vị trí cho những nhà nghiên cứu trẻ tuổi (thường dưới 35 - 36 tuổi), sau khi đã bảo vệ xong tiến sỹ không lâu, và thường kéo dài khoảng 2 – 3 năm. Vị trí này thực chất là một giai đoạn thực tập nghiên cứu, trước khi có thể nhận biên chế cố định, và không được đánh dấu bằng bằng cấp nào gọi là “bằng postdoc” cả.
[5]“Grandes écoles” của Pháp là những trường đại học hoặc viện nghiên cứu nằm ngoài các trường đại học công cộng. Các grandes écoles thường tập trung vào một chuyên ngành nào đó ví dụ như kỹ nghệ, có số sinh viên không lớn lắm, nhưng được tuyển chọn kỹ càng. Các grandes écoles thường rất có tăm tiếng, được chia ra làm nhiều lĩnh vực bao gồm: các écoles normales supérieures (4 trường: 1 ở Paris, 1 ở Cachan - ngoại ô Paris, và 2 ở Lyon), các trường và viện kỹ nghệ (36), các trường và viện kỹ nghệ về sinh học và nông nghiệp (4), các trường kinh doanh (11), các học viện quân sự (3), các trường chính trị và hành chính (2).
[6]Điều này khiến khẳng định của tác giả Hoàng Lê rằng: “Hội đồng xét tuyển các trường sẽ chọn ra từ 5 đến 10 người để phỏng vấn. Việc này thường rất căng thẳng và họ soi rất kỹ các hồ sơ, đặc biệt là hồ sơ khoa học (các bài báo đăng trên các tạp chí chuyên ngành nổi tiếng hoặc trình bày tại các hội nghị lớn được tính hệ số điểm cao hơn)” trở nên thiếu sức thuyết phục.
[7]Xem “Không cần mạ vàng cho hoa huệ” (trao đổi giữa Đặng Thái Sơn và Aleksander Laskowski), Người Viễn Xứ, 27/10/2005, tại đường dẫn: http://www.nguoivienxu.vietnamnet.vn/service/
printversion.vnn?article_id=723394