trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 434 bài
  1 - 20 / 434 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tủ sách talawas
28.11.2005
Milovan Djilas
Giai cấp mới
Phạm Minh Ngọc dịch
 1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11 
 
Khi đăng bản dịch tác phẩm Giai cấp mới của Milovan Djilas, chúng tôi đã sơ suất bỏ sót 4 đoạn trong chương “Trong thế giới ngày nay” ở cuối tác phẩm, ngay sau chương “Chủ nghĩa cộng sản dân tộc”. Nay xin đăng bổ sung và có lời cáo lỗi chân thành đến dịch giả Phạm Minh Ngọc và độc giả.
talawas
Trong thế giới ngày nay


1.

Để có thể xác định được vị trí quốc tế của chủ nghĩa cộng sản đương đại phải xem xét, dù là một cách sơ lược, những sự kiện đang diễn ra trên thế giới ngày nay.

Chiến tranh thế giới thứ nhất đã biến nước Nga Sa Hoàng thành một nhà nước kiểu mới, nghĩa là đã hình thành những quan hệ xã hội kiểu mới. Ngoài ra, sự cách biệt về trình độ kĩ thuật và tốc độ phát triển giữa Mĩ và Tây Âu đang ngày một rộng thêm. Sự cách biệt này, vốn là kết quả của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, có nguy cơ trở thành hố sâu ngăn cách không thể nào vượt qua được nếu ở Mĩ không diễn ra những thay đổi sâu sắc về cơ cấu kinh tế.

Không chỉ chiến tranh - chiến tranh chỉ là chất xúc tác - đã là nguyên nhân của sự cách biệt đáng kể giữa Mĩ và phần còn lại của thế giới. Nguyên nhân của sự phát triển nhanh chóng của Mĩ dĩ nhiên là do những khả năng của nước này: đấy là những điều kiện tự nhiên và xã hội cũng như đặc điểm của nền kinh tế Mĩ. Chủ nghĩa tư bản Mĩ đã phát triển trong những hoàn cảnh khác hẳn với châu Âu và đạt đỉnh cao khi những kẻ cạnh tranh châu Âu đã đi vào thoái trào.

Ngày nay sự cách biệt được thể hiện như sau: 6% dân số thế giới sống ở Mĩ sản xuất 40% tất cả sản phẩm vật chất và dịch vụ toàn cầu (theo Johnson và Kross). So với châu Âu thì tình hình là như sau: giữa chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai tỉ trọng của Mĩ trong nền sản xuất thế giới chiếm 35%, sau thế chiến thứ hai đã là 50%. Châu Âu, không tính Liên Xô, tình hình hoàn toàn ngược lại: tỉ trọng của nó giảm từ 68% năm 1870 còn 42% trong những năm từ 1925 đến 1929, sau đó giảm còn 34% vào năm 1937 và 25% vào năm 1948 (số liệu của Liên hợp quốc).

Sự phát triển công nghiệp tại các nước thuộc địa cũng có vai trò to lớn, chính nhờ đó mà đa số các nước này đã giành được độc lập sau chiến tranh thế giới thứ hai.

Giữa hai cuộc thế chiến, chủ nghĩa tư bản đã trải qua một cuộc khủng hoảng kinh tế cực kì sâu sắc với những hậu quả xã hội rất to lớn mà chỉ có những người cộng sản giáo điều, đặc biệt là tại Liên Xô mới không chịu công nhận mà thôi. Cuộc đại khủng hoảng năm 1929 chứng tỏ rằng nó vượt xa các cuộc khủng hoảng hồi thế kỉ XIX và những sự xáo trộn tương tự như vậy có thể đe doạ cơ cấu xã hội, thâm chí sự sống còn của cả một dân tộc. Các nước phát triển, đặc biệt là Mĩ, đã phải từng bước và bằng những con đường khác nhau áp dụng một nền kinh tế kế hoạch hoá, ban đầu là trên bình diện quốc gia và sau chiến tranh thế giới thứ hai thì mở rộng ra bình diện quốc tế. Cùng với nó đã diễn ra những thay đổi, tuy không được nói đến nhiều về mặt lí luận, có ý nghĩa thời đại cho các nước đó và cho toàn thế giới nữa.

Cũng trong giai đoạn này đã hình thành các hệ thống toàn trị, ở Liên Xô cũng như ở một vài nước tư bản (nước Đức phát xít).

Khác với Mĩ, nước Đức nằm trong tình trạng bất bình thường, nghĩa là nó không có khả năng sử dụng các biện pháp kinh tế để giải quyết các vấn đề nội bộ cũng như khuyếch trương thế lực trên trường quốc tế. Chiến tranh và chế độ toàn trị (chủ nghĩa phát xít) là lối thoát duy nhất của các tập đoàn độc quyền Đức và vì vậy họ đã khuất phục đảng phát xít quân phiệt.

Liên Xô, như chúng ta đã thấy, áp dụng chế độ toàn trị vì những lí do khác: đấy là điều kiện cần thiết cho công cuộc công nghiệp hoá.

Nhưng còn một điều nữa, có thể ít được để ý, nhưng thực ra lại là bước ngoặt cho thế giới hiện đại.

Đấy chính là chiến tranh. Chiến tranh tạo ra những thay đổi to lớn ở cả những nơi mà hậu quả của nó không phải là cách mạng. Chiến tranh không chỉ gây ra những sự tàn phá khủng khiếp, nó còn làm đảo lộn trật tự thế giới và làm rối loạn quan hệ trong từng nước riêng biệt nữa.

Tính chất bước ngoặt của các cuộc chiến tranh hiện đại được thể hiện không chỉ trong việc kích thích sự tiến bộ kĩ thuật mà còn tạo ra những thay đổi trong cơ cấu kinh tế và xã hội nữa. Chả phải là chiến tranh thế giới thứ hai đã cho nước Anh thấy những quan hệ lỗi thời và làm cho những quan hệ này lung lay đến mức người ta phải tiến hành quốc hữu hoá trên diện rộng ư? Chả phải là Miến Điện, Ấn Độ, Indonesia nhờ đó mà trở thành những nước độc lập ư? Sự thống nhất Âu châu chả phải là hậu quả của nó ư? Chả phải nó đã đưa Mĩ và Liên Xô thành hai lực lượng kinh tế và chính trị chủ yếu ư?

Chưa bao giờ chiến tranh lại có ảnh hưởng sâu rộng như vậy đối với đời sống của từng quốc gia nói riêng và cả nhân loại nói chung. Có hai lí do. Thứ nhất chiến tranh hiện đại nhất định phải là chiến tranh tổng lực. Tất cả các nguồn nhân vật lực đều phải được động viên vì trình độ kĩ thuật cao không cho phép bất cứ lĩnh vực nào “được ngồi chơi xơi nước” nữa. Thứ hai. Vì những lí do về kinh tế, kĩ thuật và hàng loạt lí do khác, thế giới đã trở thành một thể thống nhất hơn bao giờ hết, bất cứ một sự thay đổi nhỏ nào (chiến tranh tạo ra biết bao thay đổi) của một bộ phận cũng tạo ra, giống như với một cơ thể sống, những phản ứng của các bộ phận khác. Bất cứ cuộc chiến tranh hiện đại nào cũng đều có xu hướng trở thành chiến tranh thế giới.

Những bước ngoặt về kinh tế và quân sự “không nhìn thấy được” đó có ý nghĩa vô cùng to lớn và diện tác động vô cùng rộng. Và điều quan trọng là những sự biến đổi đó đếu có “tính tự phát” (khác với các cuộc cách mạng bạo lực, có tổ chức và bị điều kiện hoá về tư tưởng) cho nên nó càng cho thấy rõ xu hướng phát triển của thế giới hiện đại.


2.

Như vậy là thế giới ngày nay, sau chiến tranh thế giới thứ hai, đã không còn là cái thế giới như trước kia nữa.

Năng lượng nguyên tử mà con người tranh đoạt được của thiên nhiên, của vũ trụ là một mốc son chói lọi nhưng không phải mốc son duy nhất của thời đại mới.

Vì đã nói đến năng lượng nguyên tử nên cũng phải ghi nhận rằng chính những người cộng sản đã lựa chọn nó làm biểu tượng của chế độ cộng sản cũng như máy hơi nước từng là biểu tượng và tiền đề của chủ nghĩa tư bản công nghiệp.

Nhưng dù có đánh giá cao biểu tượng đó đến đâu đi chăng nữa thì sự thật vẫn là: năng lượng nguyên tử đã tạo ra những thay đổi không chỉ trong những nước riêng biệt mà là trên toàn thế giới. Nhưng những thay đổi này không đưa nhân loại về hướng chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa xã hội như các “lí thuyết gia” cộng sản kì vọng.

Năng lượng nguyên tử không phải là con đẻ của một dân tộc cụ thể nào, nó là sản phẩm của hàng trăm năm lao động miệt mài của những khối óc vĩ đại nhất của nhiều dân tộc. Việc áp dụng nó cũng là kết quả của những cố gắng của một loạt nước, cố gắng không chỉ trong lĩnh vực khoa học mà của cả lĩnh vực kinh tế nữa.

Thiếu sự hợp tác đó trên toàn thế giới thì việc sử dụng năng lượng hạt nhân đã không thể xảy ra được.

Năng lượng nguyên tử trong tương lai cũng sẽ được sử dụng cho mục đích làm cho thế giới trở thành ngày một thống nhất hơn. Trên đường đi của mình nhất định nó sẽ phá vỡ các rào cản mà nhân loại đã thừa kế được từ quá khứ, đấy có thể là quan hệ sở hữu, quan hệ xã hội, nhưng trước hết là những hệ thống và hệ tư tưởng khép kín thí dụ như chủ nghĩa cộng sản trước cũng như sau cái chết của Stalin.

Xu hướng hợp tác quốc tế là đặc điểm chủ yếu, đặc điểm nổi bật trong thời đại của chúng ta.

Nhưng điều đó không có nghĩa là trước đây thế giới không có xu hướng hợp tác, dĩ nhiên là bằng những phương pháp khác.

Xu hướng thiết lập các mối liên hệ quốc tế thông qua thị trường thế giới đã giành thế thượng phong ngay từ giữa thế kỉ XIX. Đấy đã là sự hợp nhất quốc tế trong thời đại các nền kinh tế tư sản dân tộc và các cuộc chiến tranh dân tộc chủ nghĩa. Sự hợp nhất quốc tế như vậy là đã được thực hện thông qua các nền kinh tế quốc gia và các cuộc chiến tranh giữa các dân tộc.

Các mối quan hệ quốc tế tiếp tục được thiết lập bằng cách phá vỡ các hình thức sản xuất tiền tư bản trong các vùng chưa phát triển và sự phân chia các khu vực này giữa các nước đã phát triển. Đấy là giai đoạn của chủ nghĩa tư bản độc quyền và chiến tranh xâm lược thuộc địa, trong đó mối liên hệ và quyền lợi của các tập đoàn thường đóng vai trò chính, nhiều khi còn lớn hơn cả nhu cầu quốc phòng của đất nước. Khi đó xu hướng hợp nhất quốc tế được thể hiện chủ yếu thông qua cuộc đấu tranh và thống nhất của tư bản độc quyền. Đấy đã là hình thức hợp nhất cao hơn sự hợp nhất thông qua thị trường. Tư bản đã vượt ra khỏi quốc gia, trụ vững và làm chủ toàn thể thế giới.

Xu hướng hợp nhất ngày hôm nay hoàn toàn khác hẳn. Sự tiến lên liên tục theo hướng đó đòi hỏi trình độ phát triển cao, nền khoa học hiện đại, phương pháp tư duy khoa học để có thể đạt được trên bình diện quốc gia hay bằng cách chia thế giới thành những vùng ảnh hưởng độc quyền.

Nhưng xu hướng hợp nhất mới (hợp nhất về sản xuất) đặt cơ sở trên mức độ hợp nhất đã có trước đây, nghĩa là hợp nhất về thị trường và tư bản, lại vấp phải những hình thức quan hệ không phù hợp, già cỗi, đấy là quan hệ trong từng quốc gia, giữa các quốc gia và trước hết là quan hệ xã hội. Nếu trước đây hợp nhất đạt được thông qua các cuộc đấu tranh dân tộc (va chạm và chiến tranh) thì ngày nay hợp nhất chỉ có thể đạt được thông qua việc loại bỏ các quan hệ xã hội đã lỗi thời.

Sự phối hợp và hợp tác trong sản xuất trên bình diện quốc tế sẽ được thực hiện bằng con đường nào, chiến tranh hay hoà bình, không ai có thể nói trước được, nhưng xu hướng là không thể đảo ngược và cũng không có gì phải nghi ngờ.

Con đường thứ nhất: chiến tranh. Sự hợp nhất được thực hiện bằng vũ lực, nghĩa là bằng sự thống trị của một nhóm nào đó. Nhưng “di sản” là không thể tránh khỏi - ngọn lửa chiến tranh, bất hoà và bất công tiếp tục âm ỉ. Hợp nhất bằng chiến tranh là hợp nhất với cái gía là sự hi sinh của những kẻ yếu, những kẻ chiến bại. Ngay cả trong trường hợp chiến tranh có “giải quyết” được những quan hệ cụ thể thì di sản của nó vẫn là một loạt mâu thuẫn và hố sâu chia rẽ.

Ngoài ra, vì nhiên liệu chủ yếu của ngọn lửa chiến tranh hiện là mâu thuẫn giữa hai hệ thống cho nên nó sẽ mang đặc trưng giai cấp chứ không phải dân tộc hay quốc gia như trước nữa. Chiến tranh vì vậy sẽ cực kì mãnh liệt và tàn khốc. Cuộc chiến tranh tương lai sẽ là chiến tranh thế giới hoặc nội chiến chứ không còn là chiến tranh giữa các dân tộc và quốc gia nữa. Chính chiến tranh vì thế sẽ khủng khiếp hơn và ảnh hưởng của nó với công cuộc phát triển hoà bình sau này cũng lớn hơn.

Hợp nhất bằng biện pháp hoà bình sẽ diễn ra chậm hơn nhưng là biện pháp bền vững, hợp lí và công bằng duy nhất có thể chấp nhận được.

Cứ theo những gì đang diễn ra hiện nay, ta có thể cho rằng sự hợp nhất sẽ tính đến những mâu thuẫn của hai hệ thống, ngược với thái độ đặc trưng cho những quá trình tương tự diễn ra trong thời gian qua.

Nhưng điều đó không có nghĩa là các mâu thuẫn hiện nay chỉ giới hạn trong sự đối đầu giữa hai hệ thống. Đang tồn tại và sẽ tiếp tục tồn tại những mâu thuẫn khác, kể cả những mâu thuẫn có nguồn gốc từ quá khứ. Xu hướng hợp nhất nền sản xuất toàn cầu phản ánh một cách rõ ràng và toàn diện nhất trên tấm gương của sự đối đầu giữa hai hệ thống.

Đồng thời sẽ là không thực tế khi cho rằng sự hợp nhất nền sản xuất toàn cầu sẽ được thực hiện trong tương lai gần. Quá trình hợp nhất sẽ kéo dài (vì là kết quả của hoạt động một cách kiên trì, có sự phối hợp và tổ chức tốt của các lực lượng sản xuất và các lực lượng khác của toàn thể nhân loại) và sự hợp nhất hoàn toàn cũng là điều bất khả thi. Cũng như các cố gắng hợp nhất trong quá khứ chưa từng đạt được kết quả hoàn hảo. Sự hợp nhất hiện nay cũng chỉ là một xu hướng, một cái đích mà sản xuất (của các nước phát triển nhất) cố gắng vươn tới mà thôi.


3.

Cuối chiến tranh thế giới thứ hai xu hướng phân li trên cơ sở hệ thống này hay hệ thống kia đã được khẳng định trên phạm vi toàn cầu. Các quốc gia rơi vào vòng ảnh hưởng của Liên Xô, dù đấy chỉ là một phần dân tộc (Đức, Triều Tiên), đã có những nét tương đồng của một hệ thống. Tình hình tương tự cũng diễn ra ở phía bên kia.

Các nhà lãnh đạo Xô Viết nhận thức rõ như thế. Tôi còn nhớ trong một bữa ăn tối vào năm 1945 Stalin đã nói như vô tình: “Không như thời xưa, người chiến thắng trong cuộc chiến tranh hiện đại sẽ áp đặt hệ thống của mình”. Điều đó được tuyên bố khi tiếng súng chiến tranh còn chưa chấm dứt, khi dường như mối thiện cảm và sự tin cậy giữa các đồng minh đang rất cao, hi vọng do những tình cảm ấy đưa lại tưởng như vô bờ bến. Còn vào tháng hai năm 1948 ông ta đã tuyên bố với những người Bulgaria và người Nam Tư chúng tôi như sau: “Họ, phương Tây sẽ thành lập nhà nước trên phần Tây Đức, còn chúng ta sẽ thành lập nhà nước trên phần Đông Đức. Chuyện đó là không thể tránh được”.

Bây giờ người ta hay chia - không phải là không có cơ sở - chính sách của Liên Xô thành “tiền” và “hậu” Stalin. Nhưng không phải một mình Stalin nghĩ ra hệ thống, còn những người kế vị ông ta cũng bám vào hệ thống chặt không khác gì thời còn Stalin. Sự khác biệt của thời hậu Stalin chỉ là cách tiếp cận của các lãnh tụ Liên Xô đối với quan hệ giữa hai hệ thống còn các hệ thống thì vẫn vững như bàn thạch. Chính Chrushchev đã khẳng định tính chất đặc biệt, riêng rẽ của “thế giới xã hội chủ nghĩa”, “hệ thống xã hội chủ nghĩa”, trên thực tế điều đó chỉ có nghĩa là ý định ngoan cố trong việc chia thế giới thành các hệ thống, giữ nguyên tính khép kín của hệ thống của mình nhằm bảo vệ độc quyền lãnh đạo ở bên trong.

Cuộc xung đột Đông - Tây được khoác cho hình thức đấu tranh tư tưởng vì thực chất nó là cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống. Cuộc chiến tranh tư tưởng, đã đầu độc tâm hồn dân chúng của cả hai phe đối địch, không chấm dứt ngay cả khi hai bên đạt được những nhượng bộ tạm thời. Hơn thế nữa, khi cuộc đụng độ về kinh tế, về chính trị và các mặt khác càng khốc liệt thì người ta lại càng có cảm giác như đấy chính cuộc đấu tranh tư tưởng “đơn thuần”. Trên thực tế tư tưởng đã trở thành lực lượng trừu tượng, đã là một thế giới đặc biệt, đã là vật tự thân từ lâu.

Cũng còn một kiểu nhà nước nữa, đấy là các nước đã giành được độc lập từ tay chủ nghĩa thực dân (Miến Điện, Ấn Độ, Indonesia, các nước A Rập...). Các nước này đã thực hiện mọi biện pháp nhằm xây dựng một nền kinh tế tự chủ với hi vọng sẽ tạo cho họ nền độc lập thật sự. Tại đó cùng lúc đang hiện diện nhiều thời đại và hệ thống đan xen vào nhau mà trước hết là hai hệ thống đương thời.

Vì nhiều lí do, mà chủ yếu là các lí do mang tính dân tộc, các nước này chính là đại diện chân thành của tư tưởng độc lập, hoà bình và hiểu biết lẫn nhau. Không đủ sức loại bỏ cuộc xung đột giữa hai hệ thống, họ chỉ có thể làm cho nó bớt căng thẳng phần nào mà thôi: chính các nước này đang là vũ đài tranh chấp của hai hệ thống. Nhưng vai trò của họ có thể gia tăng. Đáng tiếc là hiện nay các nước này chưa có vai trò quyết định.

Cần phải thấy rằng mỗi hệ thống đều cho rằng sự hợp nhất thế giới phải được thực hiện theo hình mẫu của mình. Hai hệ thống đều nói “có” đối với sự hợp nhất nhưng lại có quan điểm hoàn toàn trái ngược về hình thức. Xu hướng hợp nhất thế giới ngày nay đã có hình thù cụ thể và sẽ được thực hiện thông qua cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập, một cuộc đấu tranh nóng bỏng chưa từng có trong điều kiện hoà bình.

Như ta đã biết, biểu hiện về mặt chính trị và tư tưởng của cuộc đấu tranh đó là (phương Tây) dân chủ và (phương Đông) cộng sản.

Nhưng tại phương Tây, với nền dân chủ chính trị, trình độ văn hoá và khoa học kĩ thuật cao hơn nên các xu hướng hợp nhất tự phát cũng biểu hiện rõ ràng hơn, chính phương Tây đang thể hiện như lực lượng bảo vệ tự do, tự do chính trị và tự do tư tưởng.

Hình thức sở hữu ở các nước đó có thể làm chậm lại hay thắt chặt xu hướng này, tất cả phụ thuộc vào hoàn cảnh. Nhưng xu hướng hợp nhất đã và đang hiện diện khắp nơi. Các công ty độc quyền chỉ là cản trở không đáng kể đối với quá trình hợp nhất: họ thực hiện hợp nhất bằng biện pháp lỗi thời – thông qua khu vực ảnh hưởng. Vì quyền lợi của mình, họ cũng có xu hướng hợp nhất. Đảng lao động Anh, kẻ thù của các công ty độc quyền cũng là những người ủng hộ hợp nhất, tất nhiên hợp nhất theo cách của họ. Tại Mĩ, ngay cả nếu nền kinh tế có bị quốc hữu hoá, xu hướng hợp nhất còn biểu hiện rõ ràng hơn. Xu hướng hợp nhất thể hiện rõ không chỉ ở Mĩ mà còn ở Anh, một nước đang tiến hành quốc hữu hoá. Nhưng ngay ở Mĩ quá trình quốc hữu hoá cũng đang được thực hiện, tuy không phải bằng cách thay đổi hình thức sở hữu mà bằng cách chuyển vào tay nhà nước phần lớn thu nhập quốc dân.


4.

Xã hội nói chung và từng thành viên của nó đều cố gắng mở rộng và hoàn thiện quá trình sản xuất. Đấy là qui luật. Trong giai đoạn phát triển hiện nay của khoa học, kĩ thuật và tư duy, qui luật này tác động dưới dạng xu hướng hợp nhất nền sản xuất thế giới. Xu hướng này, nói chung, mạnh hơn ở những nơi có trình độ văn hoá và trình độ sản xuất vật chất cao hơn.

Tại phương Tây xu hướng hợp nhất thể hiện trước hết nhu cầu của kinh tế, kĩ thuật, vân vân, chỉ sau đó mới đến quyền lợi của các lực lượng chính trị, các chủ sở hữu và các lực lượng khác.

Phe Liên Xô tình hình lại hoàn toàn khác. Dù không có các lí do khác, phương Đông cộng sản vẫn phải (chính vì sự lạc hậu) co cụm lại, khép kín lại về mặt kinh tế và tư tưởng, lấy các biện pháp chính trị bù đắp cho sự yếu kém về mọi mặt trong đó có các yếu kém về kinh tế.

Người ta có thể ngạc nhiên, nhưng sự thật là: cái gọi là sở hữu xã hội chủ nghĩa là cản ngại chủ yếu xu hướng hợp nhất thế giới. Tập thể về mặt hình thức, toàn trị về mặt nội dung, cái sở hữu mà giai cấp mới đang nắm giữ đã tạo ra một hệ thống kinh tế và chính trị khép kín, ngăn cản việc thiết lập các mối liên kết quốc tế. Hệ thống này có thể sẽ biến đổi một cách cực kì chậm chạp và thật lâu, trên thực tế nó không hề biểu hiện một sự quan tâm nào đến việc thâm nhập, hội nhập với những hệ thống khác, nghĩa là nó không hề quan tâm đến việc hợp nhất thế giới. Sự biến đổi diễn ra bên trong nó chỉ có mục đích duy nhất là tự củng cố. Đối với hệ thống này, một hệ thống khép kín về bản chất, sự hợp nhất thế giới đồng nghĩa với sự tan rã. Hệ thống với một hình thức sở hữu, quyền lực và tư tưởng duy nhất nhất định phải là hệ thống khép kín, nó sẽ giữ mãi hướng đi độc đáo của mình.

Các lãnh tụ Liên Xô không thể nào tưởng tượng được một thế giới hợp nhất khác với thế giới của chính họ. Thế giới thuộc về họ. Cùng tồn tại hoà bình giữa các hệ thống khác nhau, mà họ thường nói, đối với họ không có nghĩa là sự hội nhập mà chỉ có nghĩa là sự tồn tại tĩnh của một hệ thống này bên cạnh hệ thống kia cho đến khi hệ thống tư bản bị chinh phục hoặc tự cắn nát mình từ bên trong.

Như đã nói ở trên, sự đối đầu giữa hai hệ thống không có nghĩa là các cuộc xung đột giữa các dân tộc hay chiến tranh giải phóng dân tộc đã chấm dứt. Nhưng trong các cuộc xung đột này cũng biểu hiện rõ tính chất chủ yếu của thế giới ngày nay: mâu thuẫn của hai hệ thống. Cuộc khủng hoảng kênh đào Suez suýt nữa đã biến thành vụ đụng độ giữa hai hệ thống, đây chính là sự tranh chấp giữa chủ nghĩa dân tộc và nền thương mại thế giới do những lực lượng thực dân cũ là Anh và Pháp đại diện.

Sự căng thẳng trong đời sống quốc tế là kết quả không thể tránh khỏi của các quan hệ kiểu đó. Chiến tranh lạnh là tình trạng bình thường của thế giới ngày nay. Hình thức của nó có thể luôn luôn biến đổi, có thể nóng lên hay dịu đi, nhưng trong tình hình hiện nay thì không thể loại bỏ hoàn toàn được. Muốn loại bỏ nó trước hết phải loại bỏ nguyên nhân sâu xa hơn, nguyên nhân nằm trong bản chất của thế giới hiện đại, ở bản chất của các hệ thống mà trước hết là hệ thống cộng sản. Chiến tranh lạnh là nguyên nhân của sự căng thẳng trong quan hệ giữa hai hệ thống, nhưng chính nó lại là sản phẩm của những mâu thuẫn sinh ra từ trong quá khứ.

Thế giới mà chúng ta đang sống là thế giới không thể dự đoán được. Đây là thế giới với những chân trời khoa học rộng mở, đang vẫy gọi con người; nhưng nó cũng làm lạnh sống lưng khi nghĩ đến những thảm hoạ toàn cầu mà phương tiện chiến tranh hiện đại có thể gây ra.

Thế giới này nhất định phải thay đổi. Nó không thể tồn tại, hay ít nhất không thể tồn tại lâu trong tình trạng lưỡng lự, nửa muốn phân li nửa muốn hợp nhất như hiện nay. Quan hệ quốc tế, sau khi thoát khỏi tình trạng rắc rối hiện nay, sẽ không phải là các quan hệ lí tưởng và cũng không tránh khỏi va chạm. Nhưng đấy sẽ là những quan hệ khác hẳn hiện nay.

Tình trạng đối đầu giữa hai hệ thống đồng thời lại chứng tỏ rằng loài người đang tiến đến một hệ thống duy nhất. Tình trạng đối đầu hiện nay cũng chứng tỏ rằng việc hợp nhất thế giới, đúng hơn là sự hợp nhất của nền sản xuất quốc tế sẽ diễn ra thông qua cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống.

Xu hướng hợp nhất nền sản xuất quốc tế không dẫn tới và không thể dẫn tới một hình thức sản xuất duy nhất, nghĩa là không dẫn tới một hình thức sở hữu, quyền lực,..v.v…duy nhất. Sự thống nhất này có nghĩa và chỉ có nghĩa là ước mơ vượt qua những trở ngại do quá khứ để lại hoặc do người ta cố tình tạo ra (về chính trị, do các hình thức sở hữu..v.v…), ngăn cản sự mở rộng và nâng cao hiệu quả của nền sản xuất hiện đại. Nó có nghĩa là sự thích nghi đầy đủ của nền sản xuất với các điều kiện của tự nhiên, dân tộc và địa phương. Xu hướng hợp nhất thực sự thúc đẩy sự đa dạng hoá phương pháp sản xuất, sự phối hợp chặt chẽ và sử dụng hiệu quả tất cả các khả năng của nền sản xuất quốc tế.

Khuyết tật không phải là thế giới chỉ có một hệ thống mà ngược lại có quá ít hệ thống khác nhau. Khuyết tật trước hết là các hệ thống này, dù kiểu gì đi nữa, cũng đều là những hệ thống khép kín, tách rời nhau.

Sự khác nhau ngày càng sâu sắc giữa các hội đoàn, các quốc gia, các hệ thống chính trị cùng với sự nâng cao hiệu quả của quá trình sản xuất là một trong những qui luật phát triển của xã hội. Các dân tộc sẽ hợp nhất, con người sẽ càng ngày càng hoà nhập với thế giới xung quanh nhưng đồng thời càng ngày càng có cá tính hơn, cá tính hoá hơn.

Thế giới sẽ trở thành đa dạng hơn nhưng cũng thống nhất hơn. Sự hợp nhất trong tương lai chỉ có thể xảy ra nhờ sự đa dạng chứ không phải sự đơn điệu và đồng nhất. Dù sao mặc lòng, cho đến nay mọi sự đã là như thế. Đơn điệu và đồng nhất chỉ có nghĩa là nô dịch và thoái hoá, có nghĩa là ít tự do hơn.

Một dân tộc không nhận thức được các quá trình và xu hướng đó sẽ phải trả giá đắt: đấy sẽ là dân tộc lạc hậu, dù sức mạnh quân sự có như thế nào và dân số có đông đến đâu, nó vẫn buộc phải hội nhập. Không ai hay nước nào có thể tránh được điều đó, cũng như trước đây đã không có nước nào cản trở được sự thâm nhập của tư bản và sự xác lập mối liên hệ với các dân tộc khác thông qua thị trường quốc tế.

Vì vậy bất kì nền kinh tế nào có xu hướng tự cô lập theo kiểu tự cấp tự túc (dù với bất kì hình thức sở hữu, chế độ chính trị và ngay cả trình độ kĩ thuật nào đi nữa) cũng sẽ phải đối diện với những mâu thuẫn không thể nào giải quyết được và sẽ bị thoái hoá. Điều đó cũng đúng cho cả các hệ thống xã hội, các hệ tư tưởng,..v.vv và ..v.v... Ngày nay, trong một hệ thống khép kín người ta chỉ có thể kéo lê cuộc đời, chứ không thể có bất kì tiến bộ nào và không thể giải quyết một cách rốt ráo những vấn đề do kĩ nghệ và tư duy hiện đại đặt ra, những vấn đềdo nhu cầu của các quan hệ bên trong cũng như bên ngoài hệ thống đặt ra cho con người

Đồng thời, cùng với tiến trình phát triển của thế giới, ta lại có thể nhận ra rằng lí luận của cộng sản (Stalin) về khả năng xây dựng chủ nghĩa xã hội (cộng sản) trong một nước chỉ chứng tỏ đấy là phương pháp củng cố chế độ độc tài toàn trị, nghĩa là sự thống trị tuyệt đối của giai cấp mới, giai cấp bóc lột duy nhất mà thôi. Trong tình hình thế giới hiện nay việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản hay bất kì kiểu xã hội nào khác trong một nước hay một nhóm nước tách biệt khỏi toàn bộ cộng đồng thế giới nói chung là một điều vô nghĩa, nhất định sẽ dẫn đến một nền kinh tế tự cấp tự túc, sẽ dẫn đến sự tự cô lập, dẫn đến chế độ chuyên chế và sự suy giảm khả năng phát triển về kinh tế và xã hội của chính các nước đó. Nhưng vẫn còn một khả năng khác: đấy là đảm bảo cho nhân dân nước mình (phù hợp và trong mối liên hệ với xu hướng tiến bộ về kinh tế và dân chủ trên thế giới) nhiều bánh mì hơn, nhiều tự do hơn, phân phối phúc lợi một cách công bằng hơn và với một tốc độ phát triển kinh tế bình thường. Nhưng phải với điều kiện là có những thay đổi trong quan hệ sở hữu cũng như các quan hệ về chính trị của chế độ cộng sản vốn là những trở ngại (trở ngại nghiêm trọng), tuy không phải là duy nhất trên con đường dẫn đến tiến bộ của từng quốc gia cũng như của toàn thế giới.


5.

Xu hướng hội nhập, cùng với những lí do khác, sẽ có ảnh hưởng đối với sự thay đổi trong quan hệ sở hữu.

Nói một cách ngắn gọn thì vai trò của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế sẽ ngày một gia tăng.

Vai trò quyết định và ngày một nâng cao của các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, dẫn đến việc nâng cao vai trò của nhà nước trong lĩnh vực quan hệ sở hữu cũng phản ánh xu hướng hội nhập quốc tế. Dĩ nhiên là xu hướng này có biểu hiện khác nhau trong những nước và những hệ thống khác nhau, có thể là lực cản của quá trình hội nhập: thí dụ ở những nơi (trong các nước cộng sản) mà sở hữu nhà nước chỉ là hình thức, chỉ là bức màn khói che đậy sự độc quyền toàn trị và sự thống trị của một giai cấp.

Tại Anh, sau khi Đảng Lao động tiến hành quốc hữu hoá thì tài sản tư nhân, đúng hơn là tư nhân độc quyền, đã không còn tính thiêng liêng và trong sạch pháp lí nữa. Người ta đã quốc hữu hoá hơn 20% năng lực sản xuất của nước Anh, đấy là chưa kể tài sản khá lớn của các công xã. Trong các nước Bắc Âu, bên cạnh sở hữu nhà nước còn có hình thức sở hữu tập thể của các hợp tác xã [1] .

Vai trò to lớn của nhà nước trong đời sống kinh tế thể hiện rõ trong những nước thuộc địa và nửa thuộc địa trước đây, dù đấy có là chính phủ xã hội chủ nghĩa như Miến Điện, chính phủ theo đường lối dân chủ như Ấn Độ hay độc tài quân sự như Ai Cập, ở đâu nhà nước cũng là nhà đầu tư lớn nhất, cũng kiểm soát xuất khẩu và thu vào ngân sách khoản ngoại tệ ngày càng lớn,..v.v… Khắp mọi nơi nhà nước đều là người đưa ra các sáng kiến trong cải cách kinh tế và quốc hữu hoá, quốc doanh đang là hình thức sở hữu ngày càng lớn.

Tình hình tương tự có vẻ như cũng đang diễn ra cả ở Mĩ, nước tư bản nhất trong các nước tư bản. Bắt đầu từ cuộc Đại khủng hoảng năm 1929, mọi người đều nhận thức được vai trò ngày càng tăng của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế và không còn ai phản đối vai trò tự nhiên đó của nó nữa.

James Blaine Worker từng nhấn mạnh rằng: “Mối liên hệ của nhà nước với đời sống kinh tế là một trong những đặc điểm nổi bật của thế kỉ XX”.

Worker dẫn số liệu như sau: năm 1938 khoảng 20% ngân sách lấy từ xí nghiệp quốc doanh, năm 1940 con số này đã nâng lên 25%. Từ khi Roosevelt lên cầm quyền thì người ta đã tiến hành kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân một cách có hệ thống. Số lượng các viên chức nhà nước, chức năng của chính phủ, đặc biệt là chính phủ liên bang cũng tăng lên không ngừng.

Johnson và Cross cũng đưa ra các số liệu tương tự. Họ cũng xác nhận rằng quản lí đã tách khỏi sở hữu và vai trò của nhà nước như người chủ nợ đã tăng lên đáng kể.

Hai ông đã viết như sau: “Một trong những đặc trưng cơ bản của thế kỉ XX là sự tăng cường liên tục ảnh hưởng của chính phủ, đặc biệt là chính phủ liên bang đối với các điều kiện kinh tế”.

Klong còn dẫn những số liệu về chi tiêu và nợ nần của chính phủ liên bang chứng tỏ xu hướng đó như sau:

Giai đoạn
Chi tiêu của chính phủ Liên bang (triệu $)
Nợ chính phủ liên bang (ngàn $)
1869-1878
309,6
243.645
1929-1938
8.998,1
42.967.531
1950
40.166,8
256.708.000


Klong trong tác phẩm đã dẫn còn nói đến cuộc cách mạng quản lí (managerial revolution), được hiểu như là sự xuất hiện của các nhà quản trị chuyên nghiệp, các chủ sở hữu sẽ không thể quản lí nổi doanh nghiệp nếu thiếu họ. Số lượng, vai trò và sự đoàn kết của các nhà quản lí này sẽ ngày càng tăng, những chủ doanh nghiệp có khả năng quản lí như John Rockefeller, John Wanamaker, Charles Shwab,..v.v... sẽ không thể xuất hiện được nữa.

Faneson và Gordon cho rằng trước đây quyền lực đã là một tác nhân to lớn đối với kinh tế, các nhóm xã hội khác nhau đã lợi dụng quyền lực để gây ảnh hưởng đối với đời sống kinh tế. Nhưng hiện nay sự khác biệt là rõ ràng, hai tác giả này viết như sau:

“Vai trò điều tiết của nhà nước thể hiện không chỉ trong lĩnh vực lao động mà cả trong lĩnh vực sản xuất, thí dụ trong các lĩnh quan trọng đối với quốc gia như vận tải, khai thác dầu khí, khai thác than. Những sự thay đổi to lớn đang diễn ra thể hiện trong việc truyền bá “trách nhiệm xã hội” đối với sự bảo toàn nguồn nhân lực cũng như vật lực. Trách nhiệm xã hội thể hiện rõ trong lĩnh vực ngân hàng, điện khí hoá và cung cấp các căn hộ rẻ tiền... Vai trò của nhà nước đã được nâng cao hơn rất nhiều so với nửa thế kỉ, thậm chí mười năm trước đây... Kết quả là đã xuất hiện sự “chuyển dịch” kinh tế, nơi trách nhiệm xã hội, sáng kiến cá nhân chỉ bị nhà nước khống chế phần nào và tính tích cực cá nhân vô bờ bến cùng song hành bên nhau”.

Các tác giả nêu trên và nhiều tác giả khác đã đưa ra các đặc trưng cơ bản của quá trình này như sau: nhu cầu được đảm bảo về mặt xã hội, về học vấn được thực hiện thông qua các cơ quan nhà nước ngày một tăng; số lượng viên chức nhà nước cũng ngày càng tăng,..v.v..

Trong giai đoạn thế chiến thứ hai, vì nhu cầu quân sự mà quá trình này đã đạt đến qui mô chưa từng có. Nhưng sau chiến tranh nó không những không giảm mà còn diễn ra với tốc độ cao hơn thời tiền chiến nữa. Không chỉ chính phủ dân chủ mà ngay chính phủ cộng hoà của Eisenhower, một chính phủ giành được quyền lực dưới ngọn cờ trả lại sáng kiến cá nhân, cũng không làm thay đổi được tình hình một cách đáng kể. Chính phủ bảo thủ ở Anh cũng gặp tình hình tương tự. Mặc dù chính phủ này không tiến hành tư hữu hoá, trừ ngành sản xuất thép, vai trò của nó trong lĩnh vực kinh tế nếu không tăng lên thì cũng không giảm đi so với chính phủ của Đảng lao động.

Sự can thiệp của chính phủ vào lĩnh vực kinh tế là kết quả tất nhiên của các xu hướng đã ăn sâu vào nhận thức của dân chúng. Tất cả các nhà kinh tế học, kể từ Keyenes, đều thống nhất với nhau luận điểm về sự cần thiết phải can thiệp như thế. Ngày nay đấy đã là một thực tế mang tầm vóc toàn cầu. Sự can thiệp của nhà nước và sở hữu nhà nước đã là một tác nhân quan trọng và ở một số nơi là tác nhân quyết định đối với sự phát triển kinh tế.

Dường như có thể rút ra kết luận: sự đối đầu giữa hai hệ thống không phải chỉ là do trong một hệ thống (phương Đông) nhà nước đóng vai trò quan trọng, còn trong hệ thống kia (phương Tây) sở hữu tư nhân, sở hữu của các công ty và tập đoàn độc quyền đóng vai trò quan trọng. Hơn thế nữa, vai trò của sở hữu tư nhân ở phương Tây đang ngày một giảm đi, trong khi vai trò của nhà nước ngày một tăng thêm.

Nhưng vấn đề không phải như vậy.

Hai hệ thống này có sự khác nhau căn bản trong việc điều tiết của chính phủ đối với lĩnh vực kinh tế và trong chính sở hữu nhà nước. Tuy về mặt hình thức hai loại sở hữu đều là nhà nước – bên nhiều, bên ít – nhưng hai hình thức sở hữu này chẳng những khác nhau mà còn đối kháng nhau. Cũng có thể nói tương tự như vậy về tác động của nhà nước đối với kinh tế.

Không một chính phủ nào ở phương Tây nhận vào mình trách nhiệm như người chủ sở hữu trong phạm vi toàn quốc. Chính phủ không chỉ không phải là chủ nhân của khối tài sản đã quốc hữu hoá mà còn không phải là chủ của khối tài sản thu được qua thuế khoá nữa. Điều đó không thể xảy ra được vì chính phủ thay đổi thường xuyên. Việc quản lí và phân phối phải được thực hiện dưới sự kiểm soát của quốc hội. Tất nhiên là chính phủ bị tác động từ mọi phía, nhưng nó vẫn không phải là chủ. Chính phủ chỉ quản lí và phân phối (khi còn cầm quyền) khối tài sản không thuộc về nó.

Trong các nước cộng sản tình hình khác hẳn. Chính phủ quản lí và phân phối toàn bộ tài sản quốc gia. Giai cấp mới, nghĩa là cơ quan thực hiện - giới chóp bu của đảng hành xử như là chủ nhân, và trong thực tế nó đúng là chủ nhân. Không một chính phủ siêu phản động, “siêu tư bản” nào dám mơ đến sự độc quyền trong lĩnh vực kinh tế đến như thế.

Như vậy là quan hệ sở hữu ở phương Tây và phương Đông chỉ giống nhau về mặt hình thức, biểu hiện trong việc nâng cao vai trò của nhà nước đối với lĩnh vực kinh tế, còn trong thực tế nó là hai hình thức sở hữu hoàn toàn khác nhau thậm chí đối kháng nhau.

Hình thức sở hữu sau thế chiến thứ nhất có thể đã là một trong những nguyên nhân căn bản của sự đối đầu giữa phương Tây và Liên Xô. Khi đó các tập đoàn tư bản độc quyền đã có vai trò lớn hơn hiện nay rất nhiều và dĩ nhiên là chúng không chấp nhận việc một phần thế giới, cụ thể là Liên Xô, bị giằng ra khỏi móng vuốt của mình. Tầng lớp quan liêu cộng sản lúc đó cũng mới chỉ chuẩn bị trở thành giai cấp hữu sản mà thôi.

Đối với Liên Xô thì quan hệ sở hữu vẫn là tác nhân quan trọng trong quan hệ với các nước khác. Liên Xô luôn luôn tìm cách áp đặt bằng sức mạnh hình thức sở hữu cũng như quan hệ chính trị của mình cho các nước khác. Sự phát triển các liên hệ thương mại hạn chế với thế giới bên ngoài không vượt qua và không thể vượt qua giới hạn của giai đoạn trao đổi hàng hoá của các nền kinh tế quốc gia. Điều đó đúng cho cả Nam Tư trong thời kì đoạn giao với Moskva. Nam Tư không vượt qua được hình thức trao đổi hàng hoá, mặc dù xu hướng hợp tác toàn diện hơn bao giờ cũng có và cùng với thời gian còn trở nên bức thiết hơn. Như vậy là nền kinh tế Nam Tư cũng là nền kinh tế đóng.

Còn một loạt yếu tố góp phần làm cho tình hình và các mối quan hệ phức tạp thêm.

Việc tăng cường xu hướng hợp nhất nền sản xuất toàn cầu thực tế là dẫn đến ưu thế của một nước (Mĩ), trong trường hợp tốt nhất, là ưu thế của một nhóm nước.

Chính sự tự phát của các quan hệ đã bóc lột và buộc nền kinh tế, thậm chí toàn bộ đời sống của các nước chậm phát triển lệ thuộc vào các nước phát triển. Nhưng như thế không có nghĩa là muốn sống còn các nước chậm phát triển phải tự vệ bằng các biện pháp chính trị, bằng cách tự cô lập. Đấy là một cách. Cách thứ hai: dựa vào sự giúp đỡ của các nước phát triển. Không có cách thứ ba. Thực ra cách thứ hai cũng chưa có: sự giúp đỡ hiện không đáng kể.

Sự khác biệt trong thu nhập thực tế của một người Mĩ với, thí dụ, một công nhân Indonesia còn cao hơn là sự khác biệt của người Mĩ đó với một người nắm cực nhiều cổ phiếu: năm 1940 người Mĩ thu nhập ít nhất là 1.440$, trong khi người Indonesia chỉ nhận 27$, thấp hơn đến 58 lần (số liệu của Liên hợp quốc).

Quan hệ bất bình đẳng của phương Tây đã phát triển với những nước chậm phát triển càng ngày càng chuyển vào địa hạt kinh tế. Sự thống trị truyền thống của các viên toàn quyền và các lãnh chúa địa phương đã trở thành dĩ vãng. Ngày nay các nền kinh tế kém phát triển của các quốc gia độc lập về chính trị đã rơi xuống vai trò phụ thuộc.

Không một dân tộc nào chịu tự nguyện đóng vai trò phụ thuộc như thế, cũng như không có người nào chịu từ bỏ lợi thế do sức lao động với năng suất cao mang lại cho anh ta.

Đòi hỏi người công nhân Mĩ hay công nhân phương Tây, chưa nói các sở hữu chủ, từ bỏ những phúc lợi mà họ có được nhờ trình độ kĩ thuật và năng suất lao động cao cũng vô nghĩa như thuyết phục những người dân nghèo khó ở châu Á rằng họ phải cảm thấy hạnh phúc với vài xu tiền công mỗi ngày.

Sự tương trợ giữa các quốc gia, từng bước tạo ra sự đồng đều trong lĩnh vực phát triển kinh tế và các lĩnh vực khác giữa các dân tộc phải là thành quả của nhu cầu sống còn, chỉ khi đó chúng mới trở thành sản phẩm của những quan hệ tốt đẹp mà thôi.

Sự giúp đỡ về mặt kinh tế đã trở thành nhu cầu sống còn. Nhưng đấy là trong trường hợp khi các nước phát triển coi khả năng thanh toán thấp cũng như nền sản xuất thiếu hiệu năng tại các nước chậm phát triển là lực cản, là gánh nặng đối với chính mình. Sự đối đầu hiện nay giữa hai hệ thống là trở ngại chính cho việc biến sự trợ giúp về kinh tế thành một nhu cầu. Đấy không chỉ bởi vì một khối tài sản không lồ đã được sử dụng cho việc trang bị vũ khí và các mục chi tiêu tương tự. Các quan hệ hiện nay đã trở thành tác nhân cản trở sự phát triển kinh tế, cản trở xu hướng hợp nhất và vì vậy ngăn chặn sự trợ giúp những người cần được giúp đỡ về mặt kinh tế, thiếu nó thì chính các nước phương Tây cũng không thể phát triển nhanh được.

Sự cách biệt về mặt vật chất và các mặt khác giữa các nước phát triển và các nước chậm phát triển thể hiện ngay trong đời sống của các quốc gia đó. Sẽ là sai lầm nếu coi nền dân chủ phương Tây chỉ là sự đoàn kết của những người giầu trong việc cướp bóc người nghèo vì trước khi có được những siêu lợi nhuận nhờ bóc lột thuộc địa, phương Tây đã có tự do, tuy mức độ thấp hơn hiện nay. Nhưng không nghi ngờ gì rằng nền dân chủ phương Tây hiện nay đã có một bước phát triển cao hơn thời của Marx và Lenin. Sự khác nhau là rõ ràng, cũng rõ ràng như sự khác nhau của chủ nghĩa tư bản độc quyền hay tư sản tự do với nhà nước tư sản hiện đại vậy.

Trong tác phẩm Thay cho nỗi sợ, nhà xã hội học người Anh, ông Bevin viết: “Cần phải phân biệt giữa ước mong và thành tựu của chủ nghĩa tự do: nó muốn đưa những hình thức sở hữu sản phẩm của cách mạng công nghiệp đến quyền lực. Nhưng điều nó giành được lại là: nhân dân, bất chấp sở hữu, đã giành được quyền lực chính trị... Từ quan điểm lịch sử thì nền dân chủ đại nghị với quyền phổ thông đầu phiếu chính là dùng lực lượng của nhân dân để giải thích cho nhân dân hiểu rõ đặc quyền đặc lợi của tầng lớp có của. Nghị viện đã trở thành vũ đài”.

Nhận xét này của Bevin liên quan đến Anh quốc. Nhưng cũng có thể mở rộng sang các nước phương Tây khác. Nhưng chỉ cho các nước phương Tây mà thôi.

Tất cả mọi người đều đồng ý rằng sự chênh lệch về vật chất và về các lĩnh vực khác giữa các nước phương Tây và các nước chậm phát triển không những không biến mất mà sẽ ngày càng rộng thêm.

Vì vậy phương Tây đã sử dụng các đòn bẩy kinh tế như là những biện pháp chủ yếu thúc đẩy hội nhập.

Tại phương Đông, trong khối cộng sản, chính trị vẫn được coi là đòn bẩy chủ yếu.

Hoá ra Liên Xô chỉ có thể “nhập” cái nó sẽ chiếm đoạt. Về điểm này thì chế độ mới cũng chẳng đem lại được một sự thay đổi có ý nghĩa nào. Theo quan điểm của Liên Xô, các dân tộc bị áp bức là các dân tộc bị chính phủ nước ngoài áp đặt sự nô dịch, mọi chính phủ, trừ chính phủ Liên Xô. Mọi sự giúp đỡ, kể cả tín dụng đều phải tuân theo các mục đích chính trị của Liên Xô.

Điều đó không có nghĩa là nền kinh tế Liên Xô chưa đạt đến trình độ buộc nó phải tiến đến hợp nhất với nền sản xuất quốc tế. Chính các nguyên nhân nội tại của nó đã tạo ra những mâu thuẫn và khó khăn cho nó. Hệ thống hiện vẫn có thể tồn tại trong sự cô lập với thế giới bên ngoài. Rất tốn kém nhưng còn có thể được nếu vẫn tiếp tục sử dụng bạo lực trên diện rộng. Nền kinh tế Liên Xô chưa đủ sức “thức tỉnh” các nhà độc tài đầy quyền năng. Nhưng điều đó không thể nào tiếp tục mãi được, sự cáo chung là không tránh khỏi. Nó sẽ là sự khởi đầu của sự kết liễu ách nô dịch của tầng lớp quan liêu chính trị, của giai cấp mới.

Chủ nghĩa cộng sản hiện đại có thể yểm trợ cho quá trình hợp nhất thế giới trước hết là bằng các biện pháp chính trị, nghĩa là thực hiện quá trình dân chủ hoá với bên trong và công khai hoá với bên ngoài. Nhưng có vẻ còn xa mới đến ngày ấy. Và liệu nó có thể làm một cái gì tương tự như thế hay không?

Chủ nghĩa cộng sản hiện đại đang nhìn thế giới xung quanh và chính mình bằng con mắt như thế nào?

Khi còn trong giai đoạn độc quyền, chủ nghĩa Marx, được Lenin cải biên và “phát triển” đã vẽ ra trước những người cộng sản và Đảng bolsevik bức tranh khá đúng về tình hình cả bên trong và bên ngoài nước Nga Sa Hoàng và những nước tương tự như nước Nga. Vì vậy phong trào do Lenin cầm đầu đã có thể đấu tranh và đã chiến thắng. Dưới trào Stalin, hệ tư tưởng ấy, lại một lần nữa được cải biên, có thể được coi là hiện thực vì nó đã xác định đúng vị trí và vai trò của nhà nước mới trong trật tự quốc tế lúc đó. Nhà nước Xô Viết và giai cấp mới đã nhận thức rõ quan hệ đối nội và đối ngoại của mình, khuất phục tất cả những gì có thể khuất phục được mà trước hết là khuất phục phong trào cộng sản quốc tế.

Các lãnh tụ Liên Xô hiện nay gặp nhiều khó khăn hơn. Họ không còn khả năng nhận chân được thế giới hiện đại nữa. Hình ảnh mà họ có là một thế giới của quá khứ, hoặc là một cái gì đó được sinh ra từ chính trí tưởng tượng của họ chứ không phải cái đang là hiện nay.

Bám mãi vào các giáo điều cũ rích, các lãnh tụ cộng sản cho rằng thế giới xung quanh họ sẽ sa lầy vào mâu thuẫn, thối nát và bất hoà. Điều đó đã không xảy ra. Phương Tây đã giành được những tiến bộ khả quan trong cả lĩnh vực kinh tế và tinh thần. Họ luôn đoàn kết mỗi khi đứng trước mối nguy, dù là nhỏ, do phía kia, tức hệ thống cộng sản gây ra. Các xứ thuộc địa đã trở thành tự do, nhưng phi cộng sản, giải phóng thuộc địa không dẫn đến sự tan rã chính quốc.

Phương Tây đã không sụp đổ vì khủng hoảng và chiến tranh. Năm 1949, thay mặt chính phủ Liên Xô, Vưshinski, đã tuyên bố tại Liên hợp quốc rằng cuộc đại khủng hoảng ở Mĩ và trong toàn khối tư bản là không tránh khỏi. Điều đó đã không xảy ra không phải vì chủ nghĩa tư bản là tốt hay xấu mà chỉ vì chủ nghĩa tư bản theo quan niệm của các lãnh tụ Liên Xô đã không còn tồn tại nữa. Ban lãnh đạo Liên Xô vẫn “không nhận ra” rằng Ấn Độ và các nước Ả-rập sau khi giành được độc lập đã không ủng hộ chính sách đối ngoại của Liên Xô. Trước đấy họ đã không hiểu và nay cũng chưa hiểu phong trào dân chủ xã hội. Từ sự kiện là vùng do họ quản lí không phát triển theo con đường mà phong trào dân chủ xã hội trù liệu, họ liền rút ra kết luận rằng dân chủ xã hội phương Tây cũng là bọn “phản bội” và không có sức sống.

Đánh giá của họ về mâu thuẫn cơ bản, nghĩa là mâu thuẫn giữa hai hệ thống và xu hướng hội nhập của nền sản xuất thế giới cũng có số phận tương tự. Và ở đây họ buộc phải “bơi”, họ không thể không “bơi”.

Xem xét mâu thuẫn như là một trận quyết đấu giữa hai hệ thống đối địch, họ tưởng tượng như sau: trong một hệ thống (dĩ nhiên là của họ) không có giai cấp hoặc là đang diễn ra quá trình thủ tiêu các giai cấp, còn sở hữu thì thuộc chính phủ; hệ thống kia (của người ta, dĩ nhiên) thì đang xảy ra khủng hoảng, đang diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp, tất cả tài sản nằm trong tay tư nhân, chính phủ thì phục vụ cho quyền lợi một nhóm những nhà tư bản độc quyền tham lam vô độ. Khi đã vẽ ra cho mình và cho người khác bức tranh như thế họ liền tuyên bố rằng có thể tránh được xung đột nếu phương Tây “thôi” sử dụng các quan hệ kiểu như thế.

Mấu chốt vấn đề là ở đấy.

Nếu quan hệ ở phương Tây phù hợp với ước mơ của những người cộng sản, nghĩa là trở thành quan hệ cộng sản thì mâu thuẫn không những còn mà có thể còn sâu sắc hơn. Vì vấn đề không chỉ là hình thức sở hữu mà còn là sự hiện hữu của rất nhiều xu hướng đối địch nhau, đằng sau các xu hướng đó là nền kĩ nghệ hiện đại, là quyền lợi của các dân tộc, mà từng nhóm, từng giai cấp hay đảng phái đều cố gắng giải quyết cùng một vấn đề, xuất phát từ nhu cầu của chính mình. Nhất định phải giải quyết.

Khi các lãnh tụ Xô Viết coi các chính phủ phương Tây hiện đại chỉ là công cụ mù quáng trong tay các tập đoàn tư bản độc quyền thì họ đã sai cũng như người ta đã sai khi cho rằng xã hội của họ là xã hội phi giai cấp chỉ vì sở hữu tập thể ở đó chiếm ưu thế. Tất nhiên các tập đoàn tư bản độc quyền vẫn còn vai trò, phải nói là không nhỏ, trong chính sách của phương Tây, nhưng không phải là vai trò như trước chiến tranh thế giới thứ nhất hay thứ hai nữa. Đằng sau chính sách đó là xu hướng hợp nhất thế giới không gì ngăn cản được, xu hướng này được thể hiện qua việc quốc hữu hoá và sự điều tiết của nhà nước và ảnh hưởng của chúng còn mạnh hơn ảnh hưởng của các tập đoàn tư bản độc quyền.

Giai cấp, đảng và lãnh tụ càng bóp nghẹt sự phê bình bao nhiêu, quyền lực của họ càng tuyệt đối bao nhiêu, thì sự đánh giá của họ càng dễ sai lầm và không thực tế bấy nhiêu. Đấy là điều đang xảy ra đối với các lãnh tụ cộng sản. Họ không làm chủ được ngay những hành vi của chính mình, ngày nay không phải họ mà hiện thực sinh động mới là người áp đặt. Nhưng ở đây họ vẫn còn một đặc quyền: họ phải tự biến thành những người thực tế hơn. Dĩ nhiên là có những nhược điểm vì họ không nhìn thấy viễn cảnh hay một điều gì đó có thể coi là viễn cảnh. Không định hướng được trong tình hình thế giới hiện nay, nói chung họ chỉ biết tự vệ hoặc là chuyển sang tấn công một cách mù quáng. Những giáo điều xơ cứng đã đẩy họ vào những hành động thiếu cân nhắc và sau đó mới “tỉnh ngộ”, tuy bị nhiều thiệt hại nhưng bao giờ họ cũng “tỉnh ngộ” cả. Hy vọng rằng tác nhân này cuối cùng sẽ trở thành chủ đạo. Khi nhận chân được thế giới, những người cộng sản có thể thất bại. Nhưng họ sẽ thắng với tư cách là những con người bình thường, như một phần của nhân loại.

Dù sao mặc lòng, thế giới sẽ tiếp tục thay đổi, sẽ đi theo con đường mà nó đã chọn, con đường mà nó đã bước chân lên, con đường dẫn đến sự hợp nhất, tiến bộ và tự do. Sức mạnh của hiện thực, sức mạnh của cuộc đời đã luôn luôn và sẽ mãi mãi mạnh hơn mọi áp bức, hiện thực hơn tất cả mọi lí thuyết.


© 2005 talawas



[1]Ghi chú của người dịch: những đoạn viết về quốc hữu hoá bên trên phản ánh quan điểm của những năm 50. Sau này, trong những năm 80 ở Anh đã thực hiện quá trình giải tư. Còn hiện nay, với việc khởi động lại chủ nghĩa tân bảo thủ thì sự can thiệp trực tiếp của nhà nước vào hoạt động kinh tế như thế đã không còn được hoan nghênh nữa.

Nguồn: Bản tiếng Nga, tại http://dzhilas-milovan.viv.ru/index.htm