trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 227 bài
  1 - 20 / 227 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Dịch thuật
3.10.2002
Trịnh Nhật
Ði tìm cái tương đương trong phiên dịch
 1   2 
 
Ngoài những thí dụ điển hình về thực thể của ngôn ngữ, người ta còn tìm thấy vô số những sự kiện khác cho thấy rằng (a) hai ngôn ngữ có thể không có chung ý niệm; (b) hai ngôn ngữ có thể có chung ý niệm, nhưng ngôn ngữ ngọn không có từ cho ý niệm ấy; (c) ngôn ngữ ngọn thiếu từ tổng thể (superordinate); (d) ngôn ngữ ngọn thiếu từ cá biệt (hyponym); (e) hai ngôn ngữ khác nhau về mô thức kết hợp ngữ (collocational patterns); (f) hai ngôn ngữ khác nhau về cụm từ cố định và thành ngữ (fixed and idiomatic expressions).

Nhưng không vì những sự kiện vừa kể mà ta đành thúc thủ, bó tay, chào thua, hay mang một thái độ tiêu cực trong chuyện dịch thuật mà bảo rằng "dịch là phản". Lịch sử, thực tế của việc phiên dịch đã chứng minh ngược lại. Chúng ta đã thấy không biết bao nhiêu tác phẩm, tài liệu dịch thuật mà giá trị của chúng là giúp cho nhân loại trên quả điạ cầu hiểu rõ những tư tưởng học thuật, những thông tin khoa học, xã hội, văn học, nghệ thuật, tôn giáo, nhân sinh và giúp cho chúng ta học hỏi được biết bao nhiêu điều khác nữa của nhau, về nhau.

Nếu không tìm hiểu những khó khăn khi đi tìm cái tương đương trong ngôn ngữ, ta khó có thể đánh giá được cái hay cái dở trong công trình phiên dịch của các dịch giả tiền bối cũng như hậu bối, của những người làm công tác dịch thuật trước cũng như sau chúng ta. Dưới đây là một số trường hợp khó khăn khi đi tìm cái tương đương trong hai ngôn ngữ Anh, Việt.


1. Hai ngôn ngữ không có chung ý niệm

Hai ngôn ngữ có thể không có chung cùng ý niệm, hay ý niệm trong hai ngôn ngữ có thể khác xa nhau. Trường hợp hai ngôn ngữ không có chung ý niệm thường thấy xuất hiện trong các từ biểu lộ đặc trưng văn hóa (culturespecific terms) như 'đồ ăn thức uống' (meat pie, Continental breakfast; bún mộc, bánh chưng), 'nhà cửa đồ đạc' (manor, cupboard; nhà sàn, tủchè), 'quần áo giầy dép' (balaclava, sneakers; áo tứ thân, giầy Gia định), 'cơ chế chính trị' (Shadow Cabinet, front benchers; Chủ tịch Uỷ ban Hành pháp Trung ương, Bí thư Thành ủy), 'xã hội nghề nghiệp' (access and equity, drag queens; nghề bán cháo phổi, quân tử); 'phong tục tập quán' (muckup day, New Year's resolution; Tết, tiền lì xì), 'luân lí đạo đức' (fair go, wife swapping; chồng chúa vợ tôi, nhất tự vi sư bán tự vi sư).

Nay ta thử đi sâu vào chi tiết để xét những trường hợp riêng lẻ trong đó hai ngôn ngữ Anh, Việt không có chung ý niệm, hay ý niệm trong hai ngôn ngữ Anh, Việt khác xa nhau. Trong tiếng Anh ta có khái niệm "privacy" dùng để chỉ "đời tư, chuyện riêng, cuộc sống cá nhân, tài liệu, thông tin riêng tư của một người nào, mà họ muốn được người khác coi trọng, không được xía vô". Người Việt không có khái niệm này, và vì thế không có từ tiêu chuẩn. Tình huống sau đây sẽ cho ta thấy nỗi khó khăn khi ta phải dịch từ ngữ "privacy".
Patrick Rafter, danh thủ quần vợt số Một của Úc, trước đây vì muốn làm vừa lòng khán giả hâm mộ mình đã phải ngưng buổi tập dượt chuẩn bị cho giải quần vợt vô địch Tiểu bang NSW, dành thì giờ kí tên tặng cho 500 khán giả đến xin chữ ký của anh trong lúc nhiệt độ ngoài trời là trên dưới 40oC. Báo chí Úc đã viết đại loại có đoạn như sau: "Vào tuần tới khi xuống Melbourne để dự giải Vô địch Úc châu Mở rộng (Australian Open), anh sẽ không có những buổi ra mắt như thế nữa, mà sẽ tìm cách làm sao có được "privacy" nhiều chừng nào tốt chừng ấy, hầu tập trung tinh thần đánh thắng giải (Grand Slam) này". Ta cứ thử nghĩ xem phải dịch chữ "privacy' cách nào cho ổn. Vì nhu cầu phiên dịch người ta đã thấy chữ "privacy" được chuyển ngữ là "sự/cái riêng tư", chữ "privacy rights" là "quyền riêng tư ", nhưng thử hỏi dùng chữ "sự/cái riêng tư" trong trường hợp trên nghe có chỉnh không. Liệu dịch là "... sẽ tìm cách nào để được yên thân/không bị quấy rầy ... " có được kể là đã dịch được nghĩa tương đương, tương ứng hay không?

Chữ "Speaker" như trong "Speaker (of the House)" dùng trong ngữ cảnh Hạ viện Quốc hội Anh, Mỹ, Úc để chỉ "nhân vật đứng đầu trong Hạ viện có vai trò duy trì quyền hành và trật tự trong các phiên họp tại Hạ viện, hoàn toàn độc lập, không thiên vị đảng phái nào", khác với ý niệm "Chủ tịch Hạ viện" mà tiếng Việt ta quen dùng. Tôi đã có dịp nghe một đồng nghiệp đài BBC Luân đôn, có lẽ vì vội vã sơ ý đã dịch từ ngữ "Speaker' là "Phát ngôn nhân" khi nói về chuyện xảy ra tại Quốc hội Iran hồi còn chế độ Ayatollah Khomeini.

Ý niệm "challenge", được dùng trong một phiên xử hình sự tại Tòa Thượng thẩm (Supreme Court), là cốt để chỉ ý không chiụ chấp nhận một thành phần công dân đã được bốc thăm gọi tên vào ngồi trong bồi thẩm đoàn (jury). Bối cảnh là sau khi người công dân này được xướng danh, luật sư bênh vực cho bị cáo (the accused) bèn quan sát, trông mặt mũi, gốc gác sắc tộc, phái tính nam nữ của người được gọi tên đó mà rỉ tai bảo thân chủ của mình là hãy nói "challenge" đi! Tức thì thông dịch viên lúc đó phải dịch cho thân chủ biết "challenge" trong tiếng Việt là gì để thân chủ nói bằng tiếng Việt rồi mình dịch lại là "challenge". Khái niệm "challenge" như thế không thấy có trong tiếng Việt, nên chính bản thân tôi đã hơi bị lúng túng, "khựng" lại khi lần đầu thông dịch tại Tòa Thượng Thẩm Tiểu bang Victoria, Úc Ðại Lợi vào năm 1985. Cuối cùng thì tôi đành 'cương' mà bảo cho bị cáo nói 'phản đối' để cho mình dịch lại là 'challenge'.

Trong tiếng Việt ta có chữ "hiếu" dùng để chỉ "bổn phận của con cái đối với cha mẹ lúc cha mẹ còn sống cũng như lúc đã ra đi, cái bổn phận bao gồm sự tôn kính, lòng thể phụng, hành động phụng dưỡng quạt nồng ấp lạnh", mà ta không thể thấy có từ tương đương quen dùng trong tiếng Anh với cùng ý nghĩa bao trùm đó. Tương đương gần nhất trong tiếng Anh là "filial piety".

Chữ "tiết hạnh" trong tiếng Việt dùng để chỉ "bổn phận của người vợ đối với người chồng, cho dù người chồng còn sống hay đã chết", cái bổn phận bao gồm sự giữ gìn chữ trinh thể xác, chữ trinh tinh thần, sẵn sàng thủ tiết, không chịu bước đi bước nữa... như thế không có sẵn trong tiếng Anh bao hàm toàn bộ ý nghĩa đó. Tương đương gần nhất trong tiếng Anh có lẽ là "chastity".

Ý niệm "nói thách" là "nói cao giá, tăng giá của một món hàng lên so với giá thật để cho người muốn mua phải mặc cả hạ thấp giá xuống là vưà" cũng không thấy có sẵn trong tiếng Anh. Muốn nói để cho người bản ngữ tiếng Anh hiểu thì phải dịch theo lối cắt nghĩa là "to put the price up expecting people to bargain'" (nói tăng cao giá để cho người ta mặc cả).


2. Hai ngôn ngữ có chung ý niệm nhưng ngôn ngữ ngọn không có từ để chỉ ý niệm chung đó

Nếu ý niệm "gentleman" dùng để chỉ một người đàn ông "trí thức, lịch lãm, có tư cách", và ý niệm "lady" dùng để chỉ người đàn bà "lịch sự, đoan trang, duyên dáng" trong tiếng Anh, thì tiếng Việt ta cũng có chung hai ý niệm ấy nhưng ta không có từ để nói tại người đàn ông và người đàn bà có những phẩm cách ghi nhận ở trên. Vì vậy, khi chuyển dịch từ ngôn ngữ gốc, tiếng Anh, sang ngôn ngữ ngọn trong trường hợp này là tiếng Việt, ta sẽ gặp khó khăn.

Trong một cuộc điều tra về một vụ buôn bán xì ke ma tuý ở Úc, sau khi đã được luật sư biện hộ của mình cho ý kiến, hai vợ chồng Việt Nam đang bị tạm giam trong Trại Cải huấn, nhận sẽ hợp tác với cơ quan cảnh sát điều tra để ra làm chứng trước Tòa, khai thêm những hành động của tay chúa trùm trong nhóm (ringleader) với hy vọng sẽ được nhẹ tội. Cặp vợ chồng này sau đó được áp tải, với hai tay vẫn còn bị còng, từ Trại Cải huấn lên Cơ quan Trung ương điều tra Tội phạm (National Crime Authority) đặt tại Sydney. Trong hội trường, trước số đông bá quan văn võ của cơ quan cùng các luật sư bên bị, ngoài hành động đối xử lịch sự ân cần với hai vợ chồng mà nay tay họ đã được tháo còng và ngoài những lí lẽ ngon ngọt hoa mĩ, sau cùng viên Trưởng thanh tra Cảnh sát đã nói đại loại như sau: "Hôm nay với sự hiện diện của anh chị tại thiểm cơ quan, tôi và toàn thể nhân viên có mặt ở đây đã coi anh là "gentleman" và coi chị là "lady''. Ta cứ thử tưởng tượng với hai từ này thông dịch viên lúc đó phải dịch ứng phó ra sao. Kể cũng nên nói thêm là anh chồng hiểu tiếng Anh chút chút, còn chị vợ là gái quê chưa học hết bậc tiểu học ở Việt Nam, tiếng Anh còn mù tịt. Vì nhu cầu bắt buộc phải chuyển ngữ thì liệu dịch là "... tôi và toàn thể nhân viên có mặt ở đây đã coi anh chị là "những người lịch sự, đàng hoàng" có được không?

Chữ "lane'" trong tiếng Anh có nghĩa là "một phần của một đại lộ được đánh dấu phân định bằng mép rìa đường lộ và vạch sơn kẻ chỉ, hay bằng hai vạch sơn kẻ chỉ". Ý niệm này người Việt tất phải có, nhưng tiếng Việt không có sẵn từ cho chữ "lane" đó. Ở Úc người ta đã nghe từ này được dịch là "lên", nhái âm tiếng Anh. Ở Việt Nam nghe đâu người dân đang làm quen với từ "làn đường", chứ không phải 'lằn đường'.

Ý niệm "quân tử" dùng để chỉ "người tài đức xuất chúng, người phẩm hạnh ngay thẳng, người có nhân cách hoàn toàn theo Khổng giáo", chắc không có sẵn từ trong tiếng Anh. Nếu bắt buộc phải chuyển dịch từ ngôn ngữ gốc, tiếng Việt sang ngôn ngữ ngọn trong trường hợp này là tiếng Anh thì chọn từ tương đương là 'gentleman' có được không? Và nếu được thì trong ngữ cảnh, văn mạch nào?

Ý niệm "de facto relationship" trong tiếng Anh không có sẵn trong vốn từ tiếng Việt. Ở Việt Nam ta cũng có liên hệ sống chung đấy, nhưng ta chỉ nói tại "bà bé, bà nhỏ' hoặc "lấy làm bé, làm bà bé, làm bà nhỏ, làm vợ bé, làm vợ nhỏ (cuả ông ấy)" như trong quan hệ hôn nhân chính thức. Nếu dịch sang tiếng Anh là "concubine", là "wife" trong các văn kiện giấy tờ có được không, có đúng không? Ở Úc Ðại Lợi từ "de facto relationship" đã được dịch theo lối cắt nghĩa là "sống chung không hôn thú/giá thú" và từ này nay đã khá phổ biến, nhưng còn "de facto partner" nếu dịch là "người bạn sống chung không hôn thú" hay là "bồ bịch sống chung", thì nghe có chuẩn không, cái nào chuẩn hơn cái nào, từ nào rồi sẽ đi vào ngôn ngữ, cụm từ nào rồi sẽ được nhiều người dùng hơn?


3. Ngôn ngữ ngọn thiếu từ tổng thể (superordinate)

Từ tổng thể là gì? Trong tiếng Anh từ ngữ "flower" có thể được coi là từ tổng thể (superordinate) dùng để chỉ toàn bộ các loài hoa trong trưng ngữ nghĩa (semantic field) nói về hoa trong đó có "rose, daffodil, lily, orchid, tulip, sunflower, chrysanthemum..." (hồng, thủy tiên, huệ, lan, tuylíp, hướng dương, cúc...) mà chúng được gọi là những từ cá biệt (hyponyms). Nếu phải dịch từ "flower" ra tiếng Việt thì ta không có khó khăn gì vì tiếng Việt, trong trường hợp này là ngôn ngữ ngọn, đã có sẵn từ tổng thể tương đương là "hoa'".

Nhưng trong trường hợp phải dịch từ tổng thể là "problems", một từ rất thông dụng trong tiếng Anh, sang tiếng Việt ta sẽ gặp khó khăn. Thí dụ như trong tiếng Anh họ nói đến "problems" mà vì không có một từ tổng thể trong tiếng Việt, ta phải tùy trường hợp dịch là "vấn đề (issues), vấn nạn/tệ nạn (irregularities), khó khăn (difficulties), trở ngại (obstacles), trục trặc ([mechanical] troubles), biến chứng (complications), thắc thắc (queries). Ðặc biệt ra còn có thể dịch 'problems' là lỗi (fault)" như trong "lỗi tại tinh trùng" (sperm problems), "lỗi ở ống dẫn trứng" (fallopian tube problems), " lỗi ở trứng rụng bất thường" (ovulation problems), "lỗi ở chất nhờn tử cung" (mucus problems), là những nguyên nhân gây ra tình trạng hiếm muộn. Hoặc đặc biệt hơn dịch "problems" dưới dạng hơi lạ là "(chứng) khó ... " như trong "chứng khó thở" (breathing problems).

Tiếng Việt không có từ tổng thể tương đương với từ "rocking" nên khi người mẹ nâng niu, nựng niụ đứa con sơ sinh bằng cử chỉ "rocking" như trong một tài liệu nói về "Trẻ Sinh non'' (Premature Babies) ở Sydney cuả Bộ Y tế Tiểu bang New Southể Wales mà tôi đã được duyệt bản thảo vào cuối thập niên 80, người dịch sẽ không biết phải chọn dịch cử chỉ nào "bồng đứa bé trên tay đu đưa" (rocking the baby in one's arm), hay là "đu đưa cái nôi trong đó đứa bé đang nằm" (rocking the cot where the baby is lying).

Tiếng Việt không có từ tổng thể tương đương với từ "rice" trong tiếng Anh, trong khi đó tiếng Anh không có những từ cá biệt để phân loại các hình thức khác nhau của "rice" là "mạ, lúa, thóc, gạo, cơm, cốm, bỏng " trong tiếng Việt. Bộ Cải tiến Nông thôn ở Miền Nam trước đây có một cơ quan gọi là Sở Túc mễ (Rice Service), "túc mễ" nghĩa là "lúa gạo" ('túc' là 'luá', 'mễ' là 'gạo'), là một bằng chứng cho thấy tiếng Việt không có từ tổng thể tương đương với từ "rice", nên phải dùng hai từ đơn làm từ ghép chỉ nghiã chung cho cả lúa lẫn gạo. Ta cứ thử tưởng tượng khi một người bản ngữ tiếng Anh, hay con em người Việt chúng ta sinh trưởng ở những nước nói tiếng Anh, phải dịch chữ 'rice' sang tiếng Việt trong những từ ghép như 'imported rice', 'rice fields', 'green rice', 'rice bubbles', 'rice milk', 'boiled/steamed rice' thì chắc sẽ có vấn đề.

Lối tổ chức từ vựng về quan hệ thân tộc họ hàng (kinship terms) trong tiếng Việt phức tạp hơn trong tiếng Anh rất nhiều. Tiếng Anh có từ "uncle" chỉ chung cho nhiều từ cá biệt trong tiếng Việt như "chú, bác, cậu, dượng" và từ "aunt" chỉ chung cho nhiều từ cá biệt trong tiếng Việt như "cô, bác, dì, già, thím, mợ'". Ta cứ thử suy nghĩ một chút thì thấy ngay nỗi khó khăn, phiền phức khi ta, hoặc nhất là một người bản ngữ tiếng Anh, phải chọn chữ nào cho thích hợp để dịch từ "uncle" hoặc "aunt" sang tiếng Việt. Tôi đã chứng kiến thấy trong một văn bản điều tra của cảnh sát Úc về một người bị tố giác có dính líu trong một vụ hiếp dâm, từ "dượng" như trong "Dượng Năm', tiếng miền Nam dùng để chỉ người chồng của người "cô", hay người "dì' thứ năm của mình, không hiểu sao bị dịch nhầm ra tiếng Anh là "Elder Brother Five", thay vì "Uncle Five" mới là hiểu đúng, dịch đúng. Bằng không, dịch sai như thế thì chả nhẽ "Quít làm Cam chịu " hay sao?


4. Ngôn ngữ ngọn thiếu từ cá biệt (hyponym)

Từ cá biệt là gì? Với từ tổng thể "house", tiếng Anh có rất nhiều từ cá biệt như "bungalow, cottage, croft, chalet, lodge, hut, mansion, manor, villa, hall ..." Nếu suy nghĩ một chút mà tìm trong tiếng Việt thì ta thấy cũng có một số như "nhà sàn, nhà tranh, nhà tranh vách đất, nhà lá, nhà ngói, nhà gạch, nhà cây, biệt thự, vi la, nhà chòi, túp lều, nhà trệt..." nhưng để mà dịch, tìm từ tương đương để điền thế cho nhau, thì không phải là chuyện dễ. Với từ tổng thể "cooking' tiếng Anh có vô số các từ cá biệt như "boil, roast, bake, brew, stew, braise, simmer, poach, grill, seal, glaze, prick, brown ' mà tiếng Việt ta không có đầy đủ từ tương ứng. Nặn óc tìm thì cũng được một lô "luộc, xào, chiên, rang, bác, rán, tráng, dim, nướng, nướng vỉ, hấp, hấp cách thủy, hầm...', nhưng phải làm công việc "mối mai' sao cho tương xứng (matching) thì chưa chắc đã mát tay.

Tiếng Anh thiếu từ cá biệt cho động từ tổng thể "to wear' trong khi tiếng Việt có 15 từ cá biệt cho ý niệm "to wear' nhưng không có từ tổng thể. Thí dụ như "để (tóc, râu), đi (giầy, vớ, bít tất, hia, hài), mặc (áo, quần), đội (nón, mũ, tóc giả), chít (khăn), đeo (kính, nhẫn, dây chuyền, cà vạt), thắt (dây lưng, cà vạt), đánh/giồi (phấn), thoa (son, kem chống nắng), tô (son), bôi (son, nước hoa), xức (thuốc, dầu), xịt (dầu thơm)', đóng (khố). Tất cả những từ cá biệt kể trên đều có thể chuyển ngữ bằng từ "to wear' hoặc "to put on', nhưng không dùng "to put on' cho "hair' (tóc), ngoại trừ "to put on a wig' (mang tóc giả). Từ "to wear' còn có thể được thay thế bằng "to apply', nhưng chỉ dùng trong trường hợp duy nhất là "to apply makeup' (đánh phấn thoa son/trang điểm) mà thôi.

Hãy thử tưởng tượng một người Anh, Mỹ, Úc học tiếng Việt mà phải dịch động từ "to wear' sang tiếng Việt thì khó khăn biết là chừng nào! Song, khó khăn không chỉ dừng lại ở đây, động từ tổng thể "to lose' có 7 từ cá biệt trong tiếng Việt "mất, thua, lạc, thất, sụt, bại, chết', xếp theo thứ tự khả năng kết hợp từ cao xuống thấp. Tùy theo mình "lose' cái gì mà ta phải chọn cho đúng từ để dịch. Thí dụ "mất như trong "mất tiền (money), mất bạn (friends), mất mặt (face), mất niềm tin (faith) ...', "thua' như trong "thua trận (a battle), thua cuộc (a contest) ...', " lạc' như trong "lạc đường (the way), lạc hướng (direction) ...', " thất' như trong " thất tình (one's love), "thất vọng (one's hope)... ', "sụt' như trong "sụt cân / kí (weight)...', " bại' như trong "bại trận (a war)', "chết' (lose one's life).

Vấn đề còn phức tạp hơn thế khi ta xét đến động từ tổng thể "to carry' có 24 từ cá biệt trong tiếng Việt "đem, đưa, mang, vác, xách, đội, cõng, cầm, ôm, bồng, ôm, khiêng, gánh, quảy, đeo, đèo, chở, lai, thồ, điụ, bưng, bế, kiệu, công kênh' tùy theo mình "carry' cái gì và ở đâu. Kể nghĩ cho kĩ thì ta có thể xem động từ 'đem/đưa' là từ tổng thể tương đương với động từ "to carry'. Lý do tại sao Việt ngữ có nhiều từ cá biệt cho loại 'đem/đưa' này có thể giải thích được là thời xa xưa, Việt Nam cơ bản là một nước nông nghiệp, người Việt ta không có mấy phương tiện nâng khuân, chuyên chở nên phải dùng đến tay chân, đến thân mình làm phương tiện thay thế. Vì không có những từ cá biệt tương ứng với tiếng Việt, nên phiên dịch viên mà tiếng Việt không phải là tiếng mẹ đẻ chắc sẽ lúng túng khi phải chọn trong mớ từ dày đặc nêu trên để tìm lấy một từ tương ứng với bản văn ngôn ngữ gốc.

Tương tự, danh từ tổng thể "áo' có hơn 10 từ cá biệt trong tiếng Anh như "shirt, blouse, sweater, windcheater, pullover, cardigan, coat, jacket, slip, shawl, cape, smock, dress, tunic ...' mà tiếng Việt nếu cần phân biệt thì cũng nói chung là "áo sơ mi, áo lạnh, áo ấm, áo bông, áo choàng, áo tơi, áo dài...', không sao có đủ số lượng từ tương ứng. Nếu tôi nhận xét không lầm thì mãi tới mấy thập niên gần đây người ta mới thấy tiếng Anh có từ tổng thể "top' dùng tương đương như "áo' trong tiếng Việt.


5. Hai ngôn ngữ khác nhau về mô thức kết hợp ngữ (collocational patterns)

Kết hợp ngữ (collocation) là hiện tượng trong đó 'hai hay nhiều từ ngữ thường đi chung với nhau một cách 'vui vẻ', tự nhiên trong một ngôn ngữ nào đó'. Thí dụ người Việt ta nói 'trà đặc' (*dense tea), 'gội đầu (*wash one's head), 'đánh răng' (*beat one's teeth), 'đỡ đẻ' ("*assist in giving birth'), 'xóm chị em ta' (*our sisters' district) thì nghe xuôi tai, trong khi tiếng Anh họ lại nói 'strong tea' (*trà khoẻ), 'wash one's hair' (*rửa tóc)', 'clean one's teeth' (*làm sạch răng)', 'deliver a baby' (*giao đứa bé), 'redlight district' (*xóm đèn đỏ).

Tiếng Anh họ nói 'break the law' (*bẻ gẫy/phá luật pháp), 'beat shyness' (*đánh thẹn thùng), 'kick the habit' (*đá thói quen), 'passport to recovery' (*hộ chiếu/thông hành đi đến chỗ phục hồi), hay thông thường hơn "passport to health' (*hộ chiếu/thông hành đến sức khoẻ); trong khi người Việt ta nói 'phạm luật', 'chữa thẹn', 'bỏ thói quen', 'chiếu khán đi đến chỗ phục hồi ', thì nghe mới quen tai. Khác biệt về mô thức kết hợp ngữ giữa ngôn ngữ gốc và ngôn ngữ ngọn là mầm mống cạm bẫy đưa phiên dịch viên vào chỗ phạm phải lỗi lầm.

Tính từ 'giả' có hơn 10 từ tương đương trong tiếng Anh như 'fake, false, bogus, counterfeit, sham, imitation, reproduction, artificial, forged, assumed, replica, glass, prosthetic...' khi dịch ta phải tùy theo cái gì đi với 'giả', nghĩa là từ nào kết hợp hài hòa với ý niệm 'giả' trong tiếng Anh, để mà chọn từ tiếng Anh cho đúng, chứ không thể 'râu ông nọ cắm cằm bà kia'. Thí dụ 'tiền giả': counterfeit notes/coins, 'nữ trang giả' (imitation jewellery), 'thuốc giả' (fake pharmaceutical products), 'hôn nhân giả' (bogus/sham/fake marriage), "giấy tờ giả' (forged/fake papers), 'chữ kí giả' (forged/fake signature), 'chân tay giả' (artificial/prosthetic limbs), 'mắt giả' (glass eye), 'răng giả' (false teeth), 'tên giả' (assumed/false name), 'cục vàng giả' (replica gold nugget), còn 'bức tranh giả' thì là reproduction painting. Báo chí Úc đã có lần nói về cuộc hôn nhân giữa Thái tử Charles và công nương Diana trướcđây là 'sham marriage'.

Tính từ 'đen' trong tiếng Việt có thêm 7 dạng khác nhau tùy theo 'đen' xuất hiện, đi chung với danh từ nào mà người nói có thể sử dụng đúng kết hợp ngữ, dù rằng đó là những kết hợp hạn chế. Thí dụ khi đi với 'tóc' thì là 'tóc huyền', với 'mèo' là 'mèo mun', với 'chó' là 'chó mực', với 'ngựa là 'ngựa ô', với 'gà' là 'gà ác', với 'bò' là 'bò hóng', với 'áo' là 'áo thâm'. Riêng với 'mun', 'ô', 'huyền', ta còn có kết hợp ngữ 'đũa mun', 'gà ô', 'khói huyền' (như trong 'khói huyền bay lên mây'); 'hạt huyền' (như trong 'răng đen hạt huyền').

Trong tiếng Việt khi nói về người mang nặng đẻ đau, có công sinh thành ra mình, ta chỉ nói người đó là 'mẹ (ruột, đẻ)', trong khi tiếng Anh họ nói tới nào là 'biological, natural, genetic, birth mother'. Cũng từ thí dụ này ta lại học thêm được một điều nữa về mô thức kết hợp ngữ trong phiên dịch. Khi gặp một từ như 'mẹ ruột, mẹ đẻ' mà phiên dịch viên chưa có dịp tiếp cận nhiều với tiếng Anh đến độ biết được 4 từ vừa nêu để chọn một, thì cứ chiếu theo nghĩa tiếng Việt, may ra có thể chọn được một từ đúng cho từ "mẹ đẻ' là 'birth mother', bởi vì 'birth' liên hệ tại sinh đẻ, chứ còn 'mẹ ruột' mà đem dịch là '*intestinal mother' vì 'intestine' là 'ruột', thì sẽ nghe không tự nhiên vì không phải là kết hợp ngữ điển hình trong tiếng Anh.

Tính từ 'instant' có khả năng kết hợp rất rộng rãi trong tiếng Anh như 'instant + (cash, coffee, fame, lawn, love, noodle, Scratchies, sellout, signs, success, boiling water...)' nhưng không có từ tương đương duy nhất trong tiếng Việt, nên mỗi lần dịch tính từ này lại là một lần phải suy nghĩ xem tiếng Việt nói thế nào. Ðại loại thì người ta có thể tìm lối dịch tương đương như 'tiền mặt trả liền', 'cà phê bột/pha nhanh có liền', 'nổi danh/tiếng liền', 'thảm cỏ mua sẵn trải liền', 'có tình/người yêu liền', 'mì gói ăn liền', 'vé/hàng hóa bán ra hết liền', 'vé số cạo trúng lấy tiền liền', 'bin/bảng vẽ lấy liền', 'thành công liền/tức thì', 'nước sôi nấu có liền'.

Nói chung thì từ để dịch 'instant' là 'liền' nhưng ta không thể chuyển ngữ máy móc được mà phải tùy nó kết hợp với từ nào mà phải dịch theo lối cắt nghĩa, thêm thắt đôi chút cho hợp với lối nói, lối dùng ý, dùng tứ Việt Nam, thì người Việt nghe mới quen tai. Hiện tượng nghe quen tai có thể xảy ra theo 'tiến trình giống lông giống cánh' (process of analogy) mà ta đã thấy trong Anh ngữ. Từ những kết hợp của tính từ 'heavy' với các danh từ mà nó bổ túc nghĩa như 'heavy drinker' (sâu rượu), 'heavy smoker' (hút liên tu bất tận), 'heavy sleeper' (ngủ say như chết), 'heavy eater' (ăn khoẻ như trâu) mà nay người bản ngữ tiếng Anh đã chấp nhận người ghiền cờ bạc có thể gọi là 'heavy gambler', trong khi trước đây có thể họ chỉ chấp nhận những kết hợp điển hình như 'big gambler', 'compulsive gambler', hoặc mới đây hơn 'problem gambler', addictive gambler', 'excessive gambler'.


6. Hai ngôn ngữ khác nhau về cụm từ cố định và thành ngữ (fixed and idiomatic expressions)

Cụm từ cố định (fixed expressions) là gì? Cứ chiếu theo chữ mà suy ra nghiã thì 'cụm từ' là 'nhóm từ ngữ', còn 'cố định' là 'không thay đổi', 'khó thay đổi'. Muốn định nghĩa thì ta có thể nói 'cụm từ cố định là nhóm từ ngữ có mô thức kết hợp chặt chẽ, khó thay đổi'. Thí dụ "ruộng cả ao liền', "tóc rễ tre', "con gái rượu', 'lên xe hoa', 'có điều là', 'khổ một nỗi', 'khác nhau ở chỗ là', 'nói tóm lại'... Trong tiếng Anh ta có thể đan cử nhưng thí dụ về cụm từ cố định như "as a matter of fact' (thật ra), "Ladies and Gentlemen' (Thưa Quí vị), "all the best' (chúc bình an vôsự), ' "crime does not pay' (thiên bất dung gian), "a leopard can't change his spots' (chứng nào tật ấy; chó đen giữ mực), "waste not want not' (phí của Trời mười đi không có), "as old as the hills' (xưa như trái đất), "to jump out of the frying pan into the fire' (tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa).
Còn thành ngữ (idiomatic expressions hay idioms) được định nghĩa là 'cụm từ cố định, nhưng có cấu trúc chặt chẽ hơn, và nghiã cuả chúng có tính hình tượng hoặc gợi cảm'. Thí dụ "ba cọc ba đồng', "chó cắn áo rách', "nhà ngói cây mít', "ông nói gà bà nói vịt'. Thí dụ về thành ngữ trong tiếng Anh: "to go to the dogs' (sa chân lỡ bước/lầm chân lạc lối), "to make a mountain out of a molehill' (chuyện bé xé ra to), "to carry coals to Newcastle' (chở củi về rừng)...

Như định nghĩa nêu trên, thành ngữ dị ứng, đối kháng (resistant) mạnh mẽ lại với mọi đổi thay đem áp đặt lên nó. Nó còn khác với cụm từ cố định ở chỗ là nó tối nghĩa, "tổng hợp nghĩa từng phần của cụm từ không phải là nghĩa toàn thể của cụm từ đó'. Thí dụ "to have cold feet' nghĩa từng phần là "có bàn chân lạnh', nghĩa toàn thể là "sợ sệt', hay "to drop a brick' nghĩa từng phần là "đánh rơi hòn gạch', nghĩa toàn thể là "phạm lỗi'.

Tiếng Việt có thành ngữ "yêu chó chó liếm mặt' có nghĩa là "thương yêu, vồn vã kẻ dưới có thể bị họ lờn mặt, coi thường'. Thành ngữ này nếu được giảng nghĩa đen cho người phương Tây vốn yêu súc vật, thì rất có thể sẽ bị họ hiểu lầm, vì họ nghĩ: mình gần gũi thân mật với chó, mình vuốt ve nó, thì nó sẽ đáp lại bằng cách liếm mặt mình, tỏ cử chỉ mến yêu, có gì lạ đâu! Muốn dịch ý của thành ngữ "yêu chó chó liếm mặt' sang tiếng Anh chắc ta có thể tìm thấy tương đương gần nhất là "familiarity breeds contempt' (quen thuộc quá hóa khinh thường), mà trong tiếng Việt ta cũng còn nói "gần chùa gọi Bụt bằng anh'.

Có ba trường hợp gây khó khăn cho phiên dịch viên khi dịch thành ngữ và cụm từ cố định: (1) Thành ngữ hay cụm từ cố định không có tương đương trong ngôn ngữ ngọn; (2) Thành ngữ hay cụm từ cố định giống với ngôn ngữ ngọn, nhưng khác ngữ cảnh sử dụng; (3) Thành ngữ trong ngôn ngữ gốc được đem dùng với cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng cùng một lúc.


6.1 Thành ngữ hay cụm từ cố định không có tương đương trong ngôn ngữ ngọn

Vì mỗi ngôn ngữ được tự do chọn lối nói của mình, và mỗi ngôn ngữ tiềm ẩn trong mỗi nền văn hóa một khác, nên từ ngữ đặc trưng văn hóa cũng khác theo, ta không đòi hỏi, trông đợi ngôn ngữ này sẽ dùng đúng lí lẽ diễn tả trong ngôn ngữ kia để ta có thể đơn giản hóa chuyện dịch, làm cho việc dịch trở nên dễ dàng là chỉ phải dịch "lời' mà khỏi phải dịch " ý'. Muốn dịch thì ta phải moi lại trong trí nhớ, lục lại trong sách vở, từ điển tục ngữ, thành ngữ, phương ngôn xem có tìm được cái "ý' tương đương không. Trong câu "to carry coals to Newcastle' ta sẽ thấy phiên dịch viên mỗi nước dịch " ý" một kiểu. Việt nam ta thì dịch theo lối nói của người Việt là "chở củi về rừng', Pháp thì họ dịch là "porter de l'eau à la rivière' (to carry water to the river), "chở nước ra sông', Ðức thì lại nói "Die Eulen nach Athen tragen' (to carry owls to Athens), "chở chim cú về Nhã điển'. Nhưng cũng có trường hợp không có tương đương cả về "lời' lẫn " ý ". Thí dụ như ta nói "nợ sách đèn', "tiên học lễ hậu học văn', "phi cao đẳng bất thành phu phụ' thì ta đành phải dịch diễn nghĩa (paraphrase) những câu đó sang tiếng Anh.


6.2 Thành ngữ hay cụm từ cố định giống với ngôn ngữ ngọn, nhưng khác ngữ cảnh sử dụng (context of use):

Ta có thí dụ trong tiếng Anh, "to go to the dogs', có nghĩa là "to lose one's good qualities', tức là "làm mất đi cái hay, cái tốt của mình'. Trong tiếng Ðức họ cũng có thành ngữ giống như thế "Zum Teufel gehen', nhưng trong khi thành ngữ tiếng Anh dùng để nói về một người hay một nơi chốn nào, thì thành ngữ tiếng Ðức lại có ngữ cảnh sử dụng khác, nghĩa là họ chỉ dùng cho người, chứ không cho nơi chốn, mà lại thường có nghĩa là "chết' (to die), hay "bỏ mạng, bị hủy diệt' (to perish). Nói nôm na theo kiểu Việt nam thì, nếu là người ta có thể bảo 'thằng/con đó như thế là coi như tiêu đời rồi', hoặc, nếu là nơi chốn, thì có thể nói 'nơi/khu đó bị mang tiếng quá rồi'.

Trong tiếng Việt mình có thành ngữ 'cháy nhà ra mặt chuột', nghiã đen là khi nhà cháy rụi rồi thì chuột chui rúc đâu đó trong nhà nóng quá mà phải chạy ùa ra, không còn ẩn nấp được gì nữa', nghiã thành ngữ là 'do có biến động xảy ra mà phơi bày, lộ tẩy sự thật vốn có, không còn che đậy giấu giếm được nữa'. Tiếng Anh họ nói 'rats desert a sinking ship', nghiã đen là 'chuột bỏ tàu khi tàu đắm', nghiã thành ngữ là 'người xấu nết khi hữu sự thì bỏ chạy lo lấy mình, không màng ở lại giúp đỡ, yểm trợ cho người khác'. Cả hai thành ngữ Việt Anh giống nhau ở chỗ cùng nói về 'chuột', hàm ý người xấu, cùng nói về 'khi gặp nguy biến', cùng nói về 'để lộ tẩy', nhưng câu thành ngữ tiếng Việt không nói rõ là 'giấu giếm bản chất người xấu nết thì nết xấu đó là gì', trong khi câu thành ngữ tiếng Anh cho ta thấy rõ 'nét xấu đó là tính ích kỉ, chỉ biết lo lấy mình, khi gặp nạn bỏ người khác sống chết mặc bay'. Vậy là ngữ cảnh sử dụng cuả hai câu thành ngữ có hơi khác.


6.3 Thành ngữ trong ngôn ngữ gốc được đem dùng với cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng cùng một lúc

Ðây là trường hợp khó khăn thứ ba. Lấy thí dụ phiên dịch viên phải dịch sang tiếng Việt một đoạn tiếng Anh đăng trên báo Anh ngữ đại khái có ý như sau: "Sau khi em bé gái 9 tuổi, tên là Mary, ở Luân Ðôn bên Anh, bị khám phá ra là mắc bệnh AIDS, em này đã bị phụ huynh học sinh có con em học cùng trường với em tẩy chay, phản đối với Hiệu trưởng và Ban Giám hiệu không cho em vào học vì sợ em sẽ lây truyền bệnh cho con em của họ. Trước sự phản đối rầm rộ đó, nhà trường đã quyết định "to send Mary to Coventry', một thị trấn mạn Tây Bắc Luân Ðôn".

Thành ngữ "to send someone to Coventry' (đưa người nào tại Coventry) được người ta dùng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa thành ngữ, và như thế nó có cả hai nghĩa là: (1) em bị chuyển trường đến thị trấn Coventry; (2) em bị tẩy chay, không cho đến trường. Trong trường hợp như vậy, vì Việt ngữ không có thành ngữ cùng diễn tả hai nghĩa như trên nên người dịch coi như bị bó tay, không lột tả được "ý' muốn chơi chữ của người viết trong tiếng Anh.

Trong chuyện vui cười, tiếu lâm, nếu phải dịch chuyện cười nào mà người kể chuyện lấy kiểu chơi chữ làm cơ bản, chủ chốt, thì phiên dịch viên coi như sẽ "lãnh đủ', chỉ còn có nước "cười ra nước mắt' mà thôi.

© Talawas 2002