trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 28 bài
  1 - 20 / 28 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Dịch thuật
10.1.2007
Khánh Hội
Đọc "Cô gái chơi dương cầm", bản dịch "Die Klavierspielerin" của Elfriede Jelinek
 
Gần đây, Công ty Sách Alpha (Hà Nội) có giới thiệu với độc giả tác phẩm Die Klavierspielerin của Elfriede Jelinek qua bản dịch tựa đề Cô gái chơi dương cầm [1] của Ngọc Cầm Dương.

Được biết giới phê bình Âu Tây đã tranh luận nhiều về Die Klavierspielerin ngay từ lần phát hành đầu tiên năm 1983. Những tác phẩm tiếp theo của Jelinek cũng thế. Năm 2004, khi bà được trao giải Nobel văn chương, có thành viên của Viện hàn lâm Thụy Điển đã rút tên để phản đối!

Khách quan mà nói thì tác phẩm của nữ văn sĩ Áo này không dễ tiếp thu, văn Jelinek khá khó đọc, nhất là không dễ dịch sang tiếng Việt cho xuôi tai. Ngọc Cầm Dương quả đã rất mạnh dạn.

Bản dịch này như thế nào?

Đây là một số sai sót dễ thấy trong mươi trang đầu, từ trang 9 đến 22. Đôi chỗ xin được viết hơi chi tiết để những độc giả talawas biết tiếng Đức – chắc chắn không ít - dễ nhận xét.


*



1. Zur Rede und an die Wand, Inquisitor und Erschießungskommendo in einer Person, in Staat und Familie einstimmig als Mutter anerkannt. (Jelinek S. 7)

Bà mẹ - điều tra viên kiêm cán bộ hành quyết được cả nước và gia đình công nhận - bắt nàng dựa vào tường để tra hỏi. (Ngọc Cầm Dương tr. 9)

Để tra hỏi thì bà mẹ cần gì "bắt nàng dựa vào tường"? Câu tiếng Đức này có hai cặp: Jemanden zur Rede stellen / Inquisitor (buộc ai phải trả lời, phải cung khai/ quan tòa xử dị giáo) với Jemanden an die Wand stellen / Erschießungskommendo ([bắt ai dựa vào tường để] xử bắn / đội hành quyết). Tất nhiên bà mẹ không xử bắn con gái. Vậy, câu trên hàm nghĩa cô phải cung khai (tại sao về trễ thế!) rồi chịu hình phạt.

Tạm dịch: Người được Nhà nước và gia đình nhất trí công nhận là bà mẹ - kiêm quan tòa lẫn đội hành quyết - bắt nàng khai rồi chịu hình phạt!


2. Ein Kind steht seiner Mutter unaufgefordert Antwort... (Jelinek S. 7)

Một đứa con phải trả lời mẹ ngay khi bị hỏi... (Ngọc Cầm Dương tr. 9)

Ein Kind: một đứa con! nghĩa là không xác định, tiếng Việt gọi chung là “con cái”. Unaufgefordert: tự nguyện, không chờ đòi hỏi, yêu cầu.

Tạm dịch: Con cái phải trả lời mẹ ngay, chứ không chờ (mẹ) hỏi.


3. Du hast dir damit späteren Lohn verscherzt! (Jelinek S. 8)

Vì chuyện này rồi mày sẽ phải trả bằng tiền lương về sau! (Ngọc Cầm Dương tr. 10)

Làm gì có “tiền lương về sau”! Ở đây Lohn có nghĩa thành quả (thí dụ Lohn der Mühe: thành quả của sự nỗ lực), ý bà mẹ nói tới căn hộ hai mẹ con đang dành dụm tiền để mua, cũng như cuộc sống sau này của họ.

Tạm dịch: Chỉ vì mày ham trưng diện mà mất cả hưởng về sau.


4. In dieser nagelneuen Wohnung, gebaut nach der Methode der Zukunft... (Jelinek S. 8)

Trong căn nhà mới, ngay từ cái đinh cũng được xây dựng theo phương pháp tương lai. (Ngọc Cầm Dương tr. 13)

Nagelneu: mới tinh, không có cái đinh nào ở đây cả, dù Nagel là đinh.

Tạm dịch: Trong căn hộ mới tinh sẽ xây theo phương pháp của mai sau...


5. ... kein Kind hat Geheimnisse. (Jelinek S. 9)

… không một đứa con nào lại không có bí mật. (Ngọc Cầm Dương tr. 11)

Dịch như vậy là ngược nghĩa.

Tạm dịch: ... con cái thì làm gì có bí mật.


6. Die Mutter bestimmt auch die Nachfrage nach ihrer Tochter... (Jelinek S. 10)

Bà mẹ cũng đưa ra những đòi hỏi... (Ngọc Cầm Dương tr. 13)

Nachfrage (cũ): hỏi thăm, còn có nghĩa "cầu" (trong "luật cung cầu") - rất hợp với chữ nghĩa của Jelinek. Rất khó dịch!

Tạm dịch: Bà mẹ quyết định luôn cả chuyện ai được thăm viếng con gái mình, ai không...


7. [Die Zeit... gipsern.] Sie bröckelt sofort, schlägt die Mutter einmal mit der Faust gröber hinein. (Jelinek S. 10)

[Thời gian... đông cứng như thạch cao.] Ngay khi nó vữa ra, bà mẹ lập tức nắm tay giáng mạnh vào. (Ngọc Cầm Dương tr. 13)

Dịch ngược nghĩa.

Tạm dịch: [...] Bà mẹ chỉ cần tống mạnh một cái là (nó) vỡ vụn ngay.


8. Doch Erika geriet, wider Willen der Mutter, manchmal unter fremden Einflüsse; eingebildete männliche Liebe drohte mit Ablenkung vom Studium. (Jelinek S. 10)

Nhưng đi ngược lại mong muốn của mẹ, Erika lạc lối, và đôi khi chịu những tác động khác; tình cảm nam nữ tự huyễn tưởng đe dọa cùng sự xao nhãng học tập. (Ngọc Cầm Dương tr. 13-14)

Tạm dịch: Song đôi khi Erika rơi vào ảnh hưởng của người lạ, trái với ý muốn của bà mẹ; cứ mãi mộng tưởng đàn ông đeo đuổi mình thì còn đầu óc đâu mà học với hành.


9. Das Kleid ahnt noch nicht, daß es soeben jählings seine Kariere unterbrochen hat. (Jelinek S. 13)

Những cái váy khiến như sự nghiệp của nàng bị ngắt quãng. (Ngọc Cầm Dương tr. 18)

Nhầm số ít và số nhiều (trong câu này chỉ có một chiếc áo đầm). Nhầm sự nghiệp của nó (chiếc áo đầm) với sự nghiệp của nàng (Erika).

Tạm dịch: Chiếc áo đầm đâu ngờ được sự nghiệp của nó bị chấm dứt đột ngột đến thế.


10. Die Mutter wünscht nicht Brautmutter zu werden. [...] mit diesem Status bescheidet sie sich. (Jelinek S. 14)

Bà mẹ không muốn trở thành mẹ cô dâu [...] và bà quyết định cho mình địa vị này. (Ngọc Cầm Dương tr. 19)

Tạm dịch: [...] và bà tạm thời hài lòng với thân phận này.


11. Die Mutter soll streng ihr Gewissen erforschen, ob sie ein ähnlich geschnittenes Kleid nicht in ihrer Jugend selbst getragen habe, Mutti? Diese bestreitet es aus Prinzip. (Jelinek S. 15)

Mẹ cũng nên thử nghiêm khắc nghiên cứu lại trí nhớ của mình, liệu có phải luôn mặc một kiểu váy trong suốt thời thanh xuân? Bà chối từ nó theo nguyên tắc. (Ngọc Cầm Dương tr. 20)

Tạm dịch: Mẹ cũng nên nghiêm khắc tự vấn xem thời thanh xuân mình có từng mặc áo đầm cắt kiểu tương tự như vậy không? Bà mẹ liền gạt phăng, theo đúng nguyên tắc mà.


12. Manche Schüler setzen sich gegen ihre Klavierlehrerin Erika entschieden zur Wehr. (Jelinek S. 15)

Vài học sinh tụ tập lại quyết định chống lại cô giáo dương cầm Erika. (Ngọc Cầm Dương tr. 20)

Câu tiếng Đức trên không có chữ nào mang nghĩa "tụ tập lại".

Tạm dịch: Vài học sinh dứt khoát chống lại cô giáo dương cầm Erika.


13. Nur was sich bisher bewährt hat, wird sich in dieser Stadt auch hinkünftig bewähren. (Jelinek S. 15)

Những gì được thử thách cho đến nay cũng sẽ tiếp tục được thử thách tại thành phố này. (Ngọc Cầm Dương tr. 20)

Tạm dịch: Chỉ những gì vẫn đứng vững nổi sau bao thử thách thì trong tương lai mới có thể tồn tại ở thành phố này.


14. Sie gibt an, daß sie sich nichts und niemandem unterordnen kann. Sie ordnet sich auch nur schwer ein. (Jelinek S. 16)

Nàng cho rằng không thể ở dưới bất kỳ người nào hay vật gì. Và chỉ đứng cùng thôi cũng đã khó khăn. (Ngọc Cầm Dương tr. 21)

Tạm dịch: Nàng bảo rằng không thể phục tùng bất kỳ ai hay bất cứ điều gì. Ngay chỉ hoà đồng thôi cũng đã khó rồi.


15. Die Mutter wittert schlechte Einflüsse [...], und will Erika vor allem davor bewahren, daß ein Mann sie zu etwas anderem umformt. (Jelinek S. 16)

Bà mẹ cảm nhận được những ảnh hưởng xấu [...] và luôn muốn bảo vệ Erika khỏi tất cả những gì người ta muốn nó thành. (Ngọc Cầm Dương tr. 21)

Tạm dịch: Bà mẹ linh cảm ngay là có kẻ đang gây ảnh hưởng không tốt lên nàng [...], và bà thấy điều quan trọng nhất là giữ cho Erika không bị một gã đàn ông nào nhào nặn khiến nàng mang một bản ngã khác.


16. Wenn ein Schüler nach ihrem Ziel fragt, so nennt sie die Humanität, in diesem Sinn faßt sie den Inhalt des Heiligenstädter Testaments von Beethoven für die Schüler zusammnen, sich neben den Heros der Tonkunst mit aufs Postament zwängend. (Jelinek S. 16)

Nếu một học sinh hỏi đến mục đích của mình, nàng nêu lên “Tính nhân văn" và bằng cách tóm tắt lại nội dung bản Heiligenstädter Testament của Beethoven cho các học sinh và đẩy người hùng của nghệ thuật âm thanh lên tượng đài của mình. (Ngọc Cầm Dương tr. 22)

Ton là âm thanh, Kunst là nghệ thuật, nhưng Tonkunst là âm nhạc chứ không phải nghệ thuật âm thanh. Ngọc Cầm Dương chú thích Heiligenstädter Testament là "bản di chúc những thành phố thiêng"! Heiligenstadt diễn nghĩa là "thành phố Thiêng" (viết hoa) cho vui thì được. Nhưng "những" là không đúng! Heiligenstädter là tính từ, không phải số nhiều của Heiligenstadt! Năm 1802, tức 6 năm sau khi biết mình bị điếc ngày càng nặng không mong chữa khỏi, Beethoven tuyệt vọng. Nhân một lần nghỉ dưỡng bệnh ở Heiligenstadt, ông viết bản Chúc thư rất cảm động này cho hai người em trai, nhưng không gửi.)

Tạm dịch: Khi có học sinh nào hỏi mục tiêu nàng nhắm tới là gì, nàng trả lời đó là tính nhân bản, theo tinh thần ấy nàng tóm tắt cho học trò hiểu nội dung bản Chúc thư của Beethoven ở Heiligenstadt, qua đó gián tiếp chen chân tìm chỗ đứng cạnh những vĩ nhân (hoặc dùng đúng chữ của Jelinek: những người hùng) của âm nhạc trên tượng đài tôn vinh họ.

Người viết bài này xin “nhảy cóc” qua các trang 30 đến 50 của bản dịch:


17. Diese alte Frau ist jemand, der neu zugestiegen ist, obwohl sie sich nicht beim Schaffner meldet. (Jelinek S. 26)

Bà già này là kẻ vừa lên tàu dù không hề báo với người quản lý. (Ngọc Cầm Dương tr. 34)

Schaffner là người bán vé, kiểm soát vé trên xe. Không có người quản lý nào ở đây.

Tạm dịch: Bà lão này là người vừa mới lên tàu điện, dẫu chưa có vé (chưa gặp người bán vé để mua).


18. Die Mutter klappert Freunden und Verwandten, und viele sind es nicht [...] eifrig entgegen, dass sie ein Genie geboren habe. (Jelinek S. 29)

Bà mẹ huyên thuyên với bạn bè và họ hàng, nhưng với nhiều người trong số đó thì không [...] rằng bà đã sinh ra một thiên tài. (Ngọc Cầm Dương tr. 38)

Nhưng với nhiều người trong số đó thì không thật vô nghĩa!

Tạm dịch: Bà mẹ không ngớt kể lể với bạn bè và họ hàng, (họ) cũng chẳng đông gì mấy, [...] rằng bà đã sinh ra một thiên tài.


19. Die Nachbarn pflichten dem bei. (Jelinek S. 29)

Hàng xóm chấp nhận nghĩa vụ. (Ngọc Cầm Dương tr. 38)

Pflicht là nghĩa vụ, trách nhiệm; nhưng beipflichten lại là tán thành, đồng ý.

Tạm dịch: Hàng xóm tán thành điều bà mẹ nói (rằng con gái bà là một thiên tài).


20. Was bleibt ihr anderes übrig, als in das Lehrfach überzuwechseln. Ein harter Schritt für den Meisterpianisten, der sich plötzlich vor stammelnden Anfängern und seelenlosen Fortgeschrittenen wiederfindet. (Jelinek S. 31)

Tất cả những gì còn lại với nàng là chuyển sang ngành giảng dạy. Một bước khó khăn cho một giáo viên dương cầm khi đột nhiên phải đương đầu với những kẻ bắt đầu bập bẹ và những người có thâm niên nhạt nhẽo. (Ngọc Cầm Dương tr. 41)

Tạm dịch: Nàng đâu còn cách nào khác hơn là chuyển sang giảng dạy. Thật khổ tâm cho nhà nghệ sĩ dương cầm bậc thầy, chợt phải đứng trước đám học sinh vỡ lòng ấp a ấp úng, còn đám trình độ khá thì thiếu hẳn tâm hồn.


21. Erikas Schüler und Schülerinnen sind gröbstens aus allen möglichen Sorten zusammengemischt [...] Nur selten ist eine rote Rose darunter. (Jelinek S. 31)

Nam nữ học sinh của Erika có đủ các thành phần thô lậu nhất [...] Chỉ thỉnh thoảng có một đóa hồng nhung phía dưới. (Ngọc Cầm Dương tr. 41)

Gröbstens aus allen möglichen Sorten zusammenmischen: pha trộn hết sức hỗn tạp từ đủ mọi trình độ (Sorte ở đây là trình độ!). Darunter: trong số (các học trò) đó, không phải phía dưới!

Tạm dịch: Học trò cả nam lẫn nữ của Erika là một đám cực kỳ hổ lốn gồm mọi trình độ [...] (Trong số đó) Họa hoằn lắm mới có được một đóa hồng nhung (có năng khiếu).


22. Das Arbeitsgerät, der Bösendorfer... (Jelinek S. 32)

Dụng cụ lao động hay vẫn bị gọi là gã-nhà-quê-quái-quỷ... (Ngọc Cầm Dương tr. 42)

Bösendorfer là một thương hiệu dương cầm lâu đời ở Áo. Không có nghĩa “gã-nhà- quê-quái-quỷ”, dù chỉ dịch cho... vui! Tiếng Đức không có từ Dorfer để Ngọc Cầm Dương dịch là “gã nhà quê”! Chỉ có Dörfler: người sinh trưởng ở thôn quê hoặc Bauer (nông dân).

Tạm dịch: Dụng cụ lao động, chiếc đàn hiệu Bösendorfer...


23. Die Mutter lenkt Erika daher auf einen Umweg und spiegelt die falsche Tatsache vor, dass wir heute einen Umweg machen wegen schönen Wetters. In den Parks blüht alles bereits, vor allem Rosen und Tulpen, die ihre Kleider auch nicht gekauft haben. (Jelinek S. 34)

Bà mẹ đưa nàng đi vòng hướng khác và phản ánh những chuyện sai lạc hẳn, rằng hôm nay chúng ta đi vòng một chút, thời tiết đẹp quá. Trong công viên mọi thứ đã nở hết, trước hết là hồng và uất kim hương, những thứ không bán váy áo. (Ngọc Cầm Dương tr. 45)

Tạm dịch: Vì thế bà mẹ mới dẫn Erika đi vòng hướng khác (để cô con gái khỏi mua sắm!), nói trớ rằng hôm nay trời đẹp, mẹ con ta đi vòng một chút. Trong công viên hoa đã nở rộ, nhất là hồng và uất kim hương. Chúng có cần phải mua sắm quần là áo lượt gì đâu nào (mà vẫn cứ đẹp).


24. Schon winkt der achte Bezirk mit warmer Heimatnotdurft, im Stall frisches Heu. Die Mutter atmet auf, sie bugsiert die Tochter, vorbei an Boutiquen, in die Einflugschneise der Josefstädterstraße. Die Mutter freut sich, daß der Spaziergang auch diesmal nicht mehr kostet hat als ihre Schuhsohlen. Besser abgetretene Sohlen, als daß sich einer an den Damen Hohut die Schuhe abputzt. (Jelinek S. 34)

Vùng ngoại vi đã vẫy tay với tiếng gọi ấm áp từ tự nhiên, mùi cỏ mới khô trong chuồng. Bà mẹ thở hắt ra, bà lôi nàng con gái khỏi những cửa hàng thời trang vào khu bãi đỗ Người Josef. Bà mẹ vui mừng vì ngay cả lần đi dạo này cũng không đắt đỏ hơn đôi đế giầy. Việc đế giầy đã đi xuống đất vẫn hơn việc một trong hai quý bà nhà Kohut đi đánh sạch bóng giầy dép trong cửa hàng. (Ngọc Cầm Dương tr. 45)

Heimatnotdurft là từ ghép của Heimat (quê hương/mảnh đất gần gũi) và Notdurft (sự bài tiết của con người), tạm dịch là mùi phân (bón) – vì chẳng lẽ nước Áo của Jelinek lại bón bằng chất thải của người? - đồng nội quen thuộc.

Aufatmen là thở phào nhẹ nhõm, không phải thở hắt ra.

Einflugschneise là giải đất quang quẻ trước đường bay (để không cản trở việc máy bay lên xuống), không phải “khu bãi đỗ”.

Josefstädterstraße là con đường tên Josefstadt. Không dịch thành “Người Josef” được.

Abgetretene Sohlen là đế giầy mòn vẹt, không phải “đã đi xuống đất”.

Sich an jemandem die Schuhe abputzen: khinh rẻ ai (khác với sich die Schuhe abputzen: chùi sạch giầy!)

Tạm dịch: Chưa gì đã thấy quận 8 vẫy gọi kia rồi, với mùi phân đồng nội quen thuộc nồng ấm, mùi cỏ mới cắt chất trong chuồng. Bà mẹ thở phào, kéo cô con gái đi tránh những cửa hàng thời trang, vào khu quang quẻ trên con đường Josefstadt. Bà hớn hở vì lần đi dạo này cũng chẳng khiến bà tốn hao gì hơn là mòn đôi đế giầy. Thà vẹt đế giầy hơn bị người ta khinh rẻ mẹ con bà (Kohut).


25. Hier und dort wagen sich Frühlingsblumen hervor, sie werden von Mutter und Tochter abgepflückt und eingesackt. Recht geschieht ihnen. Vorwitz wird bestraft, dafür steht Frau Kohut senior gerade. (Jelinek S. 36)

Đây đó những đóa hoa xuân ngó ra, chúng sẽ bị mẹ và nàng con gái hái và mang đi. Thể theo nguyện vọng của chúng. Xấc láo sẽ bị trừng phạt, bởi vậy bà Kohut đứng thẳng lên. (Ngọc Cầm Dương tr. 48)

Recht geschieht ihnen: đáng kiếp (chúng nó), không phải “thể theo nguyện vọng của chúng”. Vorwitz: làm tài khôn, tọc mạch. Gerade: thẳng, stehen: đứng; nhưng geradestehen für etwas: bảo đảm điều gì.

Tạm dịch: Đây đó có những đóa hoa xuân (dám) nhô lên, thế là bị hai mẹ con ngắt bỏ vào bao. Đáng kiếp. Làm tài khôn sẽ bị trừng phạt ngay, bà Kohut bảo đảm điều này.


*


Đây đó có những câu hơi lạ tai, như: "Erika đang ở cuối độ tuổi ba mươi. Ở tuổi này, mẹ nàng hoàn toàn có thể trở thành bà ngoại của Erika." (tr. 9) hay "Cô vẫn chưa kết hôn ư, thiếu nữ Erika." (tr. 22). Dịch thành “Erika đã xấp xỉ bốn mươi. Nói về tuổi tác, mẹ nàng thật đáng (tuổi) là bà nội, bà ngoại của nàng” hay “Cô vẫn chưa lập gia đình ư, cô Erika” có được hơn không?

Có lẽ do nữ dịch giả Ngọc Cầm Dương còn quá trẻ, mới ngoài đôi mươi và chưa nhiều kinh nghiệm dịch thuật?

30.12.2006

© 2007 talawas



[1]Nhà xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội, 2006; 359 trang - kể cả phần giới thiệu, dịch từ nguyên tác tiếng Đức của Rowohlt –Verlag.