trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 482 bài
  1 - 20 / 482 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Văn họcThơ và Thơ Trẻ
28.9.2006
Nguyá»…n Vy Khanh
Thơ Thanh Tâm Tuyền
 
Tôi không còn cô độc (1956)

Như thiền thi đời Trần lên núi hét một tiếng để nhận chân thân - phận cát bụi nhỏ nhoi của mình trong hư vô, Tôi loan báo "Tôi không còn cô độc" để thấy hiện rõ cái cô độc của mình, của thân phận con người. Nhưng tôi chấp nhận vì tôi muốn làm kẻ nhập cuộc, hết mình dấn thân, để tự giải thoát. Tôi bất chấp ám ảnh, cạm bẫy, lừa dối, buồn nôn vây phủ, cả tự tử và tha nhân là địa ngục (Jean-Paul Sartre). Tôi "phải" khởi đi từ những yếu lý siêu hình đó! Mở đầu tập Tôi không còn cô độc đã có hàng chữ tự xác định mảnh đất thi ca riêng, nhưng cũng là một phản ứng của kẻ loan truyền cái mới, cái khác:

"Ở đây tôi là vị hoàng đế đầy đủ quyền uy. Bởi vì người vào trong đất đai của tôi.
Người hoàn toàn tự do / để cai trị tôi có những luật lệ tinh thần mà người phải thần phục nếu người muốn nhập lãnh thổ.
Người hoàn toàn tự do và có thể ném cuốn sách ra cửa sổ"

“Phục sinh”, bài thơ mở đầu tập đã là một tuyên ngôn công khai, rõ rệt. Thật vậy bài này về sau trở thành đề tài tranh luận, bổ báng, nhưng cũng đồng thời nói rõ quan niệm của nhà thơ về thi ca và cuộc đời - dù tác giả của nó đã từng từ chối danh hiệu thi sĩ! [1] Cái Tôi độc đáo, đặc biệt, kiêu hãnh, tự do! Tôi đã nói ra, một cần thiết! Anh hùng một cõi, cõi Tôi, nhưng thực tâm thì chưa chuẩn bị, mà cần gì! Mới thấy ánh bình minh đã phải nhảy mừng, ca tụng. Dù nắng trưa sẽ gắt và hoàng hôn cõi âm sẽ trở về như định mệnh. Tôi phục sinh, "Tôi buồn khóc như buồn nôn / ngoài phố / nắng thủy tinh / tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ / Thanh Tâm Tuyền".

Nắng thì chói chang mà Tôi thì buồn nôn. Tôi đang hiện sinh, đang kiêu hãnh sống, bên cạnh cuộc đời và con người đáng chán và buồn nôn. Tôi ghê tởm cái ù lì buồn nôn đồng thời dâng trong tôi sự thương xót và ở mỗi sự vật như cũng có dấu vết của sự thương hại đó, ở góc phố, góc giáo đường, ở cột đèn, cả nơi linh hồn. Tự cao, tự mãn xong, liền tủi thân, xót xa:

"tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ
thanh tâm tuyền".

Tôi gọi tên tôi, Thanh Tâm Tuyền nhà thơ và Thanh Tâm Tuyền trong thơ như là hai khía cạnh của một con người, một sáng suốt với ý thức, nhìn một kia dại khờ, yếu đuối. Một thương xót cho một kia phải giáp mặt cuộc đời, phải khổ sở:

"Buổi chiều sao vỡ vào chuông giáo đường
Tôi xin một chỗ quỳ thầm kín
Cho đứa nhỏ linh hồn
Sợ chó dữ
Con chó đói không màu"

Chuông giáo đường chiều tàn vắng bóng con chiên, chỉ có Tôi quỳ thầm lặng; không, chỉ có một linh hồn nhỏ hãi sợ tội lỗi, sự ác! Linh hồn nhỏ, dại, đứa nhỏ, dại, đứng trước cuộc đời dữ, con chiên lành trước đàn sói rình rập, không rõ màu. Càng phải tỉnh táo, không thể cả tin, ừ, tha nhân vốn là địa ngục:

"Tôi hét tên tôi cho nguôi giận
thanh tâm tuyền
Ðêm ngã xuống khoảng thì thầm tội lỗi
em bé quàng khăn đỏ ơi
này một con chó sói
thứ chó sói lang thang"

Ðưa nhỏ sợ chó dữ, một linh hồn nhỏ dại sợ tội lỗi, quyến rũ trần gian. Cô bé quàng khăn đỏ sợ con chó sói xảo quyệt, như trong truyện cổ tích, như vẫn phải vậy! Lang thang, không màu như thân phận, như "đời là thế", như cái buồn nôn, như cái hủy diệt của thời gian. Khiến phải ưu tư, lo lắng, ám ảnh, sợ bủa vây, sợ nanh vuốt! Và khiến Tôi tức giận, buồn nôn, buồn ngủ, thành ra phải gắt gỏng lớn tiếng, phải hét. Phải tìm một nơi ẩn náu, nơi góc giáo đường, dưới chân tháp chuông, một chổ nghỉ an, như một giấc ngủ vùi, một nơi nương tựa, ẩn náu, và xa hơn, lâu dài hơn, cái chết sau cùng, ở cuối đường đời! Cái chết như nơi phải đến, như một cực luận để cuộc đời trước khi đến đó có ý nghĩa. Phiền muộn, sống chưa trọn vẹn, đang thiếu thốn, nhưng đã buồn nôn, chán chường, mơ... chết, mơ cuối đường. Một thân phận dang dở, chưa xong, dù phải hoàn thành, cho ra con người!

"Tôi thèm sống như thèm chết
giữa hơi thở giao thoa
ngực cháy lửa
tôi gọi khẽ
em
hãy mở cửa trái tim
tâm hồn anh vừa sống lại thành trẻ thơ
trong sạch như một làn sự thật"
("Phục sinh", tr. 11).

Muốn "thành trẻ thơ", "một lần sự thật", những ao ước của một cái Tôi ngạo nghễ. Cái Tôi mà thi nhân rút vào, cái Tôi vỏ sò vỏ hến. Cái Tôi tự do, thân phận. Thực vậy, là cái Tôi của thời đại của nó, của một giai đoạn, một bậc thang phải bước qua! Và muốn Em, người tình! Thêm một nhân vật: Em, người nữ, người yêu, sự dịu dàng cho một kiếp người và cuộc sống buồn nôn, dở dang, phiền muộn. Và van nài, để được sống lại "thành trẻ thơ" "trong sạch" như... sự thật. Một sự thật nào đây? Làm người? Người khác - ở đây là người nữ, là tình yêu, và sẽ là suối ngọt, là bóng mát, nơi có thể ngủ vùi. Một điểm tựa cho cuộc đời, một với theo, sau những lang thang trên hè phố, sau những thất bại và buồn nôn. Người với người, cô đơn với suối ngọt, bãi cỏ xanh êm. Mà không còn là gác chuông giáo đường!

Tình yêu như một phương tiện để "về với đời sống (...) bị dùng làm phương tiện khám phá đời sống, khai quật ý thức" [2] , vậy là không cần thiết nhưng hình như Tôi không thể sống thiếu tình yêu, một thăng hoa của cuộc sống, một chốn-để-về. Một phần thưởng cho những ai đã ra đi, đã đi xa, đi hoài, đã lang thang nhiều vĩa hè, nhiều đêm khuya vắng,... tình yêu như một chặng đến không thể tránh, không thể tốt hơn, dù phía sau cửa sổ:

"... em sẽ gọi tên anh
mùa hoa hôm nay
nhưng thời gian đã ngã vào lòng vô định
chút sữa huệ ấm đời thiếu tiếng chim
cánh hồng ngọt không gian tàn phá
những thời gian không rời nhau mang đến bao nhiêu mưa
dạy em yêu phía sau cửa sổ
thiếp điên trong chuỗi dài giấc ngủ
rất vui"
(“Hoa”, tr. 32).

Người yêu, người thân, trong sự yêu đời, bằng yên. Và được "cảm giác ngủ một vùng yên tĩnh":

"ngó đầu ra ngoài thở hơi mưa
cảm giác ngủ một vùng yên tĩnh
bao giờ ánh sáng cũng nhói thẳng con ngươi
tâm hồn rực rỡ bàn tay vẫy
tôi trở lại cùng người thân yêu
không giam tâm hồn trong nhà ngục tâm hồn
thế giới nói thêm lời hoa cỏ thiên nhiên
câu chuyện mặt trời hoang đường như đôi mắt tình nhân
tối hơn
bỗng tin lần mi khép lại"

"Ánh sáng" đã "nhói thẳng con ngươi", trực diện, thẳng đến, và "tâm hồn rực rỡ bàn tay vẫy" khích lệ, tươi vui, yêu đời. Ðã "ngủ" ngon giấc, nắng đang lên, cùng thiên nhiên, "mặt trời hoang đường như đôi mắt tình nhân". Nhưng đời mãi là những giấc mơ, thì cô đơn vẫn trọn vẹn:

"Tôi biết những người khóc lẻ loi
không nguôi một phút
những người khóc lệ không rơi ngoài tim mình
(...) đôi khi anh muốn tin
ôi những người khóc lẻ loi một mình
đau đớn lệ là những viên đá xanh
tim rũ rượi"
(“Lệ đá xanh”, tr. 60)


Liên, Ðêm, Mặt trời tìm thấy (1964)

Ðến tập Liên, Ðêm, Mặt trời tìm thấy, xuất bản năm 1964 nhưng đã sáng tác những năm cuối thập niên 1950, Thanh Tâm Tuyền đã tiến lên một bước, cái tôi có vẻ xã hội hơn, tình yêu được nói đến nhiều hơn, và kiếp người vẫn là những đề tài trội bật.

"... Tôi đẹp như hình tôi / như cuộc đời / như mọi người / như chút thôi / anh yêu lấy em...". "Tôi là tiếng nói là tiếng khóc (...) / tôi chờ đợi / tôi là tiếng thơ là tiếng cười / mai Việt Nam hỡi mai Việt Nam"
(“Bài ca ngợi tình yêu”, tr. 106).

Người tình Thanh Tâm Tuyền thú:

"Anh phải làm mới tình yêu
Như sửa sang nhà cửa
Như xây dựng thành phố
Như vun bón ruộng vườn
Như nhìn vào vũ trụ
khi thế giới vừa dựng
Sẽ mời mọc tình nhân
(...) Phải làm mới tình yêu
Coi chúng ta là những người thứ nhất
Trên trái đất này biết yêu nhau
những cặp tình nhân khác bắt chước
Ðể con cái sau này không khổ đau"
(“Bài thơ của tháng Giêng”, tr. 20-21)

Tình như đắng cay cuộc đời, sống không trọn cho phút giây hiện tại :

"(...) Ði đi chúng ta đến công viên / Nơi anh sẽ hôn em đắm đuối / Ôi môi em như mật đắng / Như móng sắc thương đau / (...) Ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới / (...) anh đưa em đi trốn / những giày vò ngày mai"
(“Dạ khúc”, tr. 34-35)

Tình lạnh lùng bí mật: "Trong cánh tay ôm của người tình lạnh lùng bí mật như đêm khuya, em ngã vào để biết mình nhảy qua hai bờ vực không..." (tr. 17). Thích để "hôn vào môi vào má vào răng" (“Mai”, tr. 11) và "thèm muốn mỗi hàm răng" để phải "đau môi" (tr. 13). Một bi quan lạnh lùng khác cái bi quan tuyệt vọng của một Nguyễn Ðình Toàn bệnh (tưởng) giai đoạn chót trong tập Mật đắng (1962):

"Người đau đớn gục đầu trong giấc máu
Tháng ngày đi trong một chuyến thở dài
Người ấp ngực đau từng hơi cháy bỏng..." (tr. 8)

Nhưng tình yêu ở Thanh Tâm Tuyền luôn có dĩ vãng ám ảnh nếu không muốn nói tình yêu là dĩ vãng và là tất cả. Dĩ vãng của Tôi là Liên, cũng là chữ đầu của Tựa tập thơ, và cũng là người đối tượng cho bài viết "Nỗi buồn trong thơ hôm nay":

"Hỡi Liên những Liên và Liên
Làm thế nào để quên được nhau
(...) Chẳng là anh ngông cuồng kiếm tìm tổ quốc vậy em biết không. Mà tổ quốc ngàn đời nín thở vì trời thì xanh mà nỗi khổ đau nói sao cho hết. Chẳng là anh chót yêu em vậy em biết không? Mà khi yêu nhau, trong những đêm sao hằng hà, làm thế nào để quên được nhau.
Hỡi Liên những Liên và Liên"
(“Nói về dĩ vãng”, tr. 22-23)

Vì "Em có biết sau lúc em từ biệt / Ðiếu thuốc cháy trên môi như người bạn chết" (“Bài hát buồn”, tr. 30). Tình yêu đó là Tình Yêu viết hoa: "Anh sẽ hôn em, thời khắc hạnh phúc vẫn mong manh. Mà vĩnh viễn đó" (“Mặt trời tìm thấy”, tr. 115). Bài “Mặt trời tìm thấy” là một bản trường ca tình ái: "Tôi từ biệt tôi và gặp em đang đón đợi" (tr. 120). "Chưa bao giờ anh hiền lành như hôm nay. Anh ở trong thành phố không quá khứ, ngõ xóm còn buông theo tưởng tượng rắc rối hơn tình yêu, anh mang đặt tên em để mình anh gọi. Anh viết cho em từ xứ sở xa vời khi qua bẩy mầu cầu vồng nơi mắt em với những mưa nắng hoàng hôn bình minh đột ngột. (...) / Bây giờ, và những bây giờ mãi mãi, màu đêm như lòng đen mắt ấy là con tim cao vời tử thần về nhịp múa./ Sẽ chết như sao rơi vào bất tận / Sẽ yêu như giọt nước hân hoan" (tr. 122-123). Thì cũng có vẻ dứt khoát với quá vãng, nhưng không với tình yêu!

Hiện tại ư, một người tình bất-cảm-thông, như "Một chỗ trên xe buýt":

"... Mưa xuống bên ngoài, ngoài cửa sổ. Những bàn tay níu lấy vòng sắt lạnh
Mỗi ngày chúng ta đứng bên nhau không quen nhau
Thân mật ngó lên mái tóc rối nền trời khuya
Ngó vào mắt hoang xa dòng sông không bờ
Sau một ngày làm việc em mơ về khói ấm khuôn mặt riêng..." (tr. 27).

Tình yêu cũng như cuộc đời không bền chặt, không hẳn vậy là vậy; hoặc con người không muốn bị lừa. Người sẽ tàn nhẫn với người, với tình yêu - bóng mát tìm thấy:

Mùa thu / ghi thương tích nơi cườm tay / Khóa chặt / Anh xô ngã em từ chớp đỉnh hạnh phúc...". Xô bóng mát, chỗ tưởng là nơi trú ẩn được, phải chăng vì
"... Ở cuối đêm
Em rũ tóc nói những lời mê sảng
Những ám hiệu
Của một biển đen không
tình yêu tuyệt vọng
Anh xe tóc em cùng những cành lá chết..."
(“Ðêm”, tr. 56)

"Còn muốn sống như nguồn nước đổ, sao em trả lời bằng bệnh viện mắt kín mưa đêm?" (tr. 17). Phải trở lại cái cô đơn, bất khả cảm thông nguyên ủy:

"Những đêm nào chiến tranh đã quên
Con mắt đen niềm im lặng
Anh vẫn đi hoài trong thành phố
Cô đơn
Trưa nắng cháy
Vào sâu trong ghẻ lạnh
Với máu trong tim
Chảy nhanh như máy móc đau ốm
(...) Tình yêu tuyệt vọng"
(“Ðêm”, tr. 55)

Chiến tranh và nỗi cô đơn phi lý để chung vào nhau trong một tổng thể kết cấu, như một ép buộc, của cuộc đời. Nhưng hình như đã thành công nói lên cái có thể sống cho mình, một mình, một khả thi khi tưởng không thể nữa - đã có người, đã có tình yêu, trong một thành phố, vẫn lang thang một mình, vẫn có thể nói với mình, một mình. Cô đơn, dù là "thiên tài", "Thiên tài dùng làm gì? / Ðể gây ra tội lỗi..." (tr. 57) vì "Thiên tài không tình yêu giống như con lợn lòi" (tr. 59). Cô đơn như một khám phá lớn, rằng con người sinh ra và chết cô đơn: "... Khuôn mặt vỡ tan / Như cẩm thạch / Như nước mắt / Như muôn đời / Không hối hận / Con đường anh phải đi một mình / Trần truồng dã thú / Ðón anh ở cuối đường / Hố sâu vĩnh viễn / Không có em" (“Ðêm”, tr. 56)

"Cả đời là sa mạc / Cả tôi là tự do", tự do nhưng cô đơn, "đời người thản nhiên như tên gọi" (tr. 69). "Anh chìa bàn tay khô héo / Nỗi tự do buồn phiền / Hai bàn tay những con đường cỏ cháy..." (tr. 37). Thân phận không lối thoát, và con đường lữ hành dù gì cũng phải đi trọn:

"... Tôi đi tìm tiếng nói
Cho cổ họng của tôi
Tôi vẫn khóc vẫn khóc
Hết linh hồn mới thôi
Tôi đi tìm tiếng nói
Cho ra tới ban ngày
Người ta níu lại hỏi
Cớ sao chịu đọa đày..."
(“Ðêm”, tr. 62)

Vì "Em biết không? Em biết không? / Trong ngục tù giam giữ những than van / Người ta kêu một mình..." (“Sầu khúc”, tr. 42). Tôi cô độc vì Liên, con mắt đen, vì "Liên còn trong Hà Nội / Ðã mất / Tiếng cười tan thành khói trên những búp tóc rối..." (tr. 66).

Ðến tàn hơi thở"Tôi vẫn sống thiết tha dù không còn hình ảnh, Dù không còn âm thanh (...) Tôi tin rằng tôi sẽ nổi loạn, tôi sẽ làm cách mạng cùng những người anh em của một ngày chưa ước hẹn. Nhưng rồi tôi biết tôi đang chết, tôi đang yêu người đàn bà phụ bạc. Nàng cấu xé thân thể tôi, nàng giày vò linh hồn tôi. Nàng chỉ cho tôi trông thấy màu đen của tròng mắt nàng, màu đen xoáy sâu hun hút con đường địa ngục yêu thương. (...) Tôi vẫn sống thiết tha dù hôm nay biết chắc chẳng ai đến hôn vào môi mình cho thêm một hơi thở. Người ta đã phụ nhau rồi, phải không em?" (“Hơi thở”, tr. 94 & 96).

Tôi rơi vào bi đát của cuộc đời, của thành phố, một chốn để trở về hay để bỏ đi: "... muốn một hồn người yêu đương mà không gặp nên thành phố là nơi đầy ải gớm nghê vì chứa chấp những cô đơn chống chọi. Ngó xuống mỗi viên gạch, nhìn lên mỗi cây đèn đủ thấy sự khinh ghét lạnh lùng" (“Thành phố”, tr. 86). "Có ai gọi tên tôi giữa phố, phố vắng và cái tên âm lên sự thù hằn. Tôi dừng lại trả lời: để cho tôi yên với tất cả đêm nay đang ngấm vào máu tôi" (“Ðêm”, tr. 72). Dù trong điệu nhạc từng đêm chốn vũ trường, người tuổi trẻ vẫn buồn, cái buồn thảm hại:

"Sao tuổi trẻ quá buồn / như con mắt giận dữ / Sao tuổi trẻ quá buồn / như bàn ghế không bầy" (tr. 35). Không khí nhiễm độc hay không gian thù địch? Vẫn phải níu kéo cuộc sống : "... Hai bàn tay nắm chặt hư vô / Mà hình dung hạnh phúc ngày mai..." (“Ðừng bắt tôi từ biệt”, tr. 97). Khóc tiếng khóc cô đơn. "... Người đàn ông khóc vì phải khóc / Như anh đã phải ôm em và tủi cực vô cùng / Cuộc đời cứ mở tròn những con mắt thản nhiên nhìn tội lỗi..." (“Ðêm”, tr. 64). Nhà thơ trở về, "Tôi đã trở về nhận quyền âu yếm của người không tên" (tr. 115), thảm thương bị trúng tên. Ðến phải lớn tiếng với chính mình: "Thôi mày hãy ôm khối lửa đỏ, định mệnh mày cừu địch, những hân hoan ngu tối cùng tự do khốn nạn" (“Chiều trên phi trường”, tr. 25).


*


Tôi qua hai tập thơ Tôi không còn cô độc và Liên, Ðêm, Mặt trời tìm thấy là một chủ thể rất cô độc, dù có hét lớn phủ nhận định mệnh, dù đã mở rộng vòng tay, tâm hồn, dù đã có lúc khép vỏ ốc! Từ một cái Tôi lớn tiếng nhưng giậm chân một chỗ đến một cái Tôi trưởng thành, cô độc đã làm nền cho thi nhân chứng tỏ sức sống sau những ám ảnh, buồn lo; ánh sáng rọi làm tan biến những tối ám địa ngục, như nắng lên sau những ngày mưa liên lỉ, như sau một giấc ngủ vùi - ngủ đã đời! Nghĩa là đã có hy vọng, có những vệt nắng!

Thơ tự do của Thanh Tâm Tuyền đã là một khởi hành, một thế giới thi ca thử ứng hợp với con người và xã hội ở một thời điểm. Thanh Tâm Tuyền đã phá vỡ cái tĩnh, cái nền của ngôn ngữ, ông đã phá cái cấu trúc bình thường. Ngôn ngữ trong thơ Thanh Tâm Tuyền bất thường, bất ngờ, lẫm lạ, không thứ tự cũng không thông thường nhưng nhiều khi cũng rất bình thường như lời nói ngoài phố chợ. “Nỗi buồn trong thơ hôm nay” được coi như bản tuyên ngôn của ông về thơ tự do. Thanh Tâm Tuyền đã viết: "Tôi nghĩ rằng điều làm cho người đọc xa lạ với thơ hôm nay không hoàn toàn vì hình thức tự do của nó. Thơ không vần, không điệu, thơ xuôi nếu quả thật là thơ - nghĩa là đạt được đến ngôn ngữ mầu nhiệm không chỉ chuyên chở ý tưởng mà còn ám ảnh vang vọng mãi trong tâm hồn - thì sớm muộn người đọc cũng tìm thấy và quen dần với một thứ nhịp điệu rộng rãi phức tạp ở một trình độ nghệ thuật cao hơn đối với nhịp điệu đơn giản rút gọn... Người làm thơ hôm nay có thể bỏ thơ không thương xót khi họ nhận thấy thơ không làm thỏa mãn nỗi khao khát quá chừng của đời sống hôm nay (...)" Thanh Tâm Tuyền đi xa hơn khi tuyên bố: "Chúng tôi theo cơn cuồng nộ bi thảm của Dionysos, của cuộc đời hôm nay. Chúng tôi cho các người vĩnh viễn (= thơ theo quan niệm cũ!), hãy nhường cho chúng tôi hiện tại":

"Dù sao mai phòng triển lãm sẽ đóng cửa
(Rồi mở thêm lần nữa
Ðể làm gì)
Vứt mẩu thuốc cuối cùng xuống dòng sông
Mà lòng mình phơi trên kè đá
Con thuyền xuôi
Chiều không xanh không tím không hồng
... Nếu đã từ Sài Gòn xuống Vĩnh Long hay lên Thủ Dầu Một
Chuyến xe vẫn chỉ thuộc một mình
Như kẻ say rót rượu lấy mà uống
Cho vui thêm cuộc hành trình
(Ðúng rồi những người thù ghét thơ tôi ơi)
Cuộc hành trình hoàn toàn cô độc"
(“Bao giờ”, LÐMTTT, tr. 32-23).

Nỗi cô đơn vẫn tràn ngập!

Tóm, một nỗ lực về ngôn ngữ thơ, về nhạc điệu. Tự do và khác. Tất cả với Thanh Tâm Tuyền là phản, là đối nghịch. Như nội dung, ý tình chuyên chở trong thơ. Hình thức và nội dung với thơ Thanh Tâm Tuyền là một, như một. Phải thành công một, kia mới thành công xướng lên, mới lên. Yếu tính thơ tự do có yếu tố hỗn độn,... vì nó có sự tổ chức riêng, có kết cấu riêng, nội tại, để nói lên, để nên thơ! Thơ tự do khác thơ cổ đìển hay có niêm luật vì liên hệ đến tác giả, đến tài thơ, nhịp thơ riêng. Nếu không, là thất bại, là không còn thơ tự do! Thanh Tâm Tuyền bỏ làm thơ sau những xáo trộn giữa thập niên 1960, cho đến khi ông vào trại "cải tạo" nơi núi rừng Việt Bắc sau 1975. Trên tạp chí Nghệ thuật, nhà thơ Trần Ðức Uyển đã có lần nhắc lại câu tâm sự của Thanh Tâm Tuyền tại sao không còn có thể làm thơ: "... Tự nhiên thấy khó, không dám làm. Vả lại chưa tìm được cái gì mới. Tôi thấy thơ bây giờ càng ngày càng thu hẹp lại, rút gọn vào trong cái "tôi", để cuối cùng chỉ có mình hiểu được thơ mình". [3]

Ra ngoài nước, 47 bài thơ làm trong thời gian tù đày "cải tạo" được xuất bản với tựa Thơ ở đâu xa (1990) - như một nhận diện cuối (hay thêm) về con người, về ý thức hệ, về sự thủy chung của thiên nhiên. Sống giây phút hiện tại, ở đây không còn là những khám phá hứng khởi của thời trẻ, chỉ còn là cái triền miên của khổ ải, nhân tình! Cuộc đời chỉ là đời sống có giá trị khi có Tôi trong đó!

(14.4.1999)



[1]Thanh Tâm Tuyền. "Nỗi buồn trong thơ hôm nay". Sáng tạo, 31, 9-1959, tr. 5.
[2]Thanh Tâm Tuyền. Bđd., tr. 6.
[3]Trần Ðức Uyển. "Nhìn lại thơ hôm nay". Nghệ thuật, 12, 12-1965, tr. 16-17.
Nguồn: Nguyá»…n Vy Khanh, Văn học Việt Nam thế ká»· XX. Má»™t số hiện tượng và thể loại. ChÆ°Æ¡ng 13, tr. 439-451, Đại Nam xuất bản, California 2004